B ài thơ Độc Tiểu Thanh kí được Đào Duy Anh phát hiện năm 1941 nhờ đọc được tập thơ mượn của một người bạn ở Vinh. Kể từ lúc này bài thơ được nhiều người chú ý và hơn 50 năm sau được đưa vào sách giáo khoa Trung học.
Theo GS. Nguyễn Khắc Phi: “...Việc đặt Độc Tiểu Thanh kí bên cạnh Truyện Kiều trong chương trình Trung học phổ thông là một sự bố trí đẹp” vậy nhưng đến nay vẫn còn ý kiến cho rằng chính bài thơ này vẫn có mấy điểm khó hiểu khiến người ta nghi ngờ về lai lịch của nó. Cái khó hiểu đầu tiên ở mấy chữ “Tam bách dư niên” ở câu 7 (1), thứ nữa đây lại là một bài thơ thất niêm, thất luật. Hãy xem lại bài thơ:
Phép làm thơ luật Đường có quy định về “niêm” buộc chữ thứ nhì của các cặp câu 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 phải cùng bằng hay trắc. Theo quy định này bài thơ trên đã thất niêm: chữ thứ nhì của câu đầu là chữ “Hồ” (vần bằng) không niêm với chữ thứ nhì câu 8 là chữ “hạ” (vần trắc); chữ thứ nhì câu 6 là chữ “vận” (vần trắc) không niêm với chữ thứ nhì của câu 7 là “tri” (vần bằng) .
Ngoài “niêm” còn có “luật” quy định bằng, trắc ở chữ thứ 2, 4, 6 của tất cả các câu. Cấu trúc của một bài thơ luật Đường luật bằng vần bằng phải như sau:
Nhất, tam, ngũ, bất luận / Nhị, tứ, lục, phân minh. Chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm có thể không cần bàn nhưng chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu buộc phải đúng luật (các chữ được tô màu). Căn cứ cấu trúc trên, 6 câu đầu bài Độc Tiểu Thanh kí thuộc luật bằng, vậy nhưng 2 câu cuối lại có đến 6 chữ tri, bách, niên, hạ, nhân, Tố làm sai luật.
Bài thơ vừa thất niêm lại vừa thất luật với tổng cộng đến 10 lỗi.
Nhiều ý kiến cho rằng Nguyễn Du là nhà thơ danh tiếng lại từng là khảo quan, đã đánh hỏng bao nhiêu sĩ tử vì lỗi làm thơ thất niêm, thất luật thì không lẽ gì chính mình lại làm thơ thất niêm, thất luật. Lại có các ý kiến khác biện giải cho rằng việc làm thơ như thế trong Đường thi không hiếm. Các thánh thi như Đỗ Phủ, Lí Bạch vẫn làm thơ sai niêm, sai luật với mục đính phá cách nhằm nhấn mạnh một ý nào đó trong bài thơ…
Vậy nhưng xem kĩ lại thì đây không thuộc trường hợp tác giả cố ý phá cách để tạo nét độc đáo cho nội dung. Việc này, Học giả Nguyễn Quảng Tuân có viết: “...Có phải Nguyễn Du muốn “phá cách” chăng? Chúng tôi không cho là như vậy, vì các bài thơ “phá cách” đều được phá ngay từ câu mở đầu, chứ không có trường hợp nào sáu câu đầu làm theo luật bằng và hai câu cuối lại làm theo luật trắc...”(3)
Một hướng giải quyết khúc mắc khác do tác giả Linh Đàn(4) trưng ra một dị bản (không thất niêm, thất luật) của bài thơ. Xin lược trích lại như sau:
“...Trong những năm kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), ở vùng Lan Đình, Gio Linh chúng tôi, việc học hành vô cùng khó khăn, trở ngại trăm bề, không thể đến trường học chữ Quốc ngữ được, nên phải ở nhà học chữ Hán. Thầy dạy chúng tôi là cụ cử nhân Trần Doãn Trai tham tri bộ Hộ hồi hưu [...]. Thầy bắt đầu dạy thơ chữ Hán, vào đầu năm 1950 đường sá đi lại có dễ hơn một chút, Thầy viết thư bảo tôi vào làng Hà Trung (phía nam huyện Gio Linh) đến nhà cụ Khôi (thuộc dòng thượng thư họ Trần Đình) mượn bộ sách “Thượng Thi Tập Ngâm” đem về sao chép. [...]. Tôi còn nhớ rất kỹ, chính tay tôi sao chép cả năm trường mới được hai quyển, vì hồi đó chiến tranh, phần thì phải trốn giặc Tây, phần thì canon, moóc chê nổ bất thình lình, nên khi viết được khi không, chưa chép đến quyển Hạ thì cụ Khôi đến đòi lại, vừa trả sách được mấy hôm, Tây về đốt nhà Thầy lần thứ hai, cháy luôn hai quyển vừa mới chép, may mà trả lại được bộ cũ. Thế rồi Thầy cũng thôi dạy, chúng tôi cùng theo học trường chiến khu vùng Việt Minh.
Trong thời gian chép tay tôi thuộc được nhiều bài thơ, trong đó có bài ĐỘC TIỂU THANH KÍ, Thầy tôi say sưa với bài thơ này, rồi chúng tôi cũng ngâm theo Thầy, thành ra thuộc lòng như thế này:
ĐỘC TIỂU THANH KÍ (dị bản)
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Dịch:
Tờ xưa song quạnh viếng người
Tây Hồ vườn cũ bời bời gò hoang
Hận này khó vạch trời oan
Lòng ta xin với lòng nàng cùng chia
Tinh hoa di ảnh còn kia
Văn chương lửa táp não nề tờ mây
Ba trăm năm nữa ai đây
Khóc thương căn chướng đọa đầy Tố Như...” (5)
Dị bản nêu trên là sự thay đổi vị trí của một số câu trong nguyên bản nhằm làm cho bài thơ trở thành đúng niêm, đúng luật nhưng cấu trúc ý bị phá hỏng do xáo trộn nhiều.
Nhìn chung các hướng giải quyết trên chưa biện minh được cho lỗi thất niêm thất luật của bài thơ khiến ta nghi ngờ: hay là bài thơ này không phải do chính Nguyễn Du đã làm đủ 8 câu như thế mà chỉ là sự ngụy tác của người đời sau bằng cách ghép 6 câu đầu của bài thơ Độc Tiểu Thanh kí với 2 câu thơ về sau được Nguyễn Du làm trước lúc từ trần.
Có thể lắm bởi hơn trăm năm sau khi Nguyễn Du mất vẫn lưu truyền chuyện Nguyễn Du là nạn nhân trận dịch tả kinh hoàng năm 1820. Không chịu uống thuốc, đến lúc người nhà sờ thấy chân tay lạnh, ông đọc 2 câu thơ “Bất tri tam bách dư niên hậu,/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. Câu thơ là lời cảm thán lúc từ trần. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền cũng có ghi là trước khi mất, Nguyễn Du đã đọc hai câu thơ trên.
Hai câu thơ được biết cả trăm năm trước trong khi bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” thì không tăm tích bởi một lí do đơn giản: biến động thời cuộc khiến sách vở mất mát nhiều, cả 3 tập thơ Thanh Hiên thi tập, Bắc Hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm khó truy tìm. Ta đọc đoạn Thủy Sinh viết sau đây trên diễn đàn Viện Việt Học:
“...Việc thu thập, hiệu đính và dịch ra quốc âm, quốc ngữ các trước tác của Nguyễn Du chủ yếu được tiến hành tập trung từ đầu thế kỷ XX. Trước hết, các học giả tìm đến các thư viện, kho lưu trữ, gia phả và những người dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Tiếc thay, ở thư viện Viễn Đông bác cổ chỉ còn một tập thơ "Bắc hành tạp lục" và bây giờ thì ta biết, trong đó không có bài thơ về nàng Tiểu Thanh rồi, mặc dù xét về đề tài thì nó có thể thuộc loại thơ vịnh Bắc sử như rất nhiều bài thơ đi sứ khác của Nguyễn Du. Trong thư viện này, cũng còn lưu giữ được tên một tập thơ khác của Nguyễn Du, đó là "Nam trung tạp ngâm", nhưng chính tập thơ thì đã mất lúc nào không rõ. Tình hình sưu tầm tại nhà Nguyễn Du cũng gặp khó khăn. Khi biên soạn cuốn "Truyện cụ Nguyễn Du" (xuất bản năm 1924), Lê Thước và Phan Sĩ Bàng được biết, theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền thì Nguyễn Du để lại 3 tập thơ chữ Hán: "Thanh Hiên tiền hậu tập", "Nam trung tạp ngâm" và "Bắc hành tạp lục". Lúc đó, ông nghè Nguyễn Mai, cháu họ xa của Nguyễn Du nhưng là người gần nhất còn lại ở quê, có đủ cả bộ. Năm 1923, cụ Lê Thước đã mượn và sao chép lại, nhưng trong đó có lẽ không có bài "Độc Tiểu Thanh kí" hoặc nếu có thì chỉ còn sáu câu [...]. Bởi vì, những ai đã tiếp xúc với bản "Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền" đều phải được biết rằng trong ấy ghi: trước khi mất, Nguyễn Du đã "khẩu chiếm" (kêu than lúc trăng trối) bằng hai câu thơ mà bây giờ là hai câu cuối của "Độc Tiểu Thanh kí"! Chính Lê Thước và Phan Sĩ Bàng công bố chi tiết "khẩu chiếm" nói trên và nói có trong tay đầy đủ cả bộ ba tập thơ (mà sau đó cũng chỉ cho ra mắt lẻ tẻ) thì dù bài thơ không có tiêu đề, chỉ cần có 6 câu thơ trên thôi, cũng không sớm thì muộn phải được ghép thử 2 phần thơ lại với nhau và có ý kiến khác với thuyết "khẩu chiếm" rồi. Tạp chí Nam Phong số 161, năm 1931, phần chữ Hán, có đăng "Tiên-điền Nguyễn Du di trước" nhưng chỉ có 13 bài thơ, trong đó không có "Độc Tiểu Thanh kí": thuyết "khẩu chiếm" vẫn ngự trị dư luận. Phải đến chục năm sau, khoảng năm 1940 - 1941, ông Đào Duy Anh mới tìm về họ Nguyễn Tiên Điền và lúc này được biết, ông nghè Nguyễn Mai chỉ còn giữ được một tập thơ khác với "Gia phả" và nhóm Lê Thước đã cho biết, mang tên "Nguyễn gia phong vận tập", trong đó có chép được mấy chục bài thơ của Nguyễn Du (cùng với thơ của nhiều người khác trong họ về đời trước và cùng thời). Trong số này, không thể có bài "Độc Tiểu Thanh kí" 6 câu bởi vì các bài thơ đều phải hoàn chỉnh theo yêu cầu của tuyển thơ dòng họ và, nếu có nguyên bài thì người ta phải xem lại thuyết "khẩu chiếm". Lý do ông Nguyễn Mai không còn trong tay bộ 3 tập thơ Nguyễn Du thật đơn giản: "vua Tự Đức có lệnh cho quan tỉnh Nghệ An đương thời thu thập tất cả di cảo của Nguyễn Du để xem" (Đào Duy Anh). Cụ Nguyễn Đình Ngân, cựu giám đốc Văn hóa viện ở Huế có cho biết là đã từng được xem tập di cảo thơ chữ Hán của Nguyễn Du, nhưng từ năm 1946 thì tổ chức cách mạng không mang đi theo kháng chiến được. Bây giờ nước nhà đã thống nhất, nếu chưa tìm ra được tập di cảo này, thật là tiếc (vì đó là chính bản). Ngay sau đó, ông Đào Duy Anh may được một người bạn ở Vinh cho mượn một tập thơ đề là "Thanh Hiên thi tập" gồm 131 bài, trong đó có chép lẫn 55 bài thuộc "Bắc hành tạp lục", còn thơ trong "Nam trung tạp ngâm" thì vẫn vắng bóng. Trong tập thơ này, có bài "Độc Tiểu Thanh kí". Theo ông Đào Duy Anh nói với chính tôi vào dịp tết năm 1973 (khi đó tôi là sinh viên khoa Ngữ Văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nhà ở lô B5 Khu tập thể Kim Liên Hà Nội, đến chúc tết ông Đào Duy Anh ở B6; con đường chạy qua trước nhà tôi khi ấy, bây giờ được đặt tên ông): Khi đọc đến hai câu cuối của bài thơ đó, ông giật mình, nhớ ngay tới hai câu thơ "khẩu chiếm" . Và sau đó, ông đã có lời đính chính lại trong thời gian trước 1945, rằng hai câu thơ đó là trong bài "Độc Tiểu Thanh kí" chứ không phải là hai câu thơ tuyệt mệnh cùa Nguyễn Du...”
Vậy là Đào Duy Anh ban đầu cũng cho rằng 2 câu thơ trên là khẩu chiếm, về sau lại đính chính rằng đây chính là 2 câu cuối của bài “Độc Tiểu Thanh kí”. Xem ra cụ Đào Duy Anh đã có phần cả tin khi chỉ có trong tay tập thơ chép tay của một người bạn cho mượn. Độ chính xác của tập thơ không có gì đáng tin cả bởi tuy tập thơ gọi là "Thanh Hiên thi tập" mà lại chép lẫn vào đến 55 bài thuộc "Bắc hành tạp lục" và trong đó lại có bài “Độc Tiểu Thanh kí”(!).
Ngày xưa, người ta thường ít tôn trọng nguyên tác: Mượn được tập sách, tập thơ về người ta sao đi chép lại rồi tự ý thêm thắt, sửa chữa theo ý mình, dẫn đến tình trạng tam sao thất bổn. Trong cuộc sống khó khăn, việc lưu trữ tài liệu ít chu đáo nên không chừng bài Độc Tiểu Thanh kí Nguyễn Du làm từ thời trai trẻ về sau chỉ còn được 6 câu… mãi mấy chục năm sau một nho sinh nào đó đó đã lấy 2 câu “khẩu chiếm” chắp vào cho trọn bài mà không để ý đến tình trạng thất niêm, thất luật... Rồi có thể người chép bộ sách “Thượng Thi Tập Ngâm” nhà cụ Khôi ở Quảng Trị khi thấy các lỗi của bài thơ đã tự ý “sửa sai” bằng cách xáo trộn thứ tự các câu để chỉnh lại cho đúng niêm, luật khiến sinh ra dị bản (!).
Suy cho cùng việc ngụy tác bài thơ Độc Tiểu Thanh kí ở 2 thế kỉ trước rất có thể đã xảy ra.
CHÚ THÍCH:
(1) Những chữ có khung tô màu trong bài thơ là chữ thất niêm, những chữ màu đỏ in đậm là chữ thất luật. Riêng chữ có khung tô màu lại in đậm màu đỏ là chữ vừa thất niêm, vừa thất luật.
(2) Vấn đề đã trình bày ở bài “…người đời ai khóc Tố Như chăng” ; KIẾN THỨC NGÀY NAY số 892, ngày 20.5.2015.
(3) NGUYỄN QUẢNG TUÂN; Cần phải tìm hiểu chính xác hơn bài "Độc tiểu thanh kí" của Nguyễn Du; Tạp chí Hán Nôm số 1 (18) năm 1994. Học giả Nguyễn Quảng Tuân không nhất trí quan điểm sau của GS, Nguyễn Khắc Phi về vấn đề phá cách trong thơ Đường “...Có những bài mật độ thất niêm thất luật dày đặc. thậm chí gần như thất niêm thất luật cả bài như “Trú mộng”, “Sầu”..của Đỗ Phủ. Chính Đỗ Phủ đã tự chú thích cho bài Sầu bằng mấy chữ: "Cưỡng hí vi Ngô thể" (Gượng đùa làm thơ theo Ngô thể). Thơ Ngô thể tức là Thơ ảo thể. Thơ ảo thể là "luật thi - thơ bát cú - hay tuyệt cú mà cả bài không theo luật bằng trắc thông thường;nếu một cặp câu trong đó không theo luật bằng trắc thông thường thì gọi là thơ ảo cú…".
(4) LINH ĐÀN – Nguyễn Hữu Kiểm quê ở Lan Đình - Quảng Trị, hiện sống tại TP.HCM. Bài đăng trên chuyên san CLB Unessco Thơ Đường Việt Nam – Chi nhánh Tp HCM, tháng 7 năm 2006 và trên Văn nghệ Quảng Trị.
(5) http://nonnuocbinhkhe.blogspot.com/2011/01/22-oc-tieu-thanh-ky-2.html.