Q uốc gia Văn Lang, hay thời kỳ Hùng Vương, được xem là thời kỳ khởi nguyên của dân tộc Việt, nhưng trong giai đoạn trước, những thông tin mà chúng ta biết được về quốc gia và thời kỳ này hầu như là rất mù mờ, không rõ ràng, cũng như xung quanh quốc gia Văn Lang và thời kỳ Hùng Vương, đã xuất hiện những luồng tư tưởng phủ nhận, cho rằng không tồn tại thời kỳ Hùng Vương, cũng không tồn tại một quốc gia Văn Lang, khiến cho vấn đề đã không rõ ràng lại càng trở nên khó xác định.
Cơ sở của sự phủ nhận chủ yếu dựa vào sự ghi chép thành văn muộn về họ Hồng Bàng, quốc gia Văn Lang và thời kỳ Hùng Vương trong sách Lĩnh Nam chích quái và Đại Việt sử ký toàn thư. Bên cạnh đó, còn một yếu tố cũng có sự tác động lớn, đó là quốc gia Văn Lang được ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái và Đại Việt sử ký toàn thư, có lãnh thổ bao trùm vùng phía nam sông Dương Tử tới Việt Nam, điều này dẫn tới hai vấn đề: thứ nhất, đó là nói về quốc gia Văn Lang là đang động chạm tới lãnh thổ của Trung Quốc, nhiều người có xu hướng thân văn hóa Trung Hoa cho rằng người Việt nói tới quốc gia Văn Lang là đang nhận vơ lãnh thổ của Trung Quốc. Thứ hai, thì với quan niệm phổ biến cho rằng người Việt thời kỳ văn hóa Đông Sơn hay thời kỳ Hùng Vương là những bộ lạc nguyên thủy, dã man, thì nhiều người đã cho rằng người Việt không thể làm chủ một quốc gia rộng lớn như vậy!
Tựu chung, thì những tư tưởng này đã dẫn tới sự phủ nhận tuyệt đối về quốc gia Văn Lang và thời kỳ Hùng Vương, cho rằng nó không thể tồn tại, nếu có tồn tại, thì cũng chỉ nằm trong vùng miền Bắc Việt Nam như bản đồ dưới. Họ chấp nhận về sự tồn tại của quốc gia Văn Lang từ các ghi chép của người Việt nhưng lại phủ nhận lãnh thổ cũng được các ghi chép của người nhắc đến, phủ nhận sự liên hệ của người Việt với Bách Việt mà không hề tìm hiểu về những cơ sở thực tế của nó, bóp méo những ghi chép của người Việt theo xu hướng mà họ cảm thấy phù hợp.
Trong thực tế, qua sự khảo cứu một cách kỹ lưỡng, tất cả những bằng chứng vững chắc nhất: di truyền, khảo cổ, lịch sử, văn hóa đều cho thấy cơ sở tồn tại của quốc gia Văn Lang. Chúng tôi sẽ từng bước xác định về nguồn gốc của cộng đồng tộc Việt, của quốc gia chung của người Việt, từ đó cho thấy những cơ sở thực tế của quốc gia Văn Lang và thời kỳ Hùng Vương trong lịch sử thời cổ đại.
A. NGUỒN GỐC, SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC VÀ Ý THỨC DÂN TỘC:
Đầu tiên, để biết được cơ sở về sự tồn tại của quốc gia Văn Lang, chúng ta cần xác định được nguồn gốc của dân tộc Việt là như thế nào, việc cho rằng người Việt là người “bản địa”, phát triển tại chỗ và không di cư đi đâu trong xuyên suốt lịch sử đã trực tiếp hay gián tiếp gây ra các luồng tư tưởng phủ nhận về quốc gia Văn Lang. Trong thực tế, người Việt được hình thành từ các cuộc di cư lên xuống trong vùng Đông Á và Đông Nam Á.
Tiến trình hình thành phát triển của tộc Việt và người Việt đã được chúng tôi tìm hiểu trong một số bài khảo cứu khác [1][2], các nghiên cứu di truyền đã cho thấy các dòng di cư hình thành nên nguồn gốc của người Việt, 2 dòng di cư chính hình thành nên văn hóa Đông Á cổ và cộng đồng tộc Việt, là từ cư dân văn hóa Hòa Bình từ vùng Đông Nam Á di cư lên [3][4][5][6]và cư dân Bắc Á với dấu tích tại hang Devil’s Gate di cư xuống, các cuộc di cư này diễn ra vào khoảng 12000 năm trước. Đây là hai dòng di cư hình thành nên văn hóa Đông Á cổ trong vùng đồng bằng sông Dương Tử, đồng bằng sông Hoàng Hà và đồng bằng sông Liêu, tiến trình phát triển và sự hình thành văn hóa có thể tóm tắt như bản đồ dưới đây.
Bản đồ minh họa nguồn gốc và tiến trình phát triển của các văn hóa cổ Đông Á của người cổ Đông Nam Á, người tiền Việt và tộc Việt. Bản đồ thể hiện vị trí và phân bố tương đối của các văn hóa lớn thời Đá mới tại vùng bắc Đông Á và nam Đông Á. (Dựa theo Liu Li và Chen Xingcan (2012) trong The Archaeology of China: From the Late Paleolithic to the Early Bronze Age.)
Vào khoảng 5500 năm trước, đã diễn ra cuộc di cư của cư dân bắc Đông Á về vùng Dương Tử của cư dân các văn hóa phía Bắc [7][8], hình thành cộng đồng tộc Việt. Cư dân tộc Việt trong vùng Dương Tử đã hình thành các văn hóa lớn đó là Lương Chử và Thạch Gia Hà, văn hóa Lương Chử đã được các nhà khảo cổ chứng minh có tổ chức nhà nước sớm nhất trong vùng Đông Á [9][10], với niên đại khoảng 5300 năm trước, tại văn hóa Thạch Gia Hà, thì văn hóa Thạch Gia Hà có thể được coi như một nhà nước cổ đại với tổ chức xã hội tương đối tiên tiến của nó [11][12]. Các học giả Trung Quốc cho rằng các văn hóa trong vùng Dương Tử như Thạch Gia Hà hay trước đó là Lương Chử phức tạp hơn về mặt xã hội và phát triển hơn so với các văn hóa cùng thời ở vùng bắc Đông Á. [11].
Các văn hóa này là cơ sở chứng minh về tổ chức nhà nước của cộng đồng tộc Việt, cũng là cơ sở chứng minh trình độ văn minh của cộng đồng này. Các nhà nước này chiếu theo các ghi chép của người Việt, thì chính là quốc gia Xích Quỷ, với địa bàn chỉ trong vùng Dương Tử, cũng nằm ở hai vùng chính là trung lưu và hạ lưu sông Dương Tử, địa bàn phân bố của các văn hóa này.
Bản đồ minh họa vị trí và vùng phân bố của các văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà. Dựa theo Liu Li và Chen Xingcan (2012) trong The Archaeology of China: From the Late Paleolithic to the Early Bronze Age.
Tại văn hóa Lương Chử, cũng chính là nơi hình thành ý thức dân tộc Việt, với hiện vật bình gốm có khắc 4 chữ thể hiện ý thức Việt có biểu tượng là chiếc rìu lễ khí, sau đó hình ảnh tiếp tục được phát triển thành hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu trong văn hóa Thạch Gia Hà và kế thừa tới văn hóa Đông Sơn.
Trong văn hóa Lương Chử, văn hóa đầu tiên hình thành cộng đồng tộc Việt, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một chiếc nồi gốm đen có khắc 4 ký hiệu, đây là các ký hiệu có ý nghĩa rất quan trọng để có thể biết thêm thông tin về sự hình thành của tộc Việt.
Nhà nghiên cứu Trung Quốc, Đổng Sở Bình đã giải mã ý nghĩa các chữ này dựa trên sự so sánh về văn tự, tìm hiểu về bối cảnh lịch sử, nguồn gốc dân tộc của văn hóa Lương Chử, so sánh với các cách giải mã đã có trước đó của các học giả, ông đã giải mã các chữ này là “方钺会矢” – “Phương Việt hội thi”, có thể hiểu là “Liên minh quốc gia Việt” [13], các chữ này được viết và đọc theo thứ tự từ trái qua phải, theo như cách viết truyền thống của người Việt. Cách giải mã này đã giải thích khá vẹn toàn các ký hiệu trên bình gốm của văn hóa Lương Chử, có nhiều học giả không xem đây là chữ viết, chỉ đơn thuần là biểu tượng đại diện cho một ý niệm nào đó, nhưng cũng có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nó là chữ viết, và đã thử giải mã nó, trong đó bao gồm một số cách giải mã như sau: đầu tiên là cách giải mã “方钺会矢” của Đổng Sở Bình như chúng tôi đã dẫn, cách thứ hai là của Lý Học Cần: “戉五簇” [14], hay cách giải nghĩa của Vương Huy: “巫戌五俞” [15], cách giải thích của Lý Học Cần không giải quyết được vẹn toàn 4 ký hiệu trên bình gốm Lương Chử, cách giải thích của Vương Huy lại sử dụng chữ 戌 (tuất) để chỉ biểu tượng chiếc rìu, trong khi thực tế biểu tượng chiếc rìu là đại diện cho chữ Việt như chúng tôi đã chứng minh ở trên, được thể hiện trong cả Giáp Cốt văn, nên cách giải thích này có thể bác bỏ. Chỉ duy nhất cách giải nghĩa của Đổng Sở Bình phù hợp với hình thái văn tự, thực tế lịch sử và nguồn gốc dân tộc của văn hóa Lương Chử.
Đây là tư liệu hoàn toàn phù hợp với các tài liệu khảo cổ cho thấy văn hóa Lương Chử đã có một tổ chức nhà nước phát triển, tư liệu này cũng cho thấy nơi đây cũng là nơi hình thành nên cộng đồng tộc Việt, với hình thức quốc gia được tổ chức dưới dạng liên minh nhà nước, với trung tâm là văn hóa Lương Chử, sau đó được chuyển về vùng trung lưu Dương Tử với văn hóa Thạch Gia Hà.
4 biểu tượng trên nồi gốm văn hóa Lương Chử được giải mã cho thấy ý thức Việt đã xuất hiện từ thời văn hóa Lương Chử. [13]
Hình ảnh thực tế chiếc bình gốm có khắc chữ của văn hóa Lương Chử. [Nguồn: CSSToday, dẫn]
Tới thời văn hóa Thạch Gia Hà, thì biểu tượng Việt phát triển trở thành hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu, trên chiếc chum gốm của văn hóa Thạch Gia Hà đã được khắc hình ảnh thủ lĩnh đội mũ lông chim và cầm rìu, đây là chữ Việt hoàn thiện hơn so với chữ Việt theo hình tượng cái rìu, được người Việt tiếp tục kế thừa trong văn hóa Đông Sơn.
Hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu trên chum gốm văn hóa Thạch Gia Hà. [16]
Hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu biểu trưng cho tên gọi Việt trong văn hóa Thạch Gia Hà tiếp tục được người Việt kế thừa trong văn hóa Đông Sơn, với hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu xuất hiện rất phổ biến trên các trống đồng Đông Sơn. Đây chính là văn hóa quan trọng nhất trong thời kỳ Hùng Vương, sự xuất hiện của ý thức Việt văn hóa này cùng với sự xuất hiện rộng khắp các vùng tộc Việt của rìu đồng Đông Sơn đã cho thấy một ý thức dân tộc thống nhất của cộng đồng tộc Việt.
Hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu và đội mũ lông chim tương tự như văn hóa Thạch Gia Hà xuất hiện rất phổ biến trên các trống đồng Đông Sơn. Hoa văn trên là ở trống đồng Ngọc Lũ. [17]
Vào thời điểm hơn 4000 năm trước, do hạn hán trong vùng Dương Tử [18], cư dân tộc Việt đã di cư về phía Nam, di tản ra vùng Lĩnh Nam, Việt Nam, Đông Nam Á lục địa và hải đảo, cuộc di cư này là của các cư dân thuộc các ngữ hệ Nam Á và Nam Đảo. [19][20]
Các tuyến di cư chính giữa Nam Đông Á và Đông Nam Á thời cổ đại. [19]
Bản đồ phân tán các hệ ngữ Nam Á, Nam Đảo, Tai-Kadai và Hán-Tạng. [21]
Trong cuộc di cư này, thì cộng đồng tộc Việt tiếp tục phát triển trong một cộng đồng chung từ vùng Dương Tử về tới Việt Nam, kế thừa nhà nước đã có từ các văn hóa trong vùng Dương Tử, chiếu theo những ghi chép của người Việt, thì chính là quốc gia Văn Lang, hậu duệ trực tiếp của nước Xích Quỷ. Chúng tôi sẽ từng bước chứng minh cơ sở về sự tồn tại của quốc gia Văn Lang, bắt đầu từ việc xác định cơ sở từ các ghi chép của người Việt và người Trung Hoa, kế đó, sẽ là tất cả những bằng chứng di truyền, khảo cổ, văn hóa cùng chứng minh về sự tồn tại của quốc gia Văn Lang.
B. CÁC CƠ SỞ VỀ SỰ TỒN TẠI CỦA QUỐC GIA VĂN LANG:
Để xác định cơ sở về sự tồn tại của quốc gia Văn Lang, chúng ta cần phải kết hợp so sánh, đối chiếu các hướng nghiên cứu khác nhau, trong đó cốt lõi là các nghiên cứu di truyền, khảo cổ, đó là những bằng chứng vững chắc để có thể xác định về sự tồn tại của một quốc gia, bên cạnh đó, các ghi chép lịch sử đa chiều của Việt Nam và Trung Quốc, các nghiên cứu văn hóa, ngôn ngữ, cũng sẽ xác định về sự tồn tại quốc gia Văn Lang.
I. Cơ sở từ các ghi chép lịch sử, truyền thuyết của người Việt và người Trung Hoa:
Những ghi chép đầu tiên về các quốc gia của người Việt, là trong sách Đại Việt sử ký toàn thư và trong sách Lĩnh Nam chích quái, tác giả sách Lĩnh Nam chích quái đã dựa vào các truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian, sau đó đã chép thành văn vào thời nhà Trần, không phải thời điểm đó mới xuất hiện, sách Lĩnh Nam chích quái, vấn đề cơ sở của các truyện trong Lĩnh Nam chích quái đã được chúng tôi khảo cứu trong các bài viết khác [22][23][24], các bằng chứng đều cho thấy các truyện này vốn được truyền trong dân gian, tác giả Trần Thế Pháp chỉ chép lại, không phải do ông tự sáng tác nên. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng như vậy, tác giả Ngô Sĩ Liên đã dựa vào những lưu truyền trong dân gian để chép lại, không phải bắt nguồn từ sách Lĩnh Nam chích quái như đề xuất của một số tác giả. [22]
Những ghi chép của cả Đại Việt sử ký toàn thư và Lĩnh Nam chích quái đã ghi rõ về các quốc gia Xích Quỷ và Văn Lang. Đầu tiên là quốc gia Xích Quỷ, đây là quốc gia do Kinh Dương Vương làm chủ, trong tên hiệu của Kinh Dương Vương có ba thành phần: Kinh, Dương và Vương, có nghĩa, ông là người làm chủ hai châu Kinh và châu Dương, đây là hai châu tương ứng với vùng trung lưu và hạ lưu sông Dương Tử của các văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà. Vì vậy, các sách của người Việt chép về “nước Xích Quỷ” hoàn toàn có cơ sở về thực tế khảo cổ học.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Nhâm Tuất, năm thứ 17. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dương Vương]. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương. Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt.” [25]
Truyện họ Hồng Bàng chép: “Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi nam tuần đến Ngũ Lĩnh, gặp được nàng con gái Vụ Tiên đem lòng yêu mến mới cưới đem về, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh túc thành; Đế Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi vua; Lộc Tục cố nhường cho anh. Đế Minh lập Đế Nghi làm tự quân cai trị phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ Quốc. Kinh Dương Vương xuống thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân; Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu.” [26]
Sự thống nhất dưới một quốc gia, dưới một ý thức dân tộc thống nhất là cơ sở quan trọng để thấy được sự kế thừa nhà nước của tộc Việt trong các giai đoạn sau, sự thống nhất đã có từ trước đó tiếp tục được tộc Việt kế thừa, hình thành bộ gen thống nhất, cũng như cùng có chung một nền văn hóa cuối cùng thời kỳ đồ đồng là văn hóa Đông Sơn. Các ghi chép lịch sử của người Trung Hoa và Việt Nam cũng xác định cơ bản về quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt sau giai đoạn 4000 năm, khi văn minh Dương Tử hay quốc gia Xích Quỷ sụp đổ.
Quốc gia của tộc Việt trong cổ sử Trung Hoa được chép lần đầu tiên dưới khái niệm Giao Chỉ, sau đó, thì quốc gia chung của tộc Việt cũng tiếp tục được chép trong sách Thông Điển của Đỗ Hữu đời Đường.
Hoài Nam Tử của Lưu An viết vào thời nhà Hán, trong thiên Tu vụ huấn viết: “Vua Nghiêu lên làm vua, hiếu từ nhân ái, khiến dân như con em, phương Tây dạy mán ốc dân, phương Đông đến mán Hắc xỉ, phương Bắc vỗ về đất U Đô, phương Nam thông nước Giao Chỉ.” [27]
Lã Thị Xuân Thu do Lã Bất Vi soạn thời nhà Tần, trong thiên Thận hành luận, chép về lãnh thổ vua Vũ thời nhà Hạ: “南至交阯孫樸續樠之國丹粟漆樹沸水漂漂九陽之山羽人裸民之處” – “Phía nam đến các nước Giao Chỉ, Tôn Bốc, Tục Man, các núi Đan Túc, Tất Thụ, Phất Thủy, Phiêu Phiêu, Cửu Dương, các xứ Vũ Nhân, Khỏa Dân, hương Bất Tử.” [A]
Quốc gia của cộng đồng tộc Việt tương ứng với khái niệm “Giao”, được sử dụng để chỉ chung các vùng đất thuộc lãnh thổ từng thời kỳ của tộc Việt, bắt đầu từ thời nhà Hạ tới tận thời phong kiến. Giao Chỉ ở đây ở phía Nam của nhà Hạ, bởi vậy, lãnh thổ của tộc Việt thời kỳ này là trong Dương Tử. Quốc gia của cộng đồng tộc Việt sau giai đoạn này được ghi chép tương ứng với địa bàn của cộng đồng tộc Việt sinh sống, là từ vùng Dương Tử về phía Nam.
Sách Thông Điển của Đỗ Hữu 杜佑 thời Đường (801), phần Châu quận chép: “自嶺而南,當唐、虞、三代為蠻夷之國,是百越之地” – “Từ dải núi Ngũ Lĩnh về phía nam, vào thời Đường – Ngu, Tam đại là nước của người Man Di, là đất của người Bách Việt .”. Sách này chú thêm: “或曰自交趾至於會稽七八千里,百越雜處,各有種姓.” – “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, bảy tám ngàn dặm, người Bách Việt xuất hiện khắp mọi nơi, mỗi nơi đều có một chủng tính.”
Như vậy, thì vùng nam Dương Tử là đất của tộc Việt (người Bách Việt), họ đã có một quốc gia chung đương thời với Đường – Ngu, Tam Đại (Hạ – Thương – Chu) của người Hoa Hạ. Chi tiết “vào thời Đường – Ngu” cho thấy thời điểm được nhắc tới trong ghi chép này là khoảng 4300 năm trước, tương ứng với văn hóa Thạch Gia Hà, thời điểm này thì cộng đồng tộc Việt chưa di cư về phía Nam, nên lãnh thổ của quốc gia tộc Việt bao gồm vùng Dương Tử, tới sau thời điểm 4000 năm, diễn ra hạn hán [18] trong vùng Dương Tử đã thúc đẩy tộc Việt di cư về Lĩnh Nam, Việt Nam và Đông Nam Á [19][20], trong đó tầng lớp tinh hoa đã trở về Việt Nam, thì lãnh thổ mới kéo dài theo dòng di cư của người Việt. Sau khi diễn ra cuộc di cư vào khoảng 4000 năm trước, cộng đồng tộc Việt tiếp tục phát triển trong một cộng đồng chung, một quốc gia chung, với lãnh thổ kéo dài hơn, từ vùng Dương Tử trở về Việt Nam, đây cũng chính là vùng sinh sống của các cư dân tộc Việt.
Trong sách Hán thư, Địa lý chí, cũng chép về địa bàn sinh sống của cộng đồng tộc Việt từ vùng Ngũ Lĩnh về Nam, nhưng địa bàn của tộc Việt rộng hơn thế, như Thần Toản đã chú thích là “từ Giao Chỉ đến quận Cối Kê”, tương đồng với ghi chép trong sách Thông Điển của Đỗ Hữu.
Sách Hán thư, Địa lý chí chép: “粵地牽牛、婺女之分壄也。今之蒼梧、鬱林、合浦、交阯、九真、南海、日南皆粵分也。其君禹後帝少康之庶子云封於會稽臣瓚曰「自交阯至會稽七八千里百越雜處各有種姓不得盡云少康之後也。” – “Đất Việt ở phân dã của chòm sao Khiên Ngưu, Vụ Nữ. Các quận Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam ngày nay đều là phân dã của đất Việt. Có quân trưởng của đất ấy là dòng dõi của vua Vũ, đấy là con thứ của vua Thiếu Khang được phong ở núi Cối Kê, Thần Toản nói: “Từ quận Giao Chỉ đến quận Cối Kê dài bảy, tám ngàn dặm có các nhóm người Bách Việt ở lẫn, đều có nhánh họ, không nên nói đều là dòng dõi của vua Thiếu Khang.” [B]
Đây là các ghi chép sớm nhất trong cổ sử Trung Hoa, chúng đã trực tiếp chứng minh người Việt có nhà nước từ thời Đường – Ngu, tức là khoảng 4300 năm trước, tương ứng với với văn hóa Thạch Gia Hà, văn hóa đã được chứng minh theo các nghiên cứu khảo cổ học là có tổ chức nhà nước phát triển [11][12], như vậy thì những ghi chép của người Trung Hoa là chính xác, tiếp theo, thì Thông Điển của Đỗ Hữu cũng nhắc tới cả Tam Đại, tức bao gồm cả các triều Thương – Chu, thì người Việt cũng có một quốc gia đương thời với các triều đại Hoa Hạ.
Từ những ghi chép của Trung Hoa, chúng ta đã thấy được tộc Việt có một nhà nước chung tương ứng với địa bàn sinh sống của cộng đồng này, nó cũng bao gồm cả vùng miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Xét theo chiều ngược lại, thì những ghi chép của người Việt cũng cho thấy tộc Việt đã có một quốc gia chung từ Việt Nam tới hồ Động Đình (Dương Tử), chính là quốc gia Văn Lang của các vị vua Hùng.
Trong các tài liệu lịch sử của Trung Quốc, cũng chép rất rõ về Hùng Vương và đất Giao Chỉ, cho thấy Hùng Vương là những người làm chủ đất Giao Chỉ, là khái niệm tương ứng với sự biến động lãnh thổ từng thời kỳ của quốc gia Văn Lang, các tài liệu cũng không ghi rõ là “Giao Chỉ quận”, vì vậy nên đây là khái niệm Giao Chỉ chỉ một vùng đất rộng lớn. Vì vậy, ghi chép của cả hai chiều từ người Việt và người Hoa Hạ đều đồng nhất với nhau rằng cộng đồng tộc Việt có một quốc gia chung, đó chính là quốc gia Văn Lang của các vị vua Hùng.
Cựu Đường thư, (Hậu Tấn – Lưu Hú soạn, 945 SCN), quyển 41, Chí 21, Địa lí 4, dẫn Nam Việt chí (Lưu Tống 420 – 479) chép: “交趾之地,最為膏腴。舊有君長曰雄王,其佐曰雄侯。後蜀王將兵三萬討雄王,滅之。蜀以其子為安陽王,治交趾。其國地,在今平道縣東。其城九重,周九里,士庶蕃阜。尉佗在番禺,遣兵攻之。王有神弩,一發殺越軍萬人,趙佗乃與之和,仍以其子始為質。安陽王以媚珠妻之,子始得弩毀之。越兵至,乃殺安陽王,兼其地。” – “Đất Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu. Sau có vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng Vương đi. Vua Thục nhân đó cho con mình làm An Dương Vương, trị đất Giao Chỉ. Đất nước ấy ở phía đông huyện Bình Đạo ngày nay. Thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm, dân chúng đông đúc. Úy Đà đóng đô ở thành Phiên Ngung phát binh sang đánh. Vương có nỏ thần bắn một phát giết một vạn quân Việt. Triệu Đà bèn hòa với vương, rồi sai con mình tên là Thủy làm con tin. An Dương Vương đem con gái tên là Mị Châu gả cho Thủy, Thủy thấy được nỏ thần bèn hủy đi. Kịp khi quân Việt đến liền giết An Dương Vương, chiếm cả nước ấy.” [28]
Sách Thái Bình quảng ký, thời Tống, dẫn Nam Việt chí (Lưu Tống, 420 – 479) khoảng thế kỷ V cũng có chép về các vị vua Hùng: ““交趾之地,頗為膏腴,從民居之,始知播植。厥土惟黑壤。厥氣惟雄。故今稱其田為雄田,其民為雄民。有君長,亦曰雄王;有輔佐焉,亦曰雄侯。分其地以為雄將。” – “Đất Giao Chỉ vốn màu mỡ, di dân tới sống ở đó, (dân) mới bắt đầu biết gieo trồng, đất vùng ấy đen xốp, khí đất hùng mạnh, cho nên gọi ruộng ấy là Hùng Điền, dân vùng ấy gọi là Hùng Dân. Quân trưởng gọi là Hùng Vương. Có phụ tá là Hùng Hầu, chia đất cho các Hùng Tướng.”
Thủy kinh chú, quyển 37, Diệp Du hà (Bắc Ngụy – Lịch Đạo Nguyên soạn) dẫn Giao châu ngoại vực kí chép: “交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民,設雒王、雒侯,主諸郡縣。” – “Đất Giao Chỉ ngày xưa khi chưa đặt thành quận huyện, đất đai có ruộng Lạc, dân làm ăn ở ruộng ấy theo nước thủy triều lên xuống, nhân đó có tên là dân Lạc, đặt ra Lạc Vương – Lạc Hầu để làm chủ các quận huyện, huyện phần nhiều có chức Lạc tướng, Lạc tướng đeo ấn đồng thao xanh.” [28]
Sử kí, quyển 113, Nam Việt liệt truyện, 53, Sách ẩn (Đường – Tư Mã Trinh soạn) dẫn Quảng châu kí chép: “《史記》卷百一十三南越列傳第五十三索隱引《廣州記》云:交趾有駱田,仰潮水上下,人食其田,名為駱人。有駱王、駱侯。諸縣自名為駱將,銅印青綬,即今之令長也。後蜀王子將兵討駱侯,自稱為安陽王,治封溪縣。後南越王尉他攻破安陽王,令二使典主交阯、九真二郡人。” – “Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc Vương – Lạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, trị ở huyện Phong Khê. Sau nữa vua Nam Việt là Úy Tha đánh phá An Dương Vương, sai hai sứ giả điển chủ người hai quận Giao Chỉ-Cửu Chân.” [28]
Như chúng tôi đã chứng minh trong bài viết khác, chính xác phải là Hùng Vương chứ không phải Lạc Vương [29]. Các ghi chép này đều nhắc tới “Giao Chỉ”, mà không nhắc tới “quận”, chứng tỏ đây là một khái niệm Giao Chỉ lớn, chỉ toàn bộ lãnh thổ của tộc Việt qua các giai đoạn, như trong Thủy Kinh chú, sách này có ghi “Đất Giao Chỉ ngày xưa khi chưa đặt thành quận huyện”, như vậy đây chính xác là khái niệm Giao Chỉ lớn chỉ toàn bộ vùng đất Việt.
Mở rộng hơn về các ghi chép của Việt Nam như trong chính sử Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên soạn, hay truyện họ Hồng Bàng trong sách Lĩnh Nam chích quái cũng chép về quốc gia của tộc Việt tương đồng với các ghi chép về quốc gia chung của tộc Việt dưới khái niệm Giao Chỉ hay địa bàn phân bố của cộng đồng tộc Việt. Người Việt từng sinh sống trong vùng Dương Tử, là một thành phần quan trọng của cộng đồng tộc Việt, rồi mới di cư về phía Nam, nên họ làm chủ vùng đất từ Dương Tử trở về Nam không có gì bất hợp lý, chưa kể có rất nhiều bằng chứng cùng góp phần chứng minh sự tồn tại của quốc gia này, sử sách Trung Quốc cũng xác minh sự ghi chép của các sách Việt Nam. Tộc Việt đã có quốc gia chung từ vùng Dương Tử, sau đó giãn dân theo dòng di cư tới Việt Nam, họ vẫn tiếp tục phát triển trong một quốc gia chung, sau đó được ghi chép trong cổ sử Trung Hoa dưới nhiều cái tên như Dương Việt, Lạc Việt, Bách Việt.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai, là tổ của Bách Việt. Một hôm, vua bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam, phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua, đóng đô ở Phong Châu. Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam).” [25]
Truyện họ Hồng Bàng chép: “Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ giã mà đi. Âu Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong Châu – (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang; về bờ cõi của nước thì Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình hồ, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (bây giờ là nước Chiêm Thành).” [26]
Bản đồ mô phỏng nước Xích Quỷ, nước Văn Lang, trung tâm từng thời kỳ và các dòng di cư hình thành các quốc gia. [Ý tưởng và thực hiện: Lược Sử Tộc Việt, designer: Quốc Toản.]
Quốc gia này cũng chính là quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt mà sách sử Trung Quốc đã chép lại, nó tương ứng với địa bàn từ vùng Dương Tử về tới Việt Nam, như vậy, về cơ sở, có thể thấy quốc gia Văn Lang có những cơ sở cực kỳ vững chắc về sự tồn tại. Tên gọi quốc gia Văn Lang không chỉ có trong cổ sử Việt Nam, mà sử Trung Quốc cũng chép về nước Văn Lang.
Sách 太平御覽 Thái Bình Ngự Lãm, Bắc Tống (977 – 984). Chương Châu quận bộ thập bát 州郡部十八. Đoạn Lĩnh Nam Đạo 嶺南道. Nguyên văn:《方輿志》曰:峰州,承化郡。古文郎國,有文郎水。亦陸梁地。秦屬象郡。二漢屬交趾郡。吳分置新興郡。晉改為新昌。陳置興州。隋平陳,改為峰州;煬帝初,廢。唐復置峰州。” – Tạm dịch: “Phương Dư chí viết: Phong Châu tức quận Thừa Hóa. Xưa là nước Văn Lang, có sông Văn Lang. Cũng là đất Lục Lương. Thời Tần thuộc Tượng quận. Tây Hán và Đông Hán thuộc quận Giao Chỉ. Nhà Ngô chia ra xếp vào quận Tân Hưng. Tấn đổi thành Tân Xương. Nhà Trần (557-589) gọi là Hưng Châu. Tùy thay Trần, cải ra Phong Châu; từ những năm đầu Tùy Dạng Đế (604-618) thì bãi bỏ. Đường triều khôi phục đặt là Phong Châu. ” [30]
Sách này chép rõ Phong Châu là nơi có quốc gia Văn Lang, đây cũng chính là kinh đô của nước Văn Lang theo các ghi chép tại Việt Nam. Ghi chép của sách Thái Bình Ngự Lãm đã cho chúng ta thấy cơ sở thực tế của nước Văn Lang, nó thực sự tồn tại trong ghi chép lịch sử, không phải huyền sử huyễn hoặc và không có thực. Các ghi chép lịch sử cũng đã cho chúng ta thấy được những cơ sở chặt chẽ về quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt, không gì khác hơn, nó chính là quốc gia Văn Lang do các vua Hùng làm chủ, kế thừa nhà nước từ các văn hóa trong vùng Dương Tử.
Những vật đại diện quan trọng nhất cho quyền lực trung tâm của các vị vua Hùng trong vùng miền Bắc Việt Nam, đó là nha chương và trống đồng. Nha chương văn hóa Phùng Nguyên đại diện cho quyền lực nhà nước, theo Chu Lễ, thì: “牙璋以起軍旅,以治兵守。” – “Nha chương dùng để điều động quân đội, chỉ huy quân đồn trú”. Như vậy, với tổ chức nhà nước đã có từ vùng Dương Tử, thì tộc Việt tiếp tục kế thừa trong văn hóa Nguyên, với đại diện là những chiếc nha chương bằng ngọc.
Nha chương văn hóa Phùng Nguyên. [Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, dẫn]
Như vậy, thì các tài liệu lịch sử, các ghi chép của Việt Nam và Trung Quốc đều cùng xác định về sự tồn tại của các quốc gia chung của tộc Việt trong vùng Dương Tử tới Việt Nam. Các nghiên cứu di truyền cũng cho chúng ta thấy được cơ sở của quốc gia này, với sự thống nhất về di truyền trên diện rộng của các cư dân có nguồn gốc tộc Việt trong địa bàn cũ của quốc gia Văn Lang, cũng như với người Hán ở phía nam Đông Á.
II. Cơ sở về di truyền:
Các nghiên cứu di truyền chính là cơ sở vững chắc nhất để nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc, các nghiên cứu sẽ cho chúng ta thấy, liệu các dân tộc có phải cùng tách ra từ một nguồn gốc chung hay không, đó sẽ là cơ sở cho thấy sự tồn tại trong một quốc gia chung của cư dân từ vùng Dương Tử về tới Việt Nam. Trong thực tế, các nghiên cứu di truyền đều cho thấy sự thống nhất di truyền của các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt trong vùng nam Đông Á tới Việt Nam.
Theo nghiên cứu của Wang et al. 2021 (hình 1) [31], thì các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt: Kinh, Choang, Gelao, Mulam, Dai, Maonam, Dong, Li, Thái, Hán Quảng Đông, Hán Phúc Kiến có gen rất gần nhau và gần với gen chung của các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt.
Admixture thể hiện di truyền các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt có gen rất gần nhau. [31]
Tổng hợp và so sánh gen của các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt từ admixture trên. [31]
Công trình nghiên cứu mới đây của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam, Viện Nhân chủng và tiến hóa Max Planck (Đức), Phòng thí nghiệm động lực học ngôn ngữ của Đại học Lion (Pháp) năm 2019, đã cho thấy các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt như Việt (Kinh), Tày, Nùng, Mường, Thái, Dai, Hán Hoa Nam… có hệ gen gần nhau và khác biệt so với Hán Hoa Bắc. [32]
Admixture của công trình nghiên cứu của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam, Viện Nhân chủng và tiến hóa Max Planck (Đức), Phòng thí nghiệm động lực học ngôn ngữ của Đại học Lion (Pháp) cho thấy sự gần gũi trong hệ gen của các dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt như Việt, Mường, Tày, Thái, Nùng… [32]
PCA các dân tộc cho thấy sự gần gũi về di truyền của các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt. [32]
Nghiên cứu gen của Zhang et al. 2019 [33] cho thấy người Việt (Kinh) có di truyền gần gũi với người Choang, người Dong và người Yi ở Quảng Tây, người Hán ở các vùng Quảng Đông, Phúc Kiến.
Nghiên cứu của Zhang et al. 2019 cho thấy gen người Việt (Kinh) gần với người Miêu Quý Châu, người Choang và người Hán Quảng Đông. [33]
Nghiên cứu của He et al. 2021 [34] cho thấy di truyền của các dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt: Người Việt (Kinh) các vùng, Mường, Tày, Thái, Dao, Cờ Lao, Gelao, Maonan, Dai, Bố Y có gen rất gần nhau, người Hán Quảng Đông, Phúc Kiến cũng gần với gen của các dân tộc có nguồn gốc độc lập hiện vẫn chưa bị đồng hóa. Màu xanh dương trong nghiên cứu này đại diện cho gen chung của 3 hệ ngữ: Nam Á, Tai-Kadai, Hmong-Mien, chiếm phần lớn trong di truyền của các dân tộc thuộc 3 hệ ngữ này, cũng như người Hán tại các vùng.
Nghiên cứu của He et al. 2021 cho thấy gen các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt rất gần nhau. [34]
Nghiên cứu của Huang et al. 2020 [35] cho thấy di truyền của các dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt: Dong, Hlai, Mường, Thái, Mulam, Tày, Maonan, Zhuang, Dai, Nung, Kinh (Việt), Vietnamese, Lào, Bố Y, Colao, Lachi và người Hán các vùng: Quảng Tây, Quảng Đông có gen rất gần nhau. Gen của các cư dân Hán tại các vùng Phúc Kiến, Đài Loan, Vân Nam, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Hồ Nam có gen gần với các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt, nhưng cũng đã pha trộn đáng kể với gen người bắc Đông Á. Người Dong (Hồ Nam, Quý Châu) có thể đã có sự pha trộn với các dân tộc thuộc hệ ngữ Hmong-Mien, nên có phần khác biệt so với gen của các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt.
Admixture thể hiện di truyền nguồn gốc các dân tộc, tên cụm không thể hiện các dân tộc có nguồn gốc từ tên được đặt, mà các cụm được thể hiện có di truyền gần nhau. [35]
Như vậy thì các nghiên cứu di truyền đều cho thấy các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt có sự thống nhất di truyền cao, có nghĩa, là cùng một gốc tách ra, có nguồn gốc từ một cộng đồng chung, có sự hòa huyết với nhau liên tục, dẫn tới hiện trạng thống nhất như chúng ta đã thấy. Bên cạnh các nghiên cứu di truyền về các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt hiện vẫn còn độc lập, thì di truyền người Hán phía nam Đông Á cũng cho thấy sự gần gũi của các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt.
Nghiên cứu của Charleston et al. 2018 [36] (hình 8) cho thấy sự phân tầng rất rõ theo hướng từ Bắc xuống Nam của người Hán các vùng, theo phân tích thành phần chính, thì khoảng cách di truyền lớn nhất với Hán bắc Đông Á, gần nhau nhất là người Hán tại các vùng: Quảng Đông (GD), Quảng Tây (GX) và Hải Nam (HAN), sau đó là các vùng Hồ Nam (HUN), Phúc Kiến (FJ), Giang Tây (JX), Tứ Xuyên (SC), Hồ Bắc (HB), cuối cùng là các vùng Chiết Giang (ZJ), Giang Tô (JS), An Huy (AH) có khoảng cách xa so với người Hán tại phía Nam, gần hơn với người Hán phía Bắc. Nghiên cứu này đã cho thấy các nhóm dân cư người Hán tại phía nam Đông Á gần với người Việt và các dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt hơn là với người Hán ở phía Bắc.
Nghiên cứu của Charleston et al. 2018 cho thấy khoảng cách di truyền của người Hán tại các vùng. [36]
Các nghiên cứu di truyền được chúng tôi dẫn đã cho thấy cơ sở rất vững chắc về sự thống nhất di truyền của các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt. Đây chính là cơ sở cho thấy được sự tồn tại của quốc gia Văn Lang trong thực tế, sự tồn tại này còn chân thực hơn so với quốc gia thời hiện đại, khi thời hiện đại là một hiện trạng đa sắc tộc, đa chủng tộc với sự chia rẽ thường sâu sắc, nhưng trong thời kỳ quốc gia Văn Lang tồn tại, thì di truyền của các nhóm dân cư có sự thống nhất cao, chứng tỏ họ có một ý thức thống nhất cao, có sự hòa huyết và giao lưu liên tục trong một cộng đồng chung, nên di truyền ngày nay ở những dân tộc còn độc lập có nguồn gốc tộc Việt vẫn có sự thống nhất.
III. Cơ sở về khảo cổ học:
Về di truyền, các nghiên cứu đã cho thấy sự thống nhất của các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt, nguồn gốc của sự thống nhất di truyền đó là từ văn hóa Đông Sơn, đây là nền văn hóa độc lập cuối cùng của quốc gia Văn Lang và thời kỳ Hùng Vương. Thực tế, trong thời kỳ này, thì văn hóa Đông Sơn hiện diện trên khắp các vùng có cư dân tộc Việt sinh sống. Các cổ vật của các vùng đều là cổ vật của văn hóa Đông Sơn, có sự thống nhất cao trên diện rộng.
Trong tất cả các cổ vật, thì trống đồng của cộng đồng tộc Việt và biểu trưng quan trọng nhất của quyền lực cả về chính trị và tâm linh [37][38], tại Việt Nam, là nơi tìm thấy những chiếc trống lớn và tinh xảo nhất so tất cả các vùng tộc Việt khác. Vùng ảnh hưởng rộng lớn của văn hóa Đông Sơn [39], cũng chính là cơ sở cho chúng ta thấy được rằng văn hóa Đông Sơn hay quốc gia Văn Lang của cộng đồng tộc Việt có trung tâm nằm tại miền Bắc Việt Nam.
1. Trống đồng Sông Đà, hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Guimet, Pháp. [dẫn]; 2. Trống đồng Khai Hóa, hiện đang trưng bài tại Bảo tàng Dân tộc học Vienna, Áo. [dẫn]; 3, 4. Trống đồng Hoàng Hạ và trống đồng Ngọc Lũ, hiện đang trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam.
1. Việt Nam:
Việt Nam là trung tâm của văn hóa Đông Sơn, là nơi sản sinh ra nền văn hóa này, từ đó lan tỏa sang các vùng tộc Việt và xuống vùng Đông Nam Á. [40]. Tại đây, chính là nơi tìm thấy nhiều và đa dạng cổ vật của văn hóa Đông Sơn nhất.
Các loại hình cổ vật Đông Sơn. [Nguồn: Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Martin Doustar, Bảo tàng Barbier-Mueller]
2. Hồ Nam:
Hồ Nam nằm ở phía Nam hồ Động Đình, đây chính là nguồn gốc của người Việt nhóm Nam Á, với hậu duệ là người Việt (Kinh) và các dân tộc thuộc hệ ngữ Nam Á trong vùng Đông Nam Á ngày nay. Người Việt và người tiền Việt đã có một quá trình sinh sống trong khoảng hơn 8000 năm tại đây, phát triển nên những nền văn hóa phát triển trong vùng Đông Á cổ đại. Trong thời kỳ đồ đồng, văn hóa Đông Sơn là nền tảng chính trong vùng đất Tổ này của người Việt.
Các cổ vật đặc trưng văn hóa tộc Việt được tìm thấy tại tỉnh Hồ Nam. [Nguồn: Bảo tàng tỉnh Hồ Nam, Bảo tàng thành phố Trường Sa, dẫn: 1, 2, 3, 4, 5]
3. Quý Châu:
Quý Châu trong thời kỳ Đông Sơn là ranh giới ở phía Tây của quốc gia Văn Lang, là nơi có địa bàn sinh sống của cư dân tộc Việt trong thời kỳ đồ đồng, nền tảng của vùng Quý Châu trong thời kỳ này cũng chính là văn hóa Đông Sơn.
Các cổ vật đặc trưng văn hóa Đông Sơn tìm thấy tại Quý Châu. [Nguồn: Bảo tàng tỉnh Quý Châu]
4. Quảng Đông:
Quảng Đông là một trong hai vùng có di truyền của người Hán bản địa còn gần nhất với các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt. Trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn, thì các hiện vật văn hóa này đã xuất hiện rất rộng rãi trong vùng Quảng Đông, với phong cách hoàn toàn tương đồng với các vùng tộc Việt khác.
Các cổ vật đặc trưng văn hóa Đông Sơn tại tình Quảng Đông. [Nguồn: Bảo tàng Nanshan, Thâm Quyến; Bảo tàng tỉnh Quảng Đông]
5. Quảng Tây:
Văn hóa Đông Sơn cũng hiện diện trong vùng Quảng Tây ngày nay, đây là địa bàn cư trú của người Tây Âu trong lịch sử, đây là một nhánh của cộng đồng tộc Việt hay người Lạc Việt trong lịch sử.
Các cổ vật Đông Sơn tìm thấy tại Quảng Tây. [Nguồn: Bảo tàng tỉnh Quảng Tây, Bảo tàng Châu giang]
6. Vân Nam:
Văn hóa Vân Nam trước cuộc xâm lược của Trang Cược, một vị tướng nước Sở, có nền tảng văn hóa là văn hóa Đông Sơn. Sau cuộc xâm lược của Trang Cược, ông ta đã lập nên nước Điền, từ đó, văn hóa Điền Việt vùng Vân Nam bắt đầu có sự biến đổi, giao lưu rộng rãi với các văn hóa xung quanh, nhưng cốt lõi vẫn giữ nguyên là văn hóa tộc Việt.
Các cổ vật của văn hóa Điền Việt. [Nguồn: Bảo tàng tỉnh Vân Nam, Bảo tàng thành phố Côn Minh, Bảo tàng thành phố Ngọc Khê.]
IV. Cơ sở thống nhất về văn hóa, phong tục:
Những ghi chép trong lịch sử Trung Hoa cũng cho chúng ta thấy được sự thống nhất trong phong tục của cộng đồng tộc Việt. Những phong tục chung quan trọng nhất được chép trong các tài liệu lịch sử, đó là: xăm mình, cắt tóc hay búi tóc, mặc áo vạt trái (chui đầu hoặc vắt vạt sang bên trái), nhuộm răng đen. Có rất nhiều ghi chép về các phong tục này của tộc Việt.
Sử ký, Triệu Thế Gia chép: “Cắt tóc xăm mình, xăm vẽ lên cánh tay và mặc áo vạt hướng về phía trái, là [phong tục của] dân Âu Việt. Răng đen khắc trán, đội mũ da cá, mặc áo khâu bằng chỉ to, là [phong tục của] nước Đại Ngô.” [41]
Sử ký Tư Mã Thiên, Ngô Thái bá thế gia chép: “…Thái bá, Trọng Ung bèn chạy trốn đến đất Kinh Man, xăm mình cắt tóc“. [41]
Sử ký Tư Mã Thiên, Việt vương Câu Tiễn thế gia chép: “Tiên tổ của Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ của Hạ Vũ, được phong ở Cối Kê để phụng giữ tế tự vua Vũ. Xăm mình cắt tóc, cắt cỏ hoang rồi dựng ấp ở đó.” [41]
Ở đảo Hải Nam, người Chu Nhai (Hải Nam) cũng có phong tục xăm mình như phong tục chung của tộc Việt: “… Nhìn ra xa thấy châu Chu Nhai… Nhân dân có khoảng hơn 10 vạn nhà…, xõa tóc, xăm mình, con gái phần nhiều tướng mạo đẹp, làn da trắng trẻo, tóc dài, tóc mai đẹp” [42]
Đây là các ghi chép về các phong tục chung của cộng đồng tộc Việt, phong tục của cộng đồng tộc Việt từ vùng Giang Tô cho tới Việt Nam đều có sự thống nhất. Trong các ghi chép lịch sử về người Việt và của người Việt, cũng đều ghi rõ về các phong tục này.
Tam quốc chí, Ngô thư – Tiết Tống truyện mô tả về phong tục người Việt: “椎結徒跣貫頭左袵” – “búi tóc, chân trần, áo chui đầu vạt trái”.
Truyện chim trĩ trắng trong sách Lĩnh Nam chích quái chép: “舊本曰:周公問曰:「交趾短髮文身,露頭跣足黑齒,何由若是也?」越裳氏應曰:「短髮以便山林之入。文身以為龍君之形,游泳於河,蛟龍不犯。跣足以便緣木。刀耕火種,露頭以避炎熱。食檳榔以除污穢,故黑齒。」” – “Chu Công hỏi: “Tại sao dân Giao Chỉ cắt tóc ngắn, để đầu trần, xăm mình, đi chân đất như vậy là cớ sao?”. Sứ thần đáp rằng đáp: “Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng. Xăm mình để giống hình Long Quân bơi lội dưới sông loài giao long không phạm tới. Đi chân đất để tiện leo cây. Cày bằng dao, trồng bằng lửa. Ău trầu cau để trừ ô uế cho nên răng đen”. [Bản dịch của Nguyễn Hữu Vinh]
Cộng đồng tộc Việt có sự thống nhất cao về văn hóa trong một vùng rất rộng lớn, như ghi chép của Tư Mã Thiên trong phần Hóa thực liệt truyện ở sách Sử ký, thì phong tục vùng Lĩnh Nam giống vùng Giang Nam, mà “đa số là dân Dương Việt”.
Trong phần Hóa thực liệt truyện ở sách Sử ký, Tư Mã Thiên viết: “九疑、蒼梧以南至儋耳者,與江南大同俗,而楊越多焉。” – “Từ Cửu Nghi, Thương Ngô về phía nam tới Đam Nhĩ, phong tục đại để giống vùng Giang Nam, mà đa số là dân Dương Việt.” [30]
Như vậy, về mặt văn hóa, cộng đồng tộc Việt đều có chung một phong tục, cùng chung một nền văn hóa, đây chính là cơ sở quan trọng cho thấy sự tồn tại của một ý thức dân tộc, ý thức văn hóa mạnh mẽ, đây là một trong những biểu hiện cho sự tồn tại của một quốc gia chung.
V. Những địa danh tại các vùng tộc Việt:
Các địa danh tại các vùng tộc Việt tới hiện nay vẫn còn giữ được những nét thống nhất rất rõ ràng. Hệ thống các địa danh của các vùng Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam thể hiện thống nhất trong các tên gọi địa danh liên quan tới Pu/Pù (núi), Tà (sông nước), Na/Nà (ruộng lúa). Ở bảng phía dưới chúng tôi chỉ dẫn ra những tài liệu chỉ cụm phức hợp địa danh tại từng vùng để đối chiếu và so sánh trực tiếp, ngoài ra còn rất nhiều tên địa danh khác có sự tương đồng và gần gũi. [43]
Pu/Pù | Tà | Na/Nà | |
Nam Ninh (Quảng Tây) | Pu Pâu (Xào Cheng), Pu Thảng (Thái Dung Sơn). (Nam Ninh có rất nhiều Pu). | Tà Môn, Tà Thủng, Tà Phình, Tà Nen, Tà Sa Phinh, Tà Suay, Tà Lý, Tà Tháng, Tà Phấng, Tà Trang, Tà Pho, Tà An, Ta Uy, Tà Châu, Tà Xeo, Tà Lung, Tà Oan. | Na Chin, Na Pái, Na Thung, Na Chi, Na Lao, Na Tẩu, Na Mà, Na Tha, Na Siêu. |
Trạm Giang (Quảng Đông) | Pù Thâu, Pù Mây, Pu Sầng | Tà Lu, Tà Chữ, Tà Lung Mầu, Tà Thung. | Nà Sô, Na Lứa, Na Mèn, Na Xac, Nà Xuy, Na Li, Na Pù, Na Xứ, Na Bua, Na Cang, Na Sâu, Na Cheo. |
Vụ Bản (Nam Định) | Pù Biêng, Pù Han Le, Pù Cột Ca. | Tà Hu, Tà La. | Na Kou, Na Nha, Nà Trâm, Na Trâm, Na Tông, Na Ca, Na Bạc, Na Sa. |
Bái Thượng Thường Xuân (Thanh Hóa) | Pù Kha, Pù Câu, Pà Ton, Pù Quàng, Pù Cầm, Pù Ham, Pù Chó, Pù Doanh. | Tà Lèo, Tà Hinh, Tà Lu (thuộc hệ thống sông Chu). | Na Chú, Na Am, Na Thảo, Na Châm, Na Tú, Na Nôm, Na Vu, Na Cơ. |
Qùy Châu (Nghệ Tĩnh) | Pù Co, Pù Tang, Pù Quang, Pù Câm, Pù Mun. | Tà Hom, Tà Luc, Tà Nhâu, Tà Nôm.. | Na Xai, Na Toong, Na Ta, Na Táng, Na Thang, Na Vang, Na Mu, Na Ca, Na Khang, Na Tram |
Toàn bộ vùng Lưỡng Quảng cũng có nhiều nơi có địa danh có từ kẻ, các địa danh có từ kẻ ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam hiện tại vẫn được tìm thấy rất nhiều. [43]
– Phiên Ngung có Kẻ Lâu Trường.
– Thương Ngô có Kẻ Lãm.
– Quế Bình có Kẻ Lăng.
– Nam Hải có Kẻ Táo.
– Quế Lâm có Kẻ Trúc.
– Thương Lâm có Kẻ Lập.
– Hạ Huyện có Kẻ Luân.
Qua một thời gian rất dài tách biệt nhau, hơn 2000 năm, một vùng sinh hoạt và chịu ảnh hưởng của người Hán và văn hóa Hán, một vùng giữ được độc lập, là một quốc gia độc lập, dân tộc độc lập, nhưng các địa danh vẫn rất tương đồng với nhau. Đây là các địa danh có từ thời xa xưa, có thể từ thời kỳ văn minh tộc Việt vùng sông Dương Tử (hơn 4000 năm trước), bởi các dân tộc Tây Nguyên, các dân tộc thuộc hệ ngữ Nam Á cũng còn giữ được những địa danh có các tên có tên tương đồng với các tên này.
C. TỔ CHỨC CỦA QUỐC GIA VĂN LANG:
Như vậy, tất cả các cơ sở đều cho thấy về sự tồn tại của quốc gia Văn Lang và thời kỳ Hùng Vương. Vậy quốc gia này có tổ chức như thế nào? Các tài liệu lịch sử và ghi chép của cả Trung Quốc, Việt Nam cũng đã cho chúng ta thấy được một tổ chức cơ bản của quốc gia Văn Lang.
Tầng lớp cao nhất trong tổ chức của nước Văn Lang là các vị vua Hùng, các vị vua Hùng “đời đời cha truyền, con nối”, có nghĩa theo chế độ phụ hệ, tất cả các đời đều xưng là Hùng Vương không đổi. Ở tầng lớp thấp hơn, các tài liệu lịch sử Trung Hoa và truyện họ Hồng Bàng đều cho thấy các vị vua Hùng có phụ tá là các Lạc Hầu, Lạc Tướng, theo truyện họ Hồng Bàng thì vua Hùng “sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng”, có nghĩa các Lạc Tướng và Lạc Hầu là dòng dõi của các vua Hùng. Về vai trò, thì Lạc Hầu là quan văn, đảm nhận việc chính trị dưới sự điều hành của các vua Hùng, còn Lạc Tướng là quan võ, đảm nhận việc quân sự, mỗi quận huyện, mỗi vùng sẽ có các Lạc Tướng cai quản, các đời Lạc Tướng cũng đời đời cha truyền, con nối. Các sách Thủy Kinh Chú và Sử kí đều chép “Lạc tướng đeo ấn đồng thao xanh“, có nghĩa các Lạc Tướng có thực quyền, quản lý và điều hành các quận huyện dưới sự ủy quyền của các vị vua Hùng.
Trong chi tiết trên chúng ta cũng thấy được tổ chức của quốc gia Văn Lang là một hình thức phong kiến, các vùng đất được vua Hùng giao cho các em cai quản, các Lạc Tướng có quyền quản lý vĩnh viễn các vùng đất được phân phong, kế thừa theo hình thức cha truyền con nối, cách thức tổ chức này tương tự như nhà Chu phong đất cho các quý tộc triều đại mình, tuy nhiên chế độ của người Việt có sự kế thừa và tồn tại rất bền vững, về người Hoa Hạ, thì sau đó các vùng đất này tách ra thành các nước chư hầu nhà Chu. Một chi tiết khác trong truyện Đổng Thiên Vương cũng cho chúng ta thấy hình thức phong kiến cho những người có công lao đánh thắng giặc ngoại xâm, cũng tương tự như hình thức cấp đất cho các tướng lĩnh của các triều đại tự chủ sau này: “có ai dẹp được giặc thì phong cho tước ấp”. [26]. Các vua Hùng duy trì quyền lực và điều động quân đội các vùng bằng những chiếc Nha chương ngọc, xuất hiện trong thời văn hóa Phùng Nguyên.
Nha chương tìm thấy tại văn hóa Phùng Nguyên. [Nguồn: Bảo tàng Đền Hùng, dẫn; Bảo tàng lịch sử Việt Nam, dẫn.
Tổ chức của quốc gia Văn Lang là phong kiến phân quyền, chính vì vậy, quyền lực không tập trung về chính quyền trung ương, mà các vùng về cơ bản đều có quyền tự trị, được cai quản bởi các Lạc tướng là dòng dõi Hùng Vương, nhưng quyền lực cao nhất vẫn là ở các vị vua Hùng. Các vùng lãnh thổ của quốc gia Văn Lang chịu sự điều động của chính quyền trung ương mỗi khi đất nước có biến động.
Theo truyện họ Hồng Bàng, thì còn một số tầng lớp và chức vụ khác trong tổ chức của quốc gia Văn Lang: “quan Hữu Ty gọi là Bồ Chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tỳ” [26], bên cạnh các tầng lớp chủ chốt là Lạc Hầu, Lạc Tướng thì còn có các quan Hữu Ty gọi là Bồ Chính, và quốc gia này cũng tồn tại tầng lớp nô tỳ, là tầng lớp thấp nhất trong xã hội người Việt. Như vậy qua các tài liệu này chúng ta có thể thấy được 4 tầng lớp của xã hội thời kỳ này: hoàng tộc, quý tộc và quan lại, dân thường và cuối cùng là tầng lớp nô tỳ, nô lệ.
Thời kỳ đầu Hán thuộc, thì người Hán vẫn giữ nguyên chế độ Lạc Tướng của người Việt. Tới thời hai bà Trưng, thì theo sử chép, hai bà Trưng là con của một Lạc Tướng huyện Mê Linh, bà Trưng Trắc cưới người con trai Lạc Tướng huyện Chu Diên tên Thi Sách. Khi quốc gia Lĩnh Nam của hai bà Trưng thất bại trong việc bảo vệ nền độc lập, thì Mã Viện đã bắt trên 300 cừ suý (tướng lĩnh và tầng lớp quý tộc) người Việt đưa về Trung Quốc. Đây là những bằng chứng rõ ràng chứng minh sự tồn tại tầng lớp quý tộc của người Việt trong lịch sử, và tầng lớp quý tộc này có số lượng đông, có vai trò rất quan trọng trước khi người Việt thất bại trước người Hán. Quyền lực của hai bà Trưng và chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách trong lịch sử cho chúng ta thấy thực quyền và sự ảnh hưởng rất lớn của các Lạc Tướng trong thời kỳ Hùng Vương.
Thủy kinh chú dẫn Giao Châu ngoại vực kí chép: “Vua nước (Nam) Việt sai hai sứ giả trông coi dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, sau nhà Hán sai Phục ba tướng quân là Lộ Bác Đức đánh vua nước Việt, Lộ tướng quân đến quận Hợp Phố, vua nước Việt sai hai sứ giả đem một trăm con bò, một ngàn vò rượu cùng sổ hộ khẩu dân hai quận đến gặp Lộ tướng quân, bèn bái hai sứ giả làm Thái thú của hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, các Lạc tướng vẫn trị dân như cũ. Sở trị của quận Giao Chỉ và châu vốn ở đấy vậy (huyện Mi Linh). Đặt tên châu là châu Giao. Sau có con trai của Lạc tướng huyện Chu Diên tên là Thi lấy con gái của Lạc tướng huyện Mi Linh tên là Trưng Trắc làm vợ. Trắc là người gan dũng, giúp Thi nổi dậy, đánh phá châu quận, bắt các Lạc tướng theo phục, đều thuộc quyền Trưng Trắc, làm vua, đóng đô ở huyện Mi Linh, thu thuế của dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân được hai năm. Sau nhà Hán sai Phục ba tướng quân là Mã Viện đánh Trắc-Thi, chạy vào khe hang Kim, ba năm mới bắt được. Bấy giờ quận Thục phía tây cũng đem binh cùng đánh bọn Trắc, dẹp yên cả các quận huyện, đặt ra quan Lệnh, Trưởng ở đấy.”
Quốc gia Văn Lang thời kỳ đó, theo ghi chép của truyện họ Hồng Bàng, chúng ta cũng thấy được sự tồn tại của những vùng phiên thuộc: những vùng “xưng thần (được gọi) là khôi”. Chi tiết này cũng phù hợp với các tư liệu cho thấy các vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo đã tới miền Bắc Việt Nam để xin trống đồng về để sử dụng, quyền lực, tính trung tâm, hành động “xưng thần” của các quốc gia Đông Nam Á với các vua Hùng được thể hiện rõ trong các tài liệu khảo cổ. [39]
Thời kỳ này cũng có tầng lớp hoàng tộc, con trai vua được gọi là Quan Lang, con gái vua được gọi là Mỵ Nương, trong thời kỳ này qua nhiều câu chuyện thời Hùng Vương như trong truyện Lang Liêu, truyện Chử Đồng Tử [26], thì Lang Liêu, một trong các Quan Lang, là con của một trong những hoàng hậu của các vị vua Hùng. Qua tư liệu này chúng ta thấy được rõ ràng đã tồn tại một chế độ đa thê trong tầng lớp hoàng tộc.
Tổ chức hành chính thời Hùng Vương cũng được thể hiện rất rõ thông qua các tài liệu ngôn ngữ học về địa danh. Theo khảo cứu của Gs Lê Trọng Khánh, thì Sách là đơn vị hành chính tương đương với xã, phường ngày nay, lớn hơn Sách có Chiềng, có lẽ tương đương với cấp huyện. Tới thời Hán thuộc, đặc biệt là sau cuộc khởi nghĩa hai bà Trưng, thì người Hán buộc người Việt phải theo các cấp hành chính là huyện, xã, thay thế các đơn vị hành chính của người Việt, tuy nhiên tới thời Đinh Bộ Lĩnh, và thời Lê vẫn tìm thấy Sách. [43]
“Thế kỷ thứ X, lịch sử còn ghi rõ Đinh Bộ Lĩnh chiếm cứ một vùng Sách (làng xã), đóng căn cứ ở Sách Tế Áo, Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh Bình). Chú của Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Dự chiếm cứ Sách Bông. Như vậy thời Đinh Bộ Lĩnh động Hoa Lư vẫn tồn tại Sách. Đến thời Lê qua thống kê còn có trên 500 Sách trong cả nước.” [43]
Tìm hiểu thêm về các cấp hành chính cổ thời Hùng Vương dựa trên một số tài liệu, thì chúng ta thấy được dưới Sách, là chạ, tương đương với làng chúng ta vẫn sử dụng ngày nay, như trong câu “chiềng làng chiềng chạ” (chiềng ở đây tương đương với trình, trong văn học dân gian Việt Nam cũng có câu “trình làng trình chạ”), từ làng có gốc là lang, người Mường cũng có tổ chức làng, văn hóa Mường vẫn còn tồn tại nhà Lang, có vai trò gần giống như Đình Làng của người Việt.
Như vậy chúng ta có thể thấy được một phần cấu trúc xã hội của người Việt thời Hùng Vương đã khá hoàn thiện trước khi người Hán xâm lược và thực hiện các chính sách đô hộ, đồng hóa. Các Lạc Tướng quản lý các huyện, có lẽ là quản lý các Chiềng, trong tổ chức thấp hơn, thì trong Chiềng có Sách, trong sách có làng – chạ.
Về thành quách, thì sách Nam Việt chí chép về thành của quốc gia Văn Lang: “Thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm, dân chúng đông đúc“, như vậy thời điểm này ở vùng Phong Châu và miền Bắc Việt Nam đã tồn tại một đô thành đông đúc dân cư. Dân số của miền Bắc Việt Nam vào cuối thế kỷ I TCN vẫn còn rất đông đúc, như sách Tiền Hán Thư, phần Địa Lý Chí chép về dân số ở các vùng ở Việt Nam: Giao Chỉ quận: 92.440 hộ, 746.237 khẩu, Cửu Chân quận: 35.742 hộ, 166.113 khẩu, Nhật Nam quận: 15.460 hộ, 69.485 khẩu, tổng cộng dân số của miền Bắc Việt Nam và vùng trung bộ Việt Nam là khoảng gần 1 triệu người, như vậy chúng ta thấy được sự trù mật của dân số tại miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn đầu thời Bắc thuộc, sau thời Hùng Vương không lâu.
Về vấn đề số đời của thời Hùng Vương, chúng tôi cho rằng một số tác giả có phần chủ quan khi lấy thời gian tồn tại của họ Hồng Bàng để chia ra cho con số 18 đời, từ đó cho rằng thời Hùng Vương không tồn tại do không có ai thọ tới 145 tuổi, tuy nhiên con số 18 là một con số có ý nghĩa đẹp và quan trọng, không hẳn là một con số có ý nghĩa chỉ thực tế số đời, 18 = 9x2, 9 = 3x3, đây đều là các con số có ý nghĩa quan trọng với người Việt, tư duy số lẻ là tư duy đặc trưng của người Việt, như trong truyện Đổng Thiên Vương có chép về “một con ngựa sắt cao mười tám thước”, Nam Việt chí chép “thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm“, các yếu tố văn hóa với tư duy số lẻ như Tam Phủ (Trời – Đất – Nước), Sơn Tinh – Thủy Tinh – Mỵ Nương, Trầu – Cau – Vôi. Vì vậy chúng ta nên hiểu con số 18 đời như một con số đẹp, có tính đại diện và linh thiêng, hơn là một con số chỉ thực tế số đời Hùng Vương. Sử dụng tư duy lý tính và chủ quan để phủ nhận sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương dựa trên việc chia số năm tồn tại của họ Hồng Bàng cho 18 đời vua Hùng, mà không dựa vào các tài liệu lịch sử, khảo cổ và di truyền là không thực sự phù hợp.
Dựa vào các tài liệu lịch sử, tổ chức của quốc gia Văn Lang chúng ta có thể thấy tổ chức của quốc gia Văn Lang là phong kiến phân quyền, mỗi nơi có một Lạc Tướng quản lý dưới sự kiểm soát của các vị vua Hùng, có sự độc lập nhất định nhưng các vùng vẫn tập trung dưới quyền quản lý cao nhất các vị vua Hùng. Tổ chức của quốc gia này cũng cho thấy sự tồn tại của chế độ hành chính khá hoàn thiện, xã hội phân chia nhiều tầng lớp: tầng lớp hoàng tộc, quý tộc, dân thường và tầng lớp nô tỳ, quốc gia có các vùng phiên thuộc, cũng như có tồn tại dân cư đông đúc, có đô thành, đó là những bằng chứng quan trọng cho chúng ta thấy được một phần tổ chức của quốc gia Văn Lang trong thời kỳ Hùng Vương.
D. KẾT LUẬN:
Dựa trên sự khảo cứu toàn diện các bằng chứng từ di truyền, khảo cổ, lịch sử, ngôn ngữ, chúng ta đã thấy được những cơ sở rất vững chắc chứng minh sự tồn tại của quốc gia Văn Lang. Quốc gia Văn Lang kế thừa trực tiếp từ các văn hóa trong vùng Dương Tử là Lương Chử và Thạch Gia Hà, đây là các văn hóa đã được chứng minh có những tổ chức nhà nước phức tạp và phát triển, chính là các văn hóa tương ứng với nhà nước Xích Quỷ.
Sự kiện hạn hán diễn ra vào khoảng 4000 năm trước, là nguyên nhân chính khiến cộng đồng tộc Việt trong vùng Dương Tử phải phân tán về phía Nam, trong cuộc di cư này, thì thành phần chính của tộc Việt di cư về Việt Nam, hình thành nên văn hóa Phùng Nguyên, có biểu trưng quyền lực trung tâm là những chiếc nha chương bằng ngọc. Văn hóa Phùng Nguyên cũng chính là khởi nguồn của thời kỳ Hùng Vương và quốc gia Văn Lang, với lãnh thổ trải rộng theo dòng di cư của tộc Việt: từ Dương Tử tới Việt Nam.
Trải qua một quá trình dài tồn tại và phát triển trong một quốc gia chung, một cộng đồng chung, cư dân tộc Việt các vùng đã thể hiện sự thống nhất cao độ trên hầu hết các khía cạnh: di truyền, khảo cổ, văn hóa. Di truyền cho thấy các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt là cùng một gốc sinh ra, có sự thống nhất cao. Khảo cổ cho thấy cộng đồng tộc Việt có chung một nền văn hóa, chính là văn hóa Đông Sơn. Các ghi chép lịch sử cũng đã cho thấy tộc Việt có chung một nền văn hóa, cùng chung phong tục. Như vậy, các nghiên cứu đã cùng chứng minh về sự thống nhất của cộng đồng tộc Việt, và cũng đồng thời chứng minh về sự tồn tại của quốc gia Văn Lang.
Vì vậy, quốc gia Văn Lang thực sự hiện hữu trong thực tế khoa học và lịch sử, mà việc mặc định về trình độ văn minh của người Việt, hay sự phủ nhận về sự liên hệ giữa người Việt và người Bách Việt đã không cho chúng ta thấy được. Chúng tôi hy vọng rằng, đây sẽ là cơ sở để người Việt có nhận thức mới về nguồn gốc của dân tộc, trân trọng hơn những giá trị văn hóa cổ, những lưu truyền mà Tổ Tiên chúng ta đã truyền lại.
Chúng tôi thực hiện khảo cứu này, hoàn toàn không nhằm mục đích đòi đất, khi biên giới quốc gia đã định hình, đây đơn thuần chỉ là sự khảo cứu và khôi phục lại bức tranh lịch sử thời cổ đại đã bị lãng quên của dân tộc Việt, để người Việt biết mình là ai, dân tộc mình từ đâu tới. Chúng tôi tin tưởng rằng, nhận thức về nguồn gốc, sự khôi phục văn hóa cổ, sẽ là nền tảng để người Việt hướng tới một tương lai mới, kế thừa và phát triể nền văn hóa cổ tưởng như đã biến mất của tộc Việt.
Tài liệu tham khảo:
[1] Lang Linh (2021), Bức tranh di truyền về nguồn gốc của người Việt. https://luocsutocviet.com/2021/08/19/550-buc-tranh-di-truyen-ve-nguon-goc-cua-nguoi-viet/
[2] Lang Linh (2020), Khảo cứu về nguồn gốc dân tộc Việt. https://luocsutocviet.com/2020/06/04/497-khao-cuu-ve-nguon-goc-dan-toc-viet/
[3] Chu JY, et al (1998), Genetic relationship of populations in China, Proceedings of National Academy of Sciences USA, 95(20): 11763-11768
[4] The HUGO Pan-Asian SNP Consortium (2009), Mapping human genetic diversity in Asia, Science, 326(5959): 1541-1545
[5] Hua Zhong, Hong Shi, Xue-Bin Qi, et al. (2010). Extended Y chromosome investigation suggests postglacial migrations of modern humans into East Asia via the northern route. Molecular biology and evolution;28(1):717-27.
[6] Chuan‐Chao WANG Shi YAN Zhen‐Dong QIN Yan LU Qi‐Liang DING Lan‐Hai WEI Shi‐Lin LI Ya‐Jun YANG Li JIN Hui LI, et al. (2013). Late Neolithic expansion of ancient Chinese revealed by Y chromosome haplogroup O3a1c‐002611.
[7] Sun, Jin & Li, Yingxiang & Ma, Pengcheng & Yan, Shi & Cheng, Hui-Zhen & Fan, Zhi-Quan & Deng, Xiao-Hua & Ru, Kai & Wang, Chuan-Chao & Chen, Gang & Wei, Ryan. (2021). Shared paternal ancestry of Han, Tai-Kadai-speaking, and Austronesian-speaking populations as revealed by the high resolution phylogeny of O1a-M119 and distribution of its sub-lineages within China. American journal of physical anthropology. 174. 10.1002/ajpa.24240. https://www.researchgate.net/publication/349144829_Shared_paternal_ancestry_of_Han_Tai-Kadai-speaking_and_Austronesian-speaking_populations_as_revealed_by_the_high_resolution_phylogeny_of_O1a-M119_and_distribution_of_its_sub-lineages_within_China
[8] Ko AM, Chen CY, Fu Q, et al. Early Austronesians: into and out of Taiwan. Am J Hum Genet. 2014;94(3):426-436. doi:10.1016/j.ajhg.2014.02.003
[9] Colin Renfrew, Bin Liu (2018). The emergence of complex society in China: the case of Liangzhu. Antiquity;92(364):975-90. https://www.cambridge.org/core/journals/antiquity/article/abs/emergence-of-complex-society-in-china-the-case-of-liangzhu/0D4FD61E9460755CED69047FAD7FA2AD
[10] Tống Kiến 宋建 (2017). Liangzhu – một quốc gia cổ đại phức tạp bị chi phối bởi thần quyền 良渚——神权主导的复合型古国. 东南文化;(1):6-15.
[11] Zhang, Chi; Hung, Hsiao-chun (2008), “The Neolithic of Southern China-Origin, Development, and Dispersal”, Asian Perspectives, 47 (2): 299–329, doi:10.1353/asi.0.0004
[12] Li Liu, Xingcan Chen (2012). The archaeology of China: from the late Paleolithic to the early Bronze Age: Cambridge University Press.
[13] Đổng Sở Bình 董楚平; “Phương Việt hội thi” “方钺会矢” – Một trong những diễn giải về các nhân vật Lương Chử 良渚文字释读之一[J];东南文化;2001年03期.
[14] Li Xueqin 李学勤: ” Văn tự đồ gốm của văn hóa Lương Chử” “良渚文化的多字陶文”, Tạp chí Đại học Tô Châu 苏州大学学报 (Đặc san Nghiên cứu về Ngô 吴学研究专辑)”, 1992年。
[15] Wang Hui 王晖: Nhìn vào niên đại xuất xứ của các ký tự Trung Quốc từ việc so sánh các bản khắc và chữ khắc trên xương bằng thần tiên với các tài liệu khảo cổ – và thảo luận về nguồn gốc của các bản khắc gốm và chữ Hán một phần của nhóm văn hóa Lương Chử 从甲骨文金文与考古资料的比较看汉字起源时代 – 并论良渚文化组词类陶文与汉字的起源”, “Tạp chí Khảo cổ học” “考古学报” 2013年第3期。
[16] Đội khảo cổ Thạch Gia Hà 石家河考古队 (1999). Tiêu Gia Ốc Tích 肖家屋脊: Nhà xuất bản Văn Vật 文物出版社.
[17] Nguyễn Văn Huyên, Vinh Hoàng (1975). Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam. Hà Nội.
[18] Li, Bing & Zhu, Cheng & Wu, Li & Li, Feng & Sun, Wei & Wang, Xiaocui & Liu, Hui & Meng, Huaping & Wu, Di. (2013). Relationship between environmental change and human activities in the period of the Shijiahe culture, Tanjialing site, Jianghan Plain, China. Quaternary International. 308. 45-52. 10.1016/j.quaint.2013.05.041.
[19] McColl H, Racimo F, Vinner L, Demeter F, Gakuhari T, Moreno-Mayar JV, Van Driem G, Wilken UG, Seguin-Orlando A, De la Fuente Castro C, Wasef S (2018). The prehistoric peopling of Southeast Asia. Science. 361(6397):88-92. https://science.sciencemag.org/content/361/6397/88
[20] Lipson M, Cheronet O, Mallick S, Rohland N, Oxenham M, Pietrusewsky M, Pryce TO, Willis A, Matsumura H, Buckley H, Domett K, Nguyen GH, Trinh HH, Kyaw AA, Win TT, Pradier B, Broomandkhoshbacht N, Candilio F, Changmai P, Fernandes D, Ferry M, Gamarra B, Harney E, Kampuansai J, Kutanan W, Michel M, Novak M, Oppenheimer J, Sirak K, Stewardson K, Zhang Z, Flegontov P, Pinhasi R, Reich D. Ancient genomes document multiple waves of migration in Southeast Asian prehistory. Science. 2018 Jul 6;361(6397):92-95. doi: 10.1126/science.aat3188. Epub 2018 May 17. PMID: 29773666; PMCID: PMC6476732. https://science.sciencemag.org/content/361/6397/92
[21] David Reich. Who we are and how we got here: Ancient DNA and the new science of the human past. 2018: Oxford University Press.
[22] Lang Linh (2021), Hồng Bàng thị có phải ‘truyền thống được kiến tạo’ hay không? https://luocsutocviet.com/2021/10/14/560-hong-bang-thi-co-phai-truyen-thong-duoc-kien-tao-khong/
[23] Lang Linh (2021), Cơ sở tiếp cận và nghiên cứu về thời kỳ Hồng Bàng. https://luocsutocviet.com/2021/07/24/547-co-so-tiep-can-va-nghien-cuu-ve-thoi-ky-hong-bang/
[24] Lang Linh (2020), Huyền sử Hồng Bàng và nguồn gốc dân tộc Việt Nam. https://luocsutocviet.com/2020/07/16/498-huyen-su-hong-bang-va-nguon-goc-dan-toc-viet-nam/
[25] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Quyển I – Kỷ Hồng Bàng thị, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1993.
[26] Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam chích quái 嶺南摭怪, bản dịch Lê Hữu Mục, nhà sách Khai Trí (1960). [27] Trần Kinh Hòa (Cheng Ching-Ho), 1960, Khảo cứu về danh xưng Giao Chỉ, tạp chí Đại học Huế.
[28] Tích Dã, Thời đại Văn Lang – Âu Lạc trong lịch sử Việt Nam: Từ truyện ký đến tín sử https://nghiencuulichsu.com/2019/05/10/thoi-da%cc%a3i-van-lang-au-la%cc%a3c-trong-li%cc%a3ch-su%cc%89-vie%cc%a3t-nam-tu-truye%cc%a3n-ky-den-tin-su%cc%89/
[29] Lang Linh (2021), Hùng Vương và Lạc Vương: từ các ghi chép lịch sử https://luocsutocviet.com/2021/10/13/559-hung-vuong-va-lac-vuong-tu-cac-ghi-chep-lich-su/
[30] Phan Anh Dũng, Khảo sát tên gọi Văn Lang trên cơ sở ngữ âm lịch sử http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/111-goc-nhin-van-hoa-2/13730-khao-sat-ten-goi-van-lang-tren-co-so-ngu-am-lich-su
[31] Wang, CC., Yeh, HY., Popov, A.N. et al. Genomic insights into the formation of human populations in East Asia. Nature 591, 413–419 (2021). https://doi.org/10.1038/s41586-021-03336-2
[32] Liu D, Duong NT, Ton ND, Van Phong N, Pakendorf B, Van Hai N, Stoneking M (2020). Extensive ethnolinguistic diversity in Vietnam reflects multiple sources of genetic diversity. Molecular Biology and Evolution. https://doi.org/10.1093/molbev/msaa099
[33] Zhang H, He G, Guo J, Ren Z, Zhang H, Wang Q, Ji J, Yang M, Huang J, Wang CC. Genetic diversity, structure and forensic characteristics of Hmong-Mien-speaking Miao revealed by autosomal insertion/deletion markers. Mol Genet Genomics. 2019 Dec;294(6):1487-1498. doi: 10.1007/s00438-019-01591-7. Epub 2019 Jul 16. PMID: 31312894.
[34] He G, Wang M, Zou X, Chen P, Wang Z, Liu Y, Yao H, Wei L-H, Tang R, Wang C-C and Yeh H-Y (2021) Peopling History of the Tibetan Plateau and Multiple Waves of Admixture of Tibetans Inferred From Both Ancient and Modern Genome-Wide Data. Front. Genet. 12:725243. doi: 10.3389/fgene.2021.725243
[35] Huang, X., Xia, Z., Bin, X., He, G., Guo, J., Lin, C., Yin, L., Zhao, J., Ma, Z., Ma, F., Li, Y., Hu, R., Wei, L., & Wang, C. (2020). Genomic Insights into the Demographic History of Southern Chinese. bioRxiv.
[36] Charleston W K Chiang, Serghei Mangul, Christopher Robles, Sriram Sankararaman, A Comprehensive Map of Genetic Variation in the World’s Largest Ethnic Group—Han Chinese, Molecular Biology and Evolution, Volume 35, Issue 11, November 2018, Pages 2736–2750, https://doi.org/10.1093/molbev/msy170
[37] Loofs-Wissowa H (1991). Dongson drums: instruments of Shamanism or regalia?. Arts asiatiques, p.39-49. Doi: 10.3406/arasi.1991.1300 https://www.researchgate.net/publication/250235416_Dongson_Drums_Instruments_of_Shamanism_or_Regalia
[38] Higham C (2014). Early mainland Southeast Asia: from first humans to Angkor. River Books, p.200.
[39] Lang Linh (2021), Nguồn gốc và sự ảnh hưởng của văn minh Đông Sơn. https://luocsutocviet.com/2021/07/03/543-nguon-goc-va-su-anh-huong-cua-van-minh-dong-son/
[40] Lang Linh (2021), Nguồn gốc của trống đồng và văn hóa Đông Sơn. https://luocsutocviet.com/2021/07/01/541-nguon-goc-cua-trong-dong-va-van-hoa-dong-son/
[41] Tư Mã Thiên, Sử ký III – Thế Gia, Phạm Vân Ánh dịch, Nhà xuất bản Văn học. 2020.
[42] Lịch Đạo Nguyên, Thủy Kinh Chú Sớ, Quyển XXXVI, trang 394, Nguyễn Bá Mão dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2005.
[43] Lê Trọng Khánh, Những tín hiệu thu nhận từ bản lược đồ địa danh – ngôn ngữ Việt cổ – bước đầu góp phần vào việc tiếp cận một số vấn đề lịch sử cổ đại. https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/71284/1/263%281992-4%29%285%29.pdf