ĐI TÌM VẺ ĐẸP CỦA
CA DAO DÂN CA
TRONG CỘNG ĐỒNG
CÁC TỘC NGƯỜI NAM BỘ
Phát biểu tại Hội thảo Khảo sát các giá trị Văn hoá đặc trưng đồng bằng Sông Cửu Long, do Bộ Văn hoá – Thông tin tổ chức tại đại học Cần Thơ- đã đăng trong tập “Tìm hiểu các giá trị Văn hoá đồng bằng sông Cửu Long”)
Hồ Tĩnh Tâm
Tôi xin bắt đầu bài viết này từ một câu ca dao mà tôi bắt gặp năm 1988, tại Vũng Liêm, do một cô giáo sinh đọc ngoài cửa phòng nghỉ của tôi, nhưng cố tình cho tôi nghe được.
Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng
Dẫu thương cho lắm cũng chồng người ta
Câu ca dao bình thường thôi, nhưng phải nghe đúng ngữ điệu của cô gái ấy, tình cảm của cô gái ấy, mới thấm hết cái hay rất thật của nó. Bởi vậy ở Nam Bộ, bên cạnh đờn ca vọng cổ và bản vắn, còn có một hình thức rất phổ biến là ca ra bộ- nghĩa là người ca phải vừa hát vừa ra bộ bằng gương mặt, ánh mắt, thân hình, đôi bàn tay, bàn chân… để diễn tả cho hết tình cảm của mình gởi trong câu hát. Trong phạm vi bài này, tôi xin phép nhận xét về ca dao dân ca Nam Bộ dưới góc độ ấy. Của một vùng văn hóa rộng lớn đã sản sinh ra nó.
Trước hết xin nói qua về sự hình thành vùng văn hóa Nam Bộ
I - TỪ VÙNG VĂN HÓA CỔ TRUYỀN NAM BỘ ĐẾN VÙNG VĂN HÓA NAM BỘ HÔM NAY
Theo
những khám phá của các nhà khảo cổ học, con người đã có mặt ở vùng đất
Nam Bộ khá lâu đời. Nếu căn cứ theo những di chỉ cư trú và di cốt của
con người ở Óc Eo, Ba Thê, Núi Nổi… thì từ cách đây 4000 đến 5000 năm,
con người đã có mặt ở vùng đất còn chứa nhiều nước mặn, sình lầy, cây
dại và dã thú này; đồng thời họ cũng để lại nhiều dấu ấn văn hóa khá
đặc trưng về vùng miền, mà sinh động và thiết thực nhất là ở vùng tứ
giác Long Xuyên và U Minh Thượng. Rất tiếc là các di tích của nền văn
minh ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng, nền văn minh ấy chỉ hứng khởi lên
khoảng vài trăm năm rồi bị chìm lấp trong lòng đất miền Tây, với những
hình ảnh hư ảo còn lại của một vương quốc Phù Nam, hay một “nước Chí
Tôn” trong sử sách, bia ký cổ.
Công cuộc mở đất phương Nam,
khẳng định vùng văn hóa phương Nam, chỉ thật sự định hình từ những cuộc
di dân lớn của người Việt ở TK XVI và đầu TK XVII. Đó là quá trình di
dân tự nhiên, quá trình di dân cơ chế và quá trình chuyển cư tại chỗ.
Quá trình di dân tự nhiên là quá trình di dân lẻ tẻ, chưa đủ để định
hình bản sắc văn hóa của vùng đất. Chỉ đến khi nhà Nguyễn tiến hành
những cuộc di dân cơ chế lớn từ vùng ngũ Quảng vào, kết hợp với sự di
dân cơ chế sau thất bại của nhà Minh trước triều Mãn Thanh (do Dương
Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Mạc Củu cầm đầu), cùng với việc di dân cơ
chế trước TK XV của những lớp cư dân cổ Khơme đến từ nhiều vùng trên
đất nước Campuchia, tràn về theo sông Tiền, sông Hậu để tránh họa diệt
tộc của vua chúa Xiêm La, và sự di dân cơ chế của người Chăm Hồi giáo
đến vùng Châu Đốc, kết hợp với quá trình chuyển cư tại chỗ của cộng
đồng các tộc người để lập làng lập ruộng, vùng văn hóa mang bản sắc Nam
Bộ mới thật sự hình thành. Chính nhờ quá trình chuyển cư tại chỗ, mới
có việc thúc đẩy sự gần gũi giữa các nhóm dân cư, giữa các cộng đồng
dân tộc, mới làm xuất hiện những điều kiện khách quan, tạo nên những
tiếp xúc văn hóa giữa các cộng đồng người có những đặc trưng văn hóa
khác nhau, làm nên tính chất địa văn hóa, địa kinh tế của một vùng đất
châu thổ phương Nam rộng lớn. Đó chính là một vùng văn hóa trẻ, phong
phú, đa dân tộc, đa tôn giáo và đa màu sắc (ở đây chúng tôi không có ý
định đi sâu tìm hiểu vấn đề này).
Muốn tìm hiểu đặc trưng vùng
văn hóa, tất nhiên phải lấy đặc điểm tính cách con người làm trung tâm
để xem xét. Bởi vì con người là chủ nhân của mọi ngôn ngữ và hành động,
tác động sâu sắc đến âm nhạc, sân khấu, văn học, cũng như kiến trúc,
hội họa, lễ hội và phong tục… Tất nhiên, đó là cộng đồng những tộc
người cùng chung sống trên nền địa địa lý tự nhiên của vùng phù sa cổ
miền Đông và vùng phù sa mới miền Tây Nam Bộ, mà tâm lý tính cách bị
chi phối khá mạnh bởi hoàn cảnh địa lý, kinh tế – xã hội và quá trình
phức hợp của nó theo từng bước phát triển của vùng dân cư rộng lớn này.
Tất nhiên, chúng ta không thể phân chia rạch ròi từng vùng văn hóa trên
cả nước, nhưng căn cứ vào những đặc điểm văn hóa khu biệt nhất định,
chúng tôi tạm gọi là vùng địa văn hóa Nam Bộ để làm tiêu chí xem xét.
Theo
đó, nhiều nhà nhân chủng học, dân tộc học… đều có chung nhận định tương
đối thống nhất về tính cách người Nam Bộ, tựu trung gồm những nét chính
sau đây: hào hiệp trong cuộc sống, bình đẳng trong giao tiếp, ít bảo
thủ.
Hào hiệp không phải xuất phát từ máu “làm chơi ăn
thiệt” trên vùng đất giàu tôm cá, phì nhiêu màu mỡ, mưa thuận gió hòa…
mà nó được thể hiện trong nhiều yếu tố tâm lý cấu thành tính cách đó.
Đó là thái độ mến khách, với tình yêu thương con người, ý thức coi
trọng nhân nghĩa hơn tiền tài, danh vọng. Bởi vì, cho dầu là người
Việt, người Khơme, người Hoa hay người Chăm, thì họ cũng phải thường
xuyên đối đầu với một vùng đất mới còn hoang hóa, với biết bao khó khăn
về điều kiện thiên nhiên và địa lý khắc nghiệt trong buổi đầu khai
hoang lập ấp. Hơn nữa, trước một thiên nhiên bao la kỳ bí, chằng chịt
sông rạch, rậm rạp rừng sâu, tràn ngập muỗi mòng, thú dữ… con người trở
nên vô cùng nhỏ bé, tất nhiên phải dựa vào nhau mà tôn tại. Trong hoàn
cảnh ấy, họ không thể nghĩ đến những thể chế từng ràng buộc của quan
nha, triều đình; lại càng không thể câu nệ những lề thói xa xưa của
làng xã nơi họ bỏ ra đi. Trên thực tế, đồng bằng sông Cưu Long trong
buổi đầu khai phá, chưa hề có một khu vực hành chính ổn định; mãi đến
khi Gia Long lên ngôi mới thiết lập được bộ máy cai trị của mình. Vì lẽ
đó, con người trong buổi đầu mở đất, tất phải sống với nhau trong tình
yêu thương san sẻ, bình đẳng tương thân, tương trợ để đùm bọc nhau sống
còn trong nỗi nhớ thương nguồn cội cố xứ của mình.
Tôi chưa
thấy ở đâu mà người dân gọi người lãnh đạo của mình bằng “thằng” bằng
“con” như ở Nam Bộ. “Thằng Bảy Bí thơ”, “Con Tám Chủ tịch”… thân mật cứ
như người trong nhà với nhau. Và cũng chẳng thấy nơi nào trẻ em lại
xưng “Con” với người lớn, đứa lớn hơn gọi đứa nhỏ hơn là “Cưng”, bằng
trang phải lứa thì xưng “Qua” với “Bậu”. Lúc thân mật cũng “Qua” với
“Bậu”, lúc giận hờn cũng “Bậu” với “Qua”.
Ví dầu tình bậu muốn thôi
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.
Bậu ra cho khỏi tay qua
Cái xương bậu nát cái da bậu mòn.
Ít
bảo thủ là một đức tính tốt của người Nam Bộ. Tôi cứ nghĩ mãi về câu
thành ngữ “ăn Bắc mặc Nam”. Phải chăng người miền Bắc ăn uống rất cầu
kỳ. Đến như rau sống mà cũng phải chẻ, phải xắt, phải lựa, phải rửa
bằng nước muối hay thuốc tím rồi rảy cho thật khô. Dân miệt đồng Nam
Bộ, bẻ rau ngoài đồng, rửa quấy quá vài nước, thẩy lên mâm là xong. Rau
muống cứ để nguyên cây, bắp chuối cứ để nguyên bắp. Cá chỉ cần nướng
lụi. Rắn chỉ cần nướng lèo. Ăn uống cốt miếng lớn cho no. Có phải nhà
hàng đâu mà cầu kỳ. Còn mặc thì phong phanh lắm. Cũng như ở vậy, chỉ
cần cái nhà đá, nhà đạp để che mưa che nắng, khi không cần nữa thì đá
thì đạp, dứt áo đi nơi khác dễ dàng. Trong những di cốt tìm được ở Nam
Bộ, các nhà khảo cổ đều nhận ra một điều, người Nam Bộ rất ít dùng đồ
trang sức. Nghĩa là người dân xứ này không coi trọng cái ăn, cái mặc
lắm. Điều quan tâm của họ là những gì đang ở phía trước. Quá khứ là cần
thiết, nhưng không quan trọng bằng hiện thực và tương lai. “Ra đi gặp
vịt cũng lùa, gặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu”. Đó là một câu ca
dao hay về tính cách con người trên vùng đất từng một thời đầy dẫy cá
sấu và hổ báo. Hướng tới tương lai thì phải mạnh dạn vứt bỏ quá khứ,
nếu như xét thấy nó đã lỗi thời. Nếu nặng lòng với quá khứ thì làm sao
đủ sức dấn thân để khai phá những vùng đất mới, để tiếp cận những cái
mới. Có lẽ Nam Bộ là nơi tiên phong của báo chí viết bằng chữ quốc ngữ,
là miền đất tiếp xúc với công nghệ hiện đại sớm nhất, là xứ có đội bóng
đá nữ đầu tiên của cả nước, là nơi có người đàn bà dám lặn lội muôn vạn
dặm đến quan môn triều đình dóng trống kêu oan cho chồng… Đã đành gốc
gác người Nam Bộ cũng từ Bắc, từ Trung vào, nhưng trên chặng đưồng
thiên lí, họ đã làm rơi rụng dần những cái gì thuộc về tính cách của
nơi đã sinh ra mình, để có thể nhanh chóng hòa nhập với vùng đất mới mà
họ đã chọn làm nơi “đất lành chim đậu”.
Nhưng từ nền văn hóa cổ
đến nền văn hóa Nam Bộ đương đại là cả một tiến trình phát triển suốt
300 năm mở đất, mà nhiều vấn đề vẫn cần phải tiếp tục đặt ra để nghiên
cứu đến tận ngọn nguồn của nó. Ngày nay, chúng ta vẫn phải tiếp tục
nghiên cứu để khẳng định đích thực chủ nhân của những tầng văn hóa
chồng chất trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long vào những thiên niên kỷ
thứ nhất, trước và sau công nguyên. Tất nhiên đây là một công việc rất
khó, bởi tính năng động của một địa bàn rộng lớn, có nhiều luồng tiếp
xúc nên cũng có nhiều biến động về các tộc người; hơn nữa, nó lại là
vùng giao thoa của nhiều trung tâm chính trị khác nhau trong thời kỳ cổ
đại. Nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, cũng như nhiều văn bản của Nhà nước
đô hộ Pháp, vẫn thường nói đến những Nhà nước Đông Nam Á có cương vực
rộng lớn, với một thể chế rất chặt chẽ, thâu gồm những vùng đất rộng
lớn, bao trùm lên cương giới nhiều quốc gia hiện nay. Nhưng trên thực
tế, dưới ánh sáng tiến bộ của các ngành khoa học hiện đại, các quốc gia
Đông Nam Á cổ đại chỉ là những trung tâm chính trị rất lỏng lẻo, cơ cấu
thành phần tộc người và biên giới không rõ ràng và đầy biến động. Vì
vậy không thể chỉ căn cứ vào các thư tịch cổ mà quy chủ nhân của những
vùng đất đai cụ thể là ai, rồi từ đó gán ép cho các dân tộc khác tội
chiếm đất. Lấy ví dụ như theo quan niệm của người Khơme, chúng ta không
thấy có sự đối lập giữa “Thủy Chân Lạp” và “Lục Chân Lạp”; mà chỉ có sự
phân biệt giữa ba vùng địa lý theo quan niệm chung của cư dân Đông Nam
Á. Đó là ba vùng: Khơme Lơ (Khơme vùng cao), Khơme Kandal ( Khơme vùng
giữa), và Khơme Crôm (Khơme vùng dưới). Người Pháp từng gán cho các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thuộc vùng Khơme Crôm, với lý do vùng đất
này có người Khơme sinh sống, có nhiều địa danh mang tên các địa danh
Khơme. Rồi họ còn dựng lên cái gọi là đế chế Phù Nam có địa bàn trải
rộng qua cả Thái Lan, Lào, Việt Nam. Từ đó cho rằng, nếu không có sự
hiện diện của Pháp, các nước Lào và Campuchia đều sẽ bị Việt Nam thôn
tính. Với thái độ nghiên cứu văn hóa nghiêm túc và khoa học, chúng ta
dễ dàng nhận thấy rằng, ranh giới giữa các vùng Khơme Kandal và Khơme
Crôm chính là đôi bờ sông Niết Lương. Tại vùng Kandal hiện nay, ngươi
Khơme lấy Chămka (bãi sông), nuôi bò là chính; trái lại vùng Xoài Riêng
(nam sông Niết Lương) lại làm ruộng nước, nuôi trâu. Như vậy vùng vùng
Khơme Crôm phải chăng chính là vùng Xoài Riêng ngày nay. Xét theo tâm
lý đặt tên địa danh, những tên đất như Gò Công, Cà Mau… rất có thể là
do cư dân Khơme đặt theo tên Kôkông, Takthmau trong bước đường di cư
của họ, khi mà các tộc người Việt và người Chăm chưa đến. Tại các vùng
Sóc Trăng, Trà Vinh, nơi có nhiều người Khơme cư trú lâu đời nhất,
chúng ta cũng không tìm thấy ngôi chùa nào có trên 300 năm tuổi. Theo
tập quán canh tác, người Khơme thích ở “giồng” còn người Việt thích ở
gần sông rạch. Đó là mối quan hệ tự nhiên trong bước đường khai phá
đồng bằng sông Cửu Long của hai tộc người Việt – Khơme. Như vậy, Nam Bộ
chính là vùng văn hóa đất mới, vùng ngoại biên của nhiều quốc gia cổ
đại, mà sau này người Khơme, người Việt và người Chăm đã chung lưng đấu
cật cùng nhau khai phá. Chủ nhân của nền văn hóa, văn minh này, chính
là cộng đồng những tộc người đang sống trên châu thổ của sông Tiền,
sông Hậu. Trong đó chủ yếu là người Việt, người Khơme, người Chăm và
người Hoa, với chung một nền văn hóa hội nhập của các tộc người trên
một địa bàn rộng lớn của đồng bằng châu thổ 18 triệu người.
Tất
cả những điều trên đây vẫn là chưa đủ để nói về bản lĩnh và tính cách
người Nam Bộ, nhưng chừng đó cũng đủ góp phần hình thành bản sắc văn
hóa của một vùng đất mới, nơi hội tụ rất nhiều luồng văn hóa khác nhau
của thế giới. Một trong những giá trị ấy là phương ngữ Nam Bộ, bộ phận
hình thành bản sắc độc đáo của ca dao dân ca Nam Bộ.
II - VÀI NÉT VỀ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
TRONG CA DAO DÂN CA
Phương
ngữ Nam Bộ được hình thành và phát triển cùng với tiến trình phát triển
lịch sử 300 năm của vùng đất, càng ngày càng được bổ sung theo sự giao
lưu mạnh mẽ của nhiều luồng văn hóa khác nhau; nó bắt đầu hình thành từ
TK XVII, cùng lúc với những đoàn người Việt đầu tiên vào định cư khai
khẩn vùng đất Miền Đông Nam Bộ, rồi sau đó phát triển mạnh xuống Miền
Tây. Đến nay, phương ngữ Nam Bộ đã trải qua nhiều chặng đường phát
triển, gắn với những sự kiện chính trị - văn hóa. Chẳng hạn như sự ra
đời của chữ quốc ngữ vào nửa sau TK XIX. Nó là tiếng nói sinh động của
nhân dân lao động, được sử dụng và phổ biến thông qua con đường khẩu
ngữ, trong khuôn khổ một vùng văn hóa địa phương nhất định. Chúng ta
cần phải công nhận nó, coi nó như một công cụ chung để tư duy tại một
vùng đất văn hóa đặc thù; từng bước hòa nhập thành ngôn ngữ phổ biến
chung, ngôn ngữ văn học của cả nước. Trên thực tế, chúng ta rất khó
chọn ngôn ngữ một vùng miền cá biệt nào làm ngôn ngữ chuẩn cho tiếng
Việt, mà chính tiếng Việt đang càng ngày càng phát triển chính từ nền
tảng ngôn ngữ vùng miền trong cả nước.
Từ khi đất nước thống
nhất, rõ ràng ngôn ngữ tiếng Việt đã trở nên phong phú hơn rất nhiều,
bởi chính nhiều phương ngữ vùng miền khác nhau trong cả nước vun bồi
nên. Điều đó góp phần rất to lớn trong việc hình thành tiếng Việt văn
học chung của cả nước. Xin dẫn ra đây một đoạn văn viết về chị Út Tịch
mà nhà văn Nguyễn Thi đã viết trong “Người mẹ cầm súng”: “Thắng giặc
trở về, chị Út sẵn cái bụng bầu chang bang, bước ra làm ông địa. Trống
đánh tùng tùng. Lân múa té nghiêng té ngửa. Bà con lối xóm cười bể
bụng”. Thiết tưởng, nếu khôngsử dụng phương ngữ Nam Bộ, khó mà dựng
được một hình tượng sống động như vậy.
Riêng về phương ngữ Nam
Bộ, rõ ràng có sự giao lưu rất đậm nét với các phương ngữ khác trong
khu vực, như phương ngữ của đồng bào Khơme, đồng bào Chăm, đồng bào
Hoa… và một số luồng ngôn ngữ khác. Điều đó làm nên diện mạo và thần
thái của phương ngữ Nam Bộ. Nó hình thành chính từ ngôn ngữ nói của
đồng bào. Ở đây, chúng tôi xin phép không đi sâu vào lĩnh vực ngôn ngữ
học, như từ vựng, tu từ và giá trị ngữ pháp văn bản của nó.
Nếu
trong ngôn ngữ nói, người Nam Bộ thường có thói quen chỉ sử dụng 5 dấu
thanh (không dùng thanh ngã), thường nói sai phụ âm đầu (v-d, h-g), hay
có sự biến đổi trong phát âm (i-iê, ng-n), hay gộp âm trong xưng hô
(bả, chả, ảnh, chỉ), trong chỉ địa danh (ngoải, trỏng), hay dùng từ cổ
(bể, bợ, bông, heo), thích dùng yếu tố phụ để tạo từ có sắc thái ( dơ
hầy, nhọn lểu, rẻ rề, vàng ngoách, đỏ hoét), thích vay mượn ngôn ngữ
khác (chạp phô, tàu hủ, khổ qua, bao tử, hột xoàn, hên xui, cần xé, cù
lao, giận lẫy, cúng dàng)… thì phương ngữ phương ngữ Nam Bộ chính là
được hình thành trên nền tảng ngôn ngữ nói hàng ngày của bà con.
Ví dụ:
Tèm
hem, tầy huầy, trớt nguớt, thoi loi, tùm lum, nháu nhó, hết ý, chịu
chơi, xả láng, thả giàn, hết ý, hết xảy, quá xá mấu, đẹt câm đẹt ngắt,
cứng ngắt cứng còng, trẻ khô, già cú đế, ngồi chò hỏ, ngồi chành bành,
ngồi chèm bẹp, ớn xương sống, sợ thấy mụ nụ, trời thần đất lở, thấy mồ
tổ, chèng đéc ơi…
Chính từ nếp sống, cách suy nghĩ và nói năng
của người Nam Bộ, cũng như sự bộc trực, thẳng thắn, ít thích văn chương
rào đón, mà ngôn ngữ Nam Bộ thường có lối nói rút ngắn, giàu hình
tượng, thích ngoa dụ cho vui: bi dai, bi lớn, bi nhiêu, bi tuổi, bản
mặt chằn vằn, đồ chằng tinh hổ lửa, đồ ba trợn, con đỉ ngựa, cái quần
què, đẹp thấy ớn, xấu thấy sợ, ngon hết biết, say quắt cần câu, lười
thối thây, làm ăn như mòng đóc, cà rịch cà tang, tà tà ển ển, cà xích
cà xẹo, bẹo dạng bẹo hình, bình bình nước nhửng…
Và… cũng thường
tình như vậy, phương ngữ đi vào ca dao Nam Bộ một vẻ đẹp bình dân, mộc
mạc, mà phải đọc nhiều lần chúng ta mới nhận ra được nó.
- Trắng như bông lòng anh hổng chuộng
Đen như cục than hầm biết làm ruộng anh thương
- Muốn người ta người ta không muốn
Xách cái dù đi xuống đi lên
- Thương sao thương quá bất nhơn
Bữa nay gặp mặt thương hơn bữa nào
- Mù u ba lá mù u
Vợ chồng cãi lộn con cu giảng hòa
- Dĩa bàng thang con tôm càng dựng đứng
Bởi gia cảnh anh nghèo nên
cặc nứng nửa con
- Khen cho con nhỏ cả gan
Ghe không bánh lái dám chèo ngang giữa dòng
- Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi
Kẻo khúc sông này bờ bụi tối tăm
- Thuyền chài thuyền lưới thuyền câu
Biết thuyền nhơn ngãi nơi đâu mà tìm
- Nước chảy liu riu lục bình trôi quắn quíu
Anh mãng thương nàng lịu địu xuống lên
- Mái dầm anh đong đưa
Cùng với em dạo mát
Đặt em ngồi đằng trước
Hay em ngồi đằng sau
Ôi em ngồi chỗ nào
Anh cũng không ưng bụng
Mái dầm anh lúng túng
Đặt em lên đùi anh
(Dân ca Khơme)
- Chiều xuống anh đưa em đi chơi
Xóm làng mình sông sâu nước chảy
Để em ngồi trên thuyền sao lòng anh áy náy
Sợ sóng đánh làm ướt đôi chân em
Để em ngồi đằng trước thì sợ trúng mái dầm
Ngồi ở giữa thuyền thì xa lơ xa lắc
Em ngồi ở đâu thật khó lòng tính được
Chỉ có cách là bồng em đặt lên đùi anh
(Dân ca Khơme)
…
Và
từ những câu ca dao dân dã ấy, khi được lợp lên mình nó những tầng lớp
gai điệu và tiết tấu, phương ngữ Nam Bộ vụt hiện những vẻ đẹp bình dân
tới lịm người.
- Đố ai kiếm được cái vẩy con cá trê vàng
Cái gan con tép bạc mấy vàng tôi cũng mua
Ô là ô áo vá quàng
(Lý áo vá quang)
- Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia thia quen chậu vợ chồng quen hơi
(Lý chim quyên)
- Cây da trước miễu ai biểu cây da tàn
Bao nhiêu lá rụng em thương chàng bấy nhiêu
(Hát đưa em)
- Ba xa kéo chỉ trên chòi
Xa kêu vòi vọi anh đòi chuyện chi
(Lý ba xa kéo chỉ)
- Chiều chiều gọt mướp nấu canh
Thấy anh qua lợi bỏ hành cho thơm
(Lý trái mướp)
- Lỡ tay rớt bể bình vôi
Chủ gia bắt được đọa đày xứ xa
(Lý bình vôi)
- Chú chim sẻ ơi
Ơ ơ ớ hùi
Ăn lúa nhà người
Vừa thơm vừa ngọt
Đừng ăn lúa mót
Trên đồng nhà tao
Lúa của nhà nghèo
Vừa cay vừa đắng
(Choôlchap- dân ca Khơme)
- Trên cành đơm boong vui quá
Sáo con nhảy múa tối ngày
Cánh thì xòe ra bay bay
Chân thì lia thia nhảy nhảy
Ơi đàn sáo con bé tí
Chẳng biết nhờ ai đệm đàn
Đành lấy chiếc mỏ ra ràng
Mổ cành đơm boong khe khẽ
(Xarikakkeo- dân ca Khơme)
- Đừng nhìn tao bớ chim ơi
Hai đứa tao yêu nhau rồi
Mà biết nói gì
Chỉ biết nhìn chim bay đi
(Chim Môhôri- dân ca Khơme)
- Phiền muộn chi em làm héo cánh hoa
Luyến tiếc chi em làm héo nụ cười
Hay là em đã say đắm nơi nào
Ta càng tha thiết mãi không thôi
(Xaccrova chhlơơi chhloong- dân ca Khơme)
- Chim cu kêu cúc cu
Nó đậu trên ngọn tre
Anh gặp rồi anh thương
Em đây còn nhỏ
Em ơi anh chờ em
Em đi lấy chồng
Sao đành bỏ anh
(dân ca Chăm)
- Kiếp này lắm ngang trái
Để kiếp sau ta gặp nhau
Anh ơi số trời định ước
Anh đừng giận vô cớ
(dân ca Chăm)
- Con chim trao trảo
Nó rất dạn
Đã bay khắp nơi
Được sống sung sướng
Sanh con đẻ cháu
Được ở khắp bụi bờ
(dân ca Chăm)
- Con ơi
Ở với mẹ có áo mặc
Ra lấy vợ
Áo không kip cài nút.
Con ơi
Đừng buôn lá bài
Của cải của người ta
Đừng lừa gạt.
(dân ca Chăm)
III - HÃY ĐẾN VỚI CUỘC SỐNG ĐỂ TÌM VẺ ĐẸP CỦA CA DAO DÂN CA NAM BỘ.
Ca
dao dân ca Nam Bộ là bộ phận hợp thành của một phần văn hóa các tộc
người chung sống trong cộng đồng cư dân Nam Bộ, nó có sự ảnh hưởng,
giao lưu và hội nhập lẫn nhau rất lớn; chính vì vậy, theo thời gian, nó
càng ngày càng phát triển với một diện mạo đặc trưng, tương đối khu
biệt so với các nền văn hóa của các vùng miền khác nhau trong cả nước.
Chẳng hạn: dân ca Tây Bắc thường có đường nét giai điệu mềm mại, tiết
tấu khoan thai, như các điệu hát Sli, hát lượn, hát xòe hoa;.. dân ca
Tây Nguyên thường có đường nét giai điệu mạnh mẽ, tiết tấu nhanh, dồn
dập;.. dân ca Trung Bộ thường chậm, buồn, thiết tha, man mác với các
điệu hò hụi, hò khoan, lý hoài nam;.. dân ca Nam Bộ là tổng hòa của
nhiều tính cách, tạo thành những mới lạ trong giai điệu, tiết tấu cũng
như trong ca từ- mà chỉ riêng hát lý đã chứng tỏ sự giàu có đến vô cùng
tận, từ lý con cóc, lý con nhái, lý con cá trê, lý con chuột, lý con
mèo, lý đương đệm, lý cái phảng, lý cây ổi, lý cây bần, lý chim quyên,
lý bình vôi, lý bờ đắp, lý hố mơi, lý bốn cửa quyền, lý cá ông, lý con
kiến, lý con cua, lý con khỉ, lý bánh canh, lý bánh bò, lý ba xa kéo
chỉ, lý trái mướp, lý lựu lê, lý con sáo, lý con ngựa, lý lu là, lý tú
lý tiên, lý úp lá khoai, lý cây khế, Lý kêu đò… và… độc đáo tới mức… có
luôn cả Lý chun mùng (lý cánh cửa). Rồi thì hò Nam Bộ. Có hò trên cạn,
hò dưới nước, hò đối đáp, hò huê tình. Rồi lại còn hát ru, hát đưa
linh… Cả một kho tàng dân ca, dân nhạc, dân vũ đồ sộ đến choáng ngợp.
Tất cả vẫn đang tồn tại trong dân gian và tiếp tục phát triển mạnh mẽ
trong dân gian. Muốn đến được với kho tàng phong phú và đồ sộ ấy, chúng
ta nhất thiết phải đi sâu vào thâm nhập cuộc sống của nhân dân, của
cộng đồng các tộc người Nam Bộ. Và tất nhiên, chúng ta cũng cần phải có
phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian địa phương, tùy theo giác độ
tiếp cận và lợi ích của từng ngành khoa học. Theo đó, có thể coi khâu
sưu tầm là cái bắt đầu của mọi cái bắt đầu. Vì vậy chúng ta cần phải đề
ra một số phương hướng như sau:
1.
Phân vùng và tìm kiếm sự
hình thành các vùng văn hóa dân gian địa phương. Vì văn hóa dân gian
địa phương là một hệ thống chặt chẽ, phát triển trong tiến trình lịch
sử của dân tộc, nhưng đồng thời nó cũng rất cụ thể, mang tính chất địa
phương, tính chất vùng và tộc người, in rõ dấu ấn các thời đại, giai
đoạn lịch sử.
2.
Tìm hiểu cơ cấu nội tại của văn hóa dân gian
địa phương. Vì văn hóa dân gian không phải là một lĩnh vực đơn nhất mà
tồn tại ở những loại hình cụ thể, với những tác phẩm cụ thể của nó.
Loại hình và sự biểu hiện của loại hình qua những tác phẩm của nó là
những cấp độ cơ bản, đơn vị cơ bản, qua đó, ta nghiên cứu cơ cấu nội
tại của văn hóa dân gian địa phương.
3.
Tìm hiểu đặc thù của
từng loại hình văn hóa dân gian ở địa phương. Những đặc thù của các
loại hình văn hóa dân gian ở địa phương thường được biểu hiện ở các dấu
hiệu đề tài, hình thức chức năng sinh hoạt. Các dấu hiệu này thường có
sự liên quan chặt chẽ với nhau.
4.
Tìm hiểu sự giao lưu văn
hóa của các địa phương. Vì trong quá trình vận động trên hai trục không
gian và thời gian, văn hóa dân gian của các địa phương luôn tác động
qua lại lẫn nhau. Văn hóa dân gian ở địa phương này thu hút những tinh
hoa của văn hóa dân gian ở địa phương kia và ngược lại. Quá trình giao
lưu văn hóa của các địa phương chịu sự tác động của những quy luật lịch
sử – xã hội cơ bản.
Xuất phát từ nền văn minh sông nước, tìm
hiểu văn hóa Nam Bộ, tất nhiên phải tìm hiểu nền văn minh nông nghiệp
theo kiểu “làm nương rẫy”. Dấu ấn của nền văn minh này để lại dấu ấn
rất đậm nét trong ca dao dân ca.
- Gió đưa gió đẩy
Về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá
Về đồng ăn cua
Bắt cua làm mắm cho chua
Gởi về quê mẹ đỡ mua tốn tiền
- Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh
- Trên đất giồng mình trồng khoai lang
Trên đất giồng mình trồng dưa gang
Hỡi cô gánh nước đường xa
Còn bao gánh nữa để qua gánh giùm
- Hoa trong vườn nhà ai
Đưa làn hương ngược gió
Lẫn trong mùi cây cỏ
Anh biết tìm em đâu
(Phaka Kroong- dân ca Khơme)
- Bên kia sông có một vườn dâu
Em biết đâu chính tay anh trồng
Đưa em đi con nước xuôi dòng
Em biết không, lòng anh xôn xao?
Anh cùng em qua sông hái dâu
Em nuôi tằm cái áo viền bâu
Áo em mặc kín đáo bít bòng
Mọi việc phải do mình yêu nhau
(Oum tuk- dân ca Khơme)
…
Từ
nền văn minh miệt vườn này, ta thấy xuất hiện chiếc đòn gánh của đồng
bào Khơme có hai mấu ở hai đầu. Nó không chỉ để gánh, nó còn là thứ vũ
khí để chống đỡ khi cần; và khi mệt mỏi vì công việc, nó còn là chiếc
ghế để ngồi rất đắc dụng. Chính cộng đồng các tộc người cùng chung lưng
mở đất, biến vùng đất phù sa mới trầm thủy thành nền văn minh miệt vườn
miệt ruộng, đã nổ lực mở rộng quan hệ ra phía biển, đã biến cả một vùng
đất hoang sơ thành nền văn minh bản địa phát triển rất cao- trên cơ sở
nền văn minh Ấn Độ giáo, có sự hội nhập với nhiều nền văn minh khác.
Thâm
nhập thực tế, phải bắt đầu từ việc tiếp xúc với cộng đồng dân cư. Bởi
dân cư là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, là lực lượng áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm tiến hành những đổi mới trong tất
cả các quá trình sản xuất, là lực lượng đấu tranh xã hội và cải tạo
thiên nhiên, là lực lượng xây dựng và hình thành những tư tưởng và lối
sống mới của thời đại ngày nay. Khi tiếp xúc với các cộng đồng dân cư
của khu vực, chúng ta cần phải ý thức rằng, chính dân cư là bộ phận
chứa đựng nhiều đặc trưng về dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán,
những thói quen và đặc điểm về sản xuất, phụ thuộc vào những nhân tố xã
hội, tộc người và điều kiện thiên nhiên của các vùng sinh thái cụ thể.
Về
góc độ dân cư, đồng bằng châu thổ sông Cửu Long là một vùng dân cư hỗn
hợp, với nhiều nguồn gốc địa phương khác nhau, đa dạng về mặt tín
ngưỡng và tôn giáo, chênh lệch cách xa nhau về lối sống và phong tục
tập quán, trình độ phát triển xã hội và văn hóa, cũng như thói quen
canh tác và phong cách làm ăn. Bốn yếu tố tộc người Việt, Khơme, Chăm,
Hoa là rất quan trọng đối với việc thâm nhập thực tế để tìm vẻ đẹp của
ca dao dân ca Nam Bộ, cũng như các loại hình nghệ thuật khác. Yếu tố
tộc người và văn hóa Chăm và Mã Lai- đa đảo, yếu tố Khơme là những yếu
tố văn hóa và tộc người cổ xưa nhất, đã hình thành ở đồng bằng sông Cửu
Long từ trước TK XVII. Từ TK XVII về sau, yếu tố tộc người Việt và văn
hóa Việt đã trở thành nhân tố phát triển cơ bản của cả khu vực châu thổ
phù sa mới rộng lớn, bên cạnh sự hòa hợp những yếu tố của tộc người
vùng ven biển nam Trung Hoa. Ngày nay, đứng về mặt toàn vùng châu thổ
mà xét, thì tính chất bao trùm và phổ cập, chính là sự hòa
hợp và phát
triển của những yếu tố văn hóa của các tộc người, mà yếu tố văn hóa của
tộc người Việt là chủ đạo. Song những đặc trưng văn hóa của các tộc
người anh em khác, vẫn tồn đọng sâu đậm trong nông thôn của nhiều vùng-
đặc biệt là những vùng có tính chất khu biệt như Trà Vinh, Sóc Trăng,
Bạc Liêu, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. Vì vậy, châu thổ sông Cửu
Long, là một vùng đồng bằng duy nhất ở nước ta, về mặt dân cư và dân
tộc, có những đặc trưng nổi bật, mà chúng ta cần phải lưu ý trong quá
trình cải cách nói chung, và quá trình cải cách văn hóa nói
riêng.
Tính
chất hỗn hợp và đa dạng về mặt dân cư và quá trình xích lại gần nhau,
hòa hợp giữa các dân tộc trong khu vực, là một hiện tượng lịch sử có
tính quy luật, bắt nguồn từ lịch sử di dân và sự hình thành những vùng
sinh thái nhân văn của cả khu vực châu thổ phù sa mới rộng lớn. Nó góp
phần hình thành các loại hình dân cư, mà dân cư nông nghiệp là lại hình
dân cư có số dân đông nhất; bao gồm những nhóm dân cư chuyên canh ruộng
nuớc, chuyên canh lúa nổi và chuyên canh về rẫy. Bên cạnh đó, còn có
loại hình dân cư thứ hai là dân cư phi nông nghiệp, bao gồm dân cư
thành phố, thị tứ và nhóm dân cư buôn bán nông sản ở nông thôn (ở đây
chúng ta cũng cần kể tới nhóm dân cư làng nổi sống bằng nghề cá bè,
buôn bán thương hồ để xác định loại hình dân cư của họ). Loại hình dân
cư thứ ba là cộng đồng dân cư, dân tộc và tôn giáo, là một đặc điểm lớn
khó có vùng nào ở nước ta tồn tại trong thực tế và lịch sử. Ở Nam Bộ,
dân số Khơme chiếm tuyệt đại đa số ở huyện Trà Cú- Trà Vinh và một số
huyện Khác ở Sóc Trăng, Hậu Giang; người Hoa có số dân đa số tuyệt đối
trong một số xã ấp ở ở Kiên Giang, Hậu Giang và cà Mau; người Chăm có
dân số tuyệt đối ở một số xã thuộc vùng Châu Đốc- An Giang.
Về
góc độ tôn giáo, đạo Phật tiểu thừa hầu như là tôn giáo
toàn dân của
người Khơme; Hồi Giáo là tôn giáo của toàn thể người Chăm ở Châu Đốc;
đạo Hòa Hảo chiếm khoảng 78% tổng số dân tỉnh An Giang; đạo Cao Đài thì
phát triển mạnh ở Bến Tre, LongAn và Tiền Giang.
Phân loại dân
cư và dân tộc là hai đối tượng tổng hòa của nhiều hiện tượng xã hội, là
đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội, mà khi thâm nhập thực tế,
chúng ta cần phải hướng tới, để có thái độ và cách thức tiếp cận tốt
nhất. Điều cần xác định là việc nhìn nhận vị trí đặc biệt của cả vùng
châu thổ phù sa mới rộng lớn, nơi gặp gỡ của những nền văn hóa cổ rực
rỡ, là nơi thiên di và sinh tụ của nhiều tộc người trong lịch sử. Đó là
nơi mà các dân tộc Việt, Khơme, Chăm, Hoa đã cùng cư trú bên nhau, khai
thác đất đai, xây dựng cộng đồng và phát triển bản sắc văn hóa của dân
tộc mình. Đây cũng chính là những nét văn hóa chung của các cư dân Nam
Á tập trung rõ nét ở châu thổ sông Cửu Long, chứng minh một cội nguồn
chung và một xuất nguyên giống nhau, phản ánh trên tư duy thần thoại và
truyện cổ dân gian, ca dao dân ca dân gian của các dân tộc Việt, Khơme,
Chăm, Hoa trên nền quan niệm về nhị nguyên luận vũ trụ, hay thuyết vật
chất nhị nguyên tương phản; trong đó đất, nước, núi và đồng bằng, lục
địa và biển, loài có cánh và và loài thủy sinh tương phản nhau. Bên
cạnh đó là các tục thờ đá trong các miếu thổ thần của người Việt, miếu
Ông Bổn của người Hoa và miếu Néak- Tà của người Khơme; những ngày hội
nước với những tục đua ghe và những lễ nghi trong nông nghiệp vào mùa
khô của người Khơme, người Chăm… Đó là dấu vết nhà sàn trong các Sala
chùa Khơme, nhà người Việt vùng Đồng Tháp, An Giang. Đó là phương thức
thủy lợi cổ đào ao chứa nước, như ao Bà Om của người Khơme ở Trà Vinh,
ao chứa nước trong rẫy của người Hoa Ở Vĩnh Châu- Bạc Liêu, cách xẻ
mương, lên liếp ở các miệt vườn.
Ngoài ra, châu thổ sông Cửu
Long còn là một vùng bán đảo chịu ảnh hưởng nặng của thủy triều và các
sông rạch, con nước lớn ròng, do đó yếu tố văn hóa biển và văn hóa Mã
Lai, Inđônôdiên khá rõ nét. Cho nên người Việt vùng Cà Mau, Rạch Gá rất
giỏi nghề đóng ghe xuồng và làm đồ thủ công, người Chăm giỏi nghề đánh
cá trên sông… Các miếu Ông Bổn Đầu Sông và miếu Bà Thiên Hậu rải rác
khắp cả vùng châu thổ đã minh chứng cho nền văn hóa biển của cả vùng
đất. Bên cạnh nền văn hóa chung, mỗi dân tộc trong cộng đồng vẫn có
những đặc thù văn hóa truyền thống của dân tộc mình, phản ánh bản sắc
văn hóa riêng. Ở đây, người Việt là dân tộc đa số, chủ thể mà tổ tiên
là những người nông dân từ đồng bằng sông Hồng, từ Ngũ Quảng di cư vào
khai thác đất đai, xây dựng làng xóm, đình chùa, để lại dấu ấn của nền
văn minh cây lúa nước, bằng việc đào đắp kinh mương, làm sống dậy sự
trú phú của cả vùng châu thổ phù sa mới. Người Việt với những nổ lực
của mình trước thiên nhiên đầy những tiềm ẩn, thử thách, đã sáng tạo
nên những cá tính và đặc điểm văn hóa đặc sắc và nhiều sản phẩm vật
chá6t phong phú. Như bưởi năm roi Bình Minh, xoài cát Hòa Lộc, cam Cái
Bè, vú sữa Lò Rèn, thuốc rê Cao Lãnh, mắm Châu Đốc, dừa Bến Tre, sầu
riêng Chợ Lách, gạo nàng Loan Long An, mắm tôm chua, mắm tôm chà Gò
Công, nem Lai Vung… Đó còn là kỹ thuật dùng phảng phát cỏ, đốt rồi cấy
lúa rất hợp với thiên nhiên ngập tràn cỏ năng của vùng đất. Cũng chính
người Việt đã du nhập ca nhạc cung đình Huế, chế ra loại hình văn nghệ
dân gian quý báu là cải lương; rồi lại còn các loại hình nói thơ Lục
Vân Tiên, thơ Thầy Thông Chánh, nói tuồng, nói vè, hô lô tô, ca ra bộ,
hò đối đáp, hát huê tình… Người Việt ở đây còn có chiếc áo bà ba, chiếc
khăn rằn và các loại mắm rất đặc trưng. Đây là những nét văn hóa Việt
đã được đổi mới một phần cho thích nghi với cách ứng xử trước thiên
nhiên kỳ bí của vùng đất mơi.
Bên cạnh người Việt, cư trú xem kẽ
trong các vùng Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Tri Tôn là đồng bào Khơme
anh em. Người Khơme quần tụ trong các phum sóc được thiết lập lâu đời,
trên các giồng đất cao, bao quanh các ngôi chùa Phật giáo tiểu thừa,
giữa những hàng cây sao, cây dầu cao vút. Theo truyền thuyết, khởi
nguyên người Khơme là con cháu của chim thần Garuda, có sức điều động
lửa, sấm sét, có khả năng thống lãnh nước, mưa, sông rạch của giòng dõi
cá thần và rắn thần Nagar. Họ có một lịch sử văn hóa, nhân chủng, tổ
chức xã hội và chữ viết Pali, mang ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa Ấn
Độ, cũng như sức sáng tạo phong phú của bản thân dân tộc mình.
Từ thế giới quan Phật giáo tiểu thừa, và từ tư duy lưỡng nguyên, người
Khơme đã tạo nên một nền văn hóa cá biệt với những kiến trúc chùa nguy
nga, với mô típ Rìa hu, tượng tròn, tượng bốn mặt, chim thần, rắn thần,
với các dạng thức phù điêu mang cá tính và phong cách riêng.
Vốn
là một dân tộc có truyền thống văn nghệ, người Khơme đã sáng tạo ra
nhiều loại hình ca vũ độc đáo, từ điệu múa trống Xà zăm, múa vui Krap,
múa gáo dừa Tro jok, múa Chằng khum- rông, đến các điệu hát A- yay trữ
tình, hát đối đáp Prop- kay, Chằm riêng- chàpay, ca đàn kể truyện cổ,
và vươn tới những hình thức sân khấu hoàn chỉnh như kịch múa Robăm và
kịch hát Yu- kê.
Người Hoa Nam Bộ trong quá trình di trú đã giản
dị hóa phong tục và tín ngưỡng của mình, chỉ giữ lại tục thờ thần và lệ
chiêm bái. Người Hoa còn mang đến những nghề nghiệp thủ công truyền
thống, nghề làm vườn trên giồng cát, và làm thông thương xích gần các
cộng đồng địa phương lại với nhau, bằng việc cung cấp các dịch vụ bán
lẻ hàng hóa nông sản. Ngoài ra họ còn mang đến đồng bằng châu thổ tục
thờ Quan Công, Quan Âm, các tuồng Tàu, các điệu hát Tiều, hát Quảng…
cùng chuẩn mực đạo đức, cách sống là những âm hưởng tàn dư những giáo
điều Khổng Mạnh.
Người Chăm xuất phát từ một bộ phận người Chăm
ở miền Trung di cư đến, theo chương trình “tận dân vi binh” lập đồn
điền của triều đình nhà Nguyễn. Do những quan hệ nhiều đời với người
Khơme bên cạnh người Java mà người Chăm Nam Bộ có những nét văn hóa
riêng, tuy vẫn giữ lại truyền thống xây gạch, tổ chức xã hội theo Hồi
giáo với ông HaKim (như xã trưởng), thánh đường, tháng ăn chay Ramadan
và đọc kinh Coran.
Người Chăm sống ở Châu Đốc theo đạo Islam.
Đạo Islam chi phối toàn bộ sinh hoạt, phong tục, cho đến cách phân bố
phòng ở, cách trang phục. Trang phục của người Chăm Châu Đốc rất kín
đáo, hầu như che phủ, giấu kín cơ thể càng nhiều càng tốt. Với truyền
thống văn hóa lâu đời của mình, người Chăm đã sáng tạo nên một kho tàng
văn nghệ rất phong phú về nội dung, về cấu trúc, hình tượng. Đó là ca
dao (Pa nược – Pa dít), hát giao duyên (Ađtọh Atăm, Tàrà), hát trữ tình
ân ái (Ađtọh Mưzút), hát ống (Ađtọh Đing), hát đố (Ađtọh Padao), vè
(Ariya),gia huấn ca (Ariya Patoa Pakay), ngâm (Harí Ariya), xướng
trường ca, anh hùng ca (Ămpăm), các điệu hò xay lúa, giã gạo (Ađtọh
Raxunxa), hò đám ma (Ađtọh Tămmưtờri- Ađtọh Kamưrơ), hát ru em (Ađtọh
Ru Anứk), đồng dao (Ađtọh Raneh)… Tuy nhiên, theo giáo lý kinh Coran,
người Chăm vẫn cho rằng âm nhạc và lời ca tiếng hát làm mê hoặc tâm
linh con người, làm con người sa ngã theo dục vọng, không còn đủ trí
sáng suốt để suy gẫm lời kinh. Bởi vậy họ ngăn cấm hát xướng, nhất là
các loại hát hò huê tình của nam
VVM.12.6.2023
Dẫu thương cho lắm cũng chồng người ta
Câu ca dao bình thường thôi, nhưng phải nghe đúng ngữ điệu của cô gái ấy, tình cảm của cô gái ấy, mới thấm hết cái hay rất thật của nó. Bởi vậy ở Nam Bộ, bên cạnh đờn ca vọng cổ và bản vắn, còn có một hình thức rất phổ biến là ca ra bộ- nghĩa là người ca phải vừa hát vừa ra bộ bằng gương mặt, ánh mắt, thân hình, đôi bàn tay, bàn chân… để diễn tả cho hết tình cảm của mình gởi trong câu hát. Trong phạm vi bài này, tôi xin phép nhận xét về ca dao dân ca Nam Bộ dưới góc độ ấy. Của một vùng văn hóa rộng lớn đã sản sinh ra nó.
Trước hết xin nói qua về sự hình thành vùng văn hóa Nam Bộ
I - TỪ VÙNG VĂN HÓA CỔ TRUYỀN NAM BỘ ĐẾN VÙNG VĂN HÓA NAM BỘ HÔM NAY
Theo
những khám phá của các nhà khảo cổ học, con người đã có mặt ở vùng đất
Nam Bộ khá lâu đời. Nếu căn cứ theo những di chỉ cư trú và di cốt của
con người ở Óc Eo, Ba Thê, Núi Nổi… thì từ cách đây 4000 đến 5000 năm,
con người đã có mặt ở vùng đất còn chứa nhiều nước mặn, sình lầy, cây
dại và dã thú này; đồng thời họ cũng để lại nhiều dấu ấn văn hóa khá
đặc trưng về vùng miền, mà sinh động và thiết thực nhất là ở vùng tứ
giác Long Xuyên và U Minh Thượng. Rất tiếc là các di tích của nền văn
minh ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng, nền văn minh ấy chỉ hứng khởi lên
khoảng vài trăm năm rồi bị chìm lấp trong lòng đất miền Tây, với những
hình ảnh hư ảo còn lại của một vương quốc Phù Nam, hay một “nước Chí
Tôn” trong sử sách, bia ký cổ. Hào hiệp không phải xuất phát từ máu “làm chơi ăn
thiệt” trên vùng đất giàu tôm cá, phì nhiêu màu mỡ, mưa thuận gió hòa…
mà nó được thể hiện trong nhiều yếu tố tâm lý cấu thành tính cách đó.
Đó là thái độ mến khách, với tình yêu thương con người, ý thức coi
trọng nhân nghĩa hơn tiền tài, danh vọng. Bởi vì, cho dầu là người
Việt, người Khơme, người Hoa hay người Chăm, thì họ cũng phải thường
xuyên đối đầu với một vùng đất mới còn hoang hóa, với biết bao khó khăn
về điều kiện thiên nhiên và địa lý khắc nghiệt trong buổi đầu khai
hoang lập ấp. Hơn nữa, trước một thiên nhiên bao la kỳ bí, chằng chịt
sông rạch, rậm rạp rừng sâu, tràn ngập muỗi mòng, thú dữ… con người trở
nên vô cùng nhỏ bé, tất nhiên phải dựa vào nhau mà tôn tại. Trong hoàn
cảnh ấy, họ không thể nghĩ đến những thể chế từng ràng buộc của quan
nha, triều đình; lại càng không thể câu nệ những lề thói xa xưa của
làng xã nơi họ bỏ ra đi. Trên thực tế, đồng bằng sông Cưu Long trong
buổi đầu khai phá, chưa hề có một khu vực hành chính ổn định; mãi đến
khi Gia Long lên ngôi mới thiết lập được bộ máy cai trị của mình. Vì lẽ
đó, con người trong buổi đầu mở đất, tất phải sống với nhau trong tình
yêu thương san sẻ, bình đẳng tương thân, tương trợ để đùm bọc nhau sống
còn trong nỗi nhớ thương nguồn cội cố xứ của mình.
Ví dầu tình bậu muốn thôi Ít
bảo thủ là một đức tính tốt của người Nam Bộ. Tôi cứ nghĩ mãi về câu
thành ngữ “ăn Bắc mặc Nam”. Phải chăng người miền Bắc ăn uống rất cầu
kỳ. Đến như rau sống mà cũng phải chẻ, phải xắt, phải lựa, phải rửa
bằng nước muối hay thuốc tím rồi rảy cho thật khô. Dân miệt đồng Nam
Bộ, bẻ rau ngoài đồng, rửa quấy quá vài nước, thẩy lên mâm là xong. Rau
muống cứ để nguyên cây, bắp chuối cứ để nguyên bắp. Cá chỉ cần nướng
lụi. Rắn chỉ cần nướng lèo. Ăn uống cốt miếng lớn cho no. Có phải nhà
hàng đâu mà cầu kỳ. Còn mặc thì phong phanh lắm. Cũng như ở vậy, chỉ
cần cái nhà đá, nhà đạp để che mưa che nắng, khi không cần nữa thì đá
thì đạp, dứt áo đi nơi khác dễ dàng. Trong những di cốt tìm được ở Nam
Bộ, các nhà khảo cổ đều nhận ra một điều, người Nam Bộ rất ít dùng đồ
trang sức. Nghĩa là người dân xứ này không coi trọng cái ăn, cái mặc
lắm. Điều quan tâm của họ là những gì đang ở phía trước. Quá khứ là cần
thiết, nhưng không quan trọng bằng hiện thực và tương lai. “Ra đi gặp
vịt cũng lùa, gặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu”. Đó là một câu ca
dao hay về tính cách con người trên vùng đất từng một thời đầy dẫy cá
sấu và hổ báo. Hướng tới tương lai thì phải mạnh dạn vứt bỏ quá khứ,
nếu như xét thấy nó đã lỗi thời. Nếu nặng lòng với quá khứ thì làm sao
đủ sức dấn thân để khai phá những vùng đất mới, để tiếp cận những cái
mới. Có lẽ Nam Bộ là nơi tiên phong của báo chí viết bằng chữ quốc ngữ,
là miền đất tiếp xúc với công nghệ hiện đại sớm nhất, là xứ có đội bóng
đá nữ đầu tiên của cả nước, là nơi có người đàn bà dám lặn lội muôn vạn
dặm đến quan môn triều đình dóng trống kêu oan cho chồng… Đã đành gốc
gác người Nam Bộ cũng từ Bắc, từ Trung vào, nhưng trên chặng đưồng
thiên lí, họ đã làm rơi rụng dần những cái gì thuộc về tính cách của
nơi đã sinh ra mình, để có thể nhanh chóng hòa nhập với vùng đất mới mà
họ đã chọn làm nơi “đất lành chim đậu”.
- Trắng như bông lòng anh hổng chuộng Và
từ những câu ca dao dân dã ấy, khi được lợp lên mình nó những tầng lớp
gai điệu và tiết tấu, phương ngữ Nam Bộ vụt hiện những vẻ đẹp bình dân
tới lịm người.
- Đố ai kiếm được cái vẩy con cá trê vàng
III - HÃY ĐẾN VỚI CUỘC SỐNG ĐỂ TÌM VẺ ĐẸP CỦA CA DAO DÂN CA NAM BỘ.
Ca
dao dân ca Nam Bộ là bộ phận hợp thành của một phần văn hóa các tộc
người chung sống trong cộng đồng cư dân Nam Bộ, nó có sự ảnh hưởng,
giao lưu và hội nhập lẫn nhau rất lớn; chính vì vậy, theo thời gian, nó
càng ngày càng phát triển với một diện mạo đặc trưng, tương đối khu
biệt so với các nền văn hóa của các vùng miền khác nhau trong cả nước.
Chẳng hạn: dân ca Tây Bắc thường có đường nét giai điệu mềm mại, tiết
tấu khoan thai, như các điệu hát Sli, hát lượn, hát xòe hoa;.. dân ca
Tây Nguyên thường có đường nét giai điệu mạnh mẽ, tiết tấu nhanh, dồn
dập;.. dân ca Trung Bộ thường chậm, buồn, thiết tha, man mác với các
điệu hò hụi, hò khoan, lý hoài nam;.. dân ca Nam Bộ là tổng hòa của
nhiều tính cách, tạo thành những mới lạ trong giai điệu, tiết tấu cũng
như trong ca từ- mà chỉ riêng hát lý đã chứng tỏ sự giàu có đến vô cùng
tận, từ lý con cóc, lý con nhái, lý con cá trê, lý con chuột, lý con
mèo, lý đương đệm, lý cái phảng, lý cây ổi, lý cây bần, lý chim quyên,
lý bình vôi, lý bờ đắp, lý hố mơi, lý bốn cửa quyền, lý cá ông, lý con
kiến, lý con cua, lý con khỉ, lý bánh canh, lý bánh bò, lý ba xa kéo
chỉ, lý trái mướp, lý lựu lê, lý con sáo, lý con ngựa, lý lu là, lý tú
lý tiên, lý úp lá khoai, lý cây khế, Lý kêu đò… và… độc đáo tới mức… có
luôn cả Lý chun mùng (lý cánh cửa). Rồi thì hò Nam Bộ. Có hò trên cạn,
hò dưới nước, hò đối đáp, hò huê tình. Rồi lại còn hát ru, hát đưa
linh… Cả một kho tàng dân ca, dân nhạc, dân vũ đồ sộ đến choáng ngợp.
Tất cả vẫn đang tồn tại trong dân gian và tiếp tục phát triển mạnh mẽ
trong dân gian. Muốn đến được với kho tàng phong phú và đồ sộ ấy, chúng
ta nhất thiết phải đi sâu vào thâm nhập cuộc sống của nhân dân, của
cộng đồng các tộc người Nam Bộ. Và tất nhiên, chúng ta cũng cần phải có
phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian địa phương, tùy theo giác độ
tiếp cận và lợi ích của từng ngành khoa học. Theo đó, có thể coi khâu
sưu tầm là cái bắt đầu của mọi cái bắt đầu. Vì vậy chúng ta cần phải đề
ra một số phương hướng như sau: 1. 2. 3.
4. - Gió đưa gió đẩy Từ
nền văn minh miệt vườn này, ta thấy xuất hiện chiếc đòn gánh của đồng
bào Khơme có hai mấu ở hai đầu. Nó không chỉ để gánh, nó còn là thứ vũ
khí để chống đỡ khi cần; và khi mệt mỏi vì công việc, nó còn là chiếc
ghế để ngồi rất đắc dụng. Chính cộng đồng các tộc người cùng chung lưng
mở đất, biến vùng đất phù sa mới trầm thủy thành nền văn minh miệt vườn
miệt ruộng, đã nổ lực mở rộng quan hệ ra phía biển, đã biến cả một vùng
đất hoang sơ thành nền văn minh bản địa phát triển rất cao- trên cơ sở
nền văn minh Ấn Độ giáo, có sự hội nhập với nhiều nền văn minh khác.
Thâm
nhập thực tế, phải bắt đầu từ việc tiếp xúc với cộng đồng dân cư. Bởi
dân cư là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, là lực lượng áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm tiến hành những đổi mới trong tất
cả các quá trình sản xuất, là lực lượng đấu tranh xã hội và cải tạo
thiên nhiên, là lực lượng xây dựng và hình thành những tư tưởng và lối
sống mới của thời đại ngày nay. Khi tiếp xúc với các cộng đồng dân cư
của khu vực, chúng ta cần phải ý thức rằng, chính dân cư là bộ phận
chứa đựng nhiều đặc trưng về dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán,
những thói quen và đặc điểm về sản xuất, phụ thuộc vào những nhân tố xã
hội, tộc người và điều kiện thiên nhiên của các vùng sinh thái cụ thể.
Về
góc độ dân cư, đồng bằng châu thổ sông Cửu Long là một vùng dân cư hỗn
hợp, với nhiều nguồn gốc địa phương khác nhau, đa dạng về mặt tín
ngưỡng và tôn giáo, chênh lệch cách xa nhau về lối sống và phong tục
tập quán, trình độ phát triển xã hội và văn hóa, cũng như thói quen
canh tác và phong cách làm ăn. Bốn yếu tố tộc người Việt, Khơme, Chăm,
Hoa là rất quan trọng đối với việc thâm nhập thực tế để tìm vẻ đẹp của
ca dao dân ca Nam Bộ, cũng như các loại hình nghệ thuật khác. Yếu tố
tộc người và văn hóa Chăm và Mã Lai- đa đảo, yếu tố Khơme là những yếu
tố văn hóa và tộc người cổ xưa nhất, đã hình thành ở đồng bằng sông Cửu
Long từ trước TK XVII. Từ TK XVII về sau, yếu tố tộc người Việt và văn
hóa Việt đã trở thành nhân tố phát triển cơ bản của cả khu vực châu thổ
phù sa mới rộng lớn, bên cạnh sự hòa hợp những yếu tố của tộc người
vùng ven biển nam Trung Hoa. Ngày nay, đứng về mặt toàn vùng châu thổ
mà xét, thì tính chất bao trùm và phổ cập, chính là sự hòa
hợp và phát
triển của những yếu tố văn hóa của các tộc người, mà yếu tố văn hóa của
tộc người Việt là chủ đạo. Song những đặc trưng văn hóa của các tộc
người anh em khác, vẫn tồn đọng sâu đậm trong nông thôn của nhiều vùng-
đặc biệt là những vùng có tính chất khu biệt như Trà Vinh, Sóc Trăng,
Bạc Liêu, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. Vì vậy, châu thổ sông Cửu
Long, là một vùng đồng bằng duy nhất ở nước ta, về mặt dân cư và dân
tộc, có những đặc trưng nổi bật, mà chúng ta cần phải lưu ý trong quá
trình cải cách nói chung, và quá trình cải cách văn hóa nói
riêng. Tính
chất hỗn hợp và đa dạng về mặt dân cư và quá trình xích lại gần nhau,
hòa hợp giữa các dân tộc trong khu vực, là một hiện tượng lịch sử có
tính quy luật, bắt nguồn từ lịch sử di dân và sự hình thành những vùng
sinh thái nhân văn của cả khu vực châu thổ phù sa mới rộng lớn. Nó góp
phần hình thành các loại hình dân cư, mà dân cư nông nghiệp là lại hình
dân cư có số dân đông nhất; bao gồm những nhóm dân cư chuyên canh ruộng
nuớc, chuyên canh lúa nổi và chuyên canh về rẫy. Bên cạnh đó, còn có
loại hình dân cư thứ hai là dân cư phi nông nghiệp, bao gồm dân cư
thành phố, thị tứ và nhóm dân cư buôn bán nông sản ở nông thôn (ở đây
chúng ta cũng cần kể tới nhóm dân cư làng nổi sống bằng nghề cá bè,
buôn bán thương hồ để xác định loại hình dân cư của họ). Loại hình dân
cư thứ ba là cộng đồng dân cư, dân tộc và tôn giáo, là một đặc điểm lớn
khó có vùng nào ở nước ta tồn tại trong thực tế và lịch sử. Ở Nam Bộ,
dân số Khơme chiếm tuyệt đại đa số ở huyện Trà Cú- Trà Vinh và một số
huyện Khác ở Sóc Trăng, Hậu Giang; người Hoa có số dân đa số tuyệt đối
trong một số xã ấp ở ở Kiên Giang, Hậu Giang và cà Mau; người Chăm có
dân số tuyệt đối ở một số xã thuộc vùng Châu Đốc- An Giang.
Về
góc độ tôn giáo, đạo Phật tiểu thừa hầu như là tôn giáo
toàn dân của
người Khơme; Hồi Giáo là tôn giáo của toàn thể người Chăm ở Châu Đốc;
đạo Hòa Hảo chiếm khoảng 78% tổng số dân tỉnh An Giang; đạo Cao Đài thì
phát triển mạnh ở Bến Tre, LongAn và Tiền Giang. Phân loại dân
cư và dân tộc là hai đối tượng tổng hòa của nhiều hiện tượng xã hội, là
đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội, mà khi thâm nhập thực tế,
chúng ta cần phải hướng tới, để có thái độ và cách thức tiếp cận tốt
nhất. Điều cần xác định là việc nhìn nhận vị trí đặc biệt của cả vùng
châu thổ phù sa mới rộng lớn, nơi gặp gỡ của những nền văn hóa cổ rực
rỡ, là nơi thiên di và sinh tụ của nhiều tộc người trong lịch sử. Đó là
nơi mà các dân tộc Việt, Khơme, Chăm, Hoa đã cùng cư trú bên nhau, khai
thác đất đai, xây dựng cộng đồng và phát triển bản sắc văn hóa của dân
tộc mình. Đây cũng chính là những nét văn hóa chung của các cư dân Nam
Á tập trung rõ nét ở châu thổ sông Cửu Long, chứng minh một cội nguồn
chung và một xuất nguyên giống nhau, phản ánh trên tư duy thần thoại và
truyện cổ dân gian, ca dao dân ca dân gian của các dân tộc Việt, Khơme,
Chăm, Hoa trên nền quan niệm về nhị nguyên luận vũ trụ, hay thuyết vật
chất nhị nguyên tương phản; trong đó đất, nước, núi và đồng bằng, lục
địa và biển, loài có cánh và và loài thủy sinh tương phản nhau. Bên
cạnh đó là các tục thờ đá trong các miếu thổ thần của người Việt, miếu
Ông Bổn của người Hoa và miếu Néak- Tà của người Khơme; những ngày hội
nước với những tục đua ghe và những lễ nghi trong nông nghiệp vào mùa
khô của người Khơme, người Chăm… Đó là dấu vết nhà sàn trong các Sala
chùa Khơme, nhà người Việt vùng Đồng Tháp, An Giang. Đó là phương thức
thủy lợi cổ đào ao chứa nước, như ao Bà Om của người Khơme ở Trà Vinh,
ao chứa nước trong rẫy của người Hoa Ở Vĩnh Châu- Bạc Liêu, cách xẻ
mương, lên liếp ở các miệt vườn.
Ngoài ra, châu thổ sông Cửu
Long còn là một vùng bán đảo chịu ảnh hưởng nặng của thủy triều và các
sông rạch, con nước lớn ròng, do đó yếu tố văn hóa biển và văn hóa Mã
Lai, Inđônôdiên khá rõ nét. Cho nên người Việt vùng Cà Mau, Rạch Gá rất
giỏi nghề đóng ghe xuồng và làm đồ thủ công, người Chăm giỏi nghề đánh
cá trên sông… Các miếu Ông Bổn Đầu Sông và miếu Bà Thiên Hậu rải rác
khắp cả vùng châu thổ đã minh chứng cho nền văn hóa biển của cả vùng
đất. Bên cạnh nền văn hóa chung, mỗi dân tộc trong cộng đồng vẫn có
những đặc thù văn hóa truyền thống của dân tộc mình, phản ánh bản sắc
văn hóa riêng. Ở đây, người Việt là dân tộc đa số, chủ thể mà tổ tiên
là những người nông dân từ đồng bằng sông Hồng, từ Ngũ Quảng di cư vào
khai thác đất đai, xây dựng làng xóm, đình chùa, để lại dấu ấn của nền
văn minh cây lúa nước, bằng việc đào đắp kinh mương, làm sống dậy sự
trú phú của cả vùng châu thổ phù sa mới. Người Việt với những nổ lực
của mình trước thiên nhiên đầy những tiềm ẩn, thử thách, đã sáng tạo
nên những cá tính và đặc điểm văn hóa đặc sắc và nhiều sản phẩm vật
chá6t phong phú. Như bưởi năm roi Bình Minh, xoài cát Hòa Lộc, cam Cái
Bè, vú sữa Lò Rèn, thuốc rê Cao Lãnh, mắm Châu Đốc, dừa Bến Tre, sầu
riêng Chợ Lách, gạo nàng Loan Long An, mắm tôm chua, mắm tôm chà Gò
Công, nem Lai Vung… Đó còn là kỹ thuật dùng phảng phát cỏ, đốt rồi cấy
lúa rất hợp với thiên nhiên ngập tràn cỏ năng của vùng đất. Cũng chính
người Việt đã du nhập ca nhạc cung đình Huế, chế ra loại hình văn nghệ
dân gian quý báu là cải lương; rồi lại còn các loại hình nói thơ Lục
Vân Tiên, thơ Thầy Thông Chánh, nói tuồng, nói vè, hô lô tô, ca ra bộ,
hò đối đáp, hát huê tình… Người Việt ở đây còn có chiếc áo bà ba, chiếc
khăn rằn và các loại mắm rất đặc trưng. Đây là những nét văn hóa Việt
đã được đổi mới một phần cho thích nghi với cách ứng xử trước thiên
nhiên kỳ bí của vùng đất mơi.
Bên cạnh người Việt, cư trú xem kẽ
trong các vùng Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Tri Tôn là đồng bào Khơme
anh em. Người Khơme quần tụ trong các phum sóc được thiết lập lâu đời,
trên các giồng đất cao, bao quanh các ngôi chùa Phật giáo tiểu thừa,
giữa những hàng cây sao, cây dầu cao vút. Theo truyền thuyết, khởi
nguyên người Khơme là con cháu của chim thần Garuda, có sức điều động
lửa, sấm sét, có khả năng thống lãnh nước, mưa, sông rạch của giòng dõi
cá thần và rắn thần Nagar. Họ có một lịch sử văn hóa, nhân chủng, tổ
chức xã hội và chữ viết Pali, mang ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa Ấn
Độ, cũng như sức sáng tạo phong phú của bản thân dân tộc mình.
Từ thế giới quan Phật giáo tiểu thừa, và từ tư duy lưỡng nguyên, người
Khơme đã tạo nên một nền văn hóa cá biệt với những kiến trúc chùa nguy
nga, với mô típ Rìa hu, tượng tròn, tượng bốn mặt, chim thần, rắn thần,
với các dạng thức phù điêu mang cá tính và phong cách riêng.
Vốn
là một dân tộc có truyền thống văn nghệ, người Khơme đã sáng tạo ra
nhiều loại hình ca vũ độc đáo, từ điệu múa trống Xà zăm, múa vui Krap,
múa gáo dừa Tro jok, múa Chằng khum- rông, đến các điệu hát A- yay trữ
tình, hát đối đáp Prop- kay, Chằm riêng- chàpay, ca đàn kể truyện cổ,
và vươn tới những hình thức sân khấu hoàn chỉnh như kịch múa Robăm và
kịch hát Yu- kê. Người Hoa Nam Bộ trong quá trình di trú đã giản
dị hóa phong tục và tín ngưỡng của mình, chỉ giữ lại tục thờ thần và lệ
chiêm bái. Người Hoa còn mang đến những nghề nghiệp thủ công truyền
thống, nghề làm vườn trên giồng cát, và làm thông thương xích gần các
cộng đồng địa phương lại với nhau, bằng việc cung cấp các dịch vụ bán
lẻ hàng hóa nông sản. Ngoài ra họ còn mang đến đồng bằng châu thổ tục
thờ Quan Công, Quan Âm, các tuồng Tàu, các điệu hát Tiều, hát Quảng…
cùng chuẩn mực đạo đức, cách sống là những âm hưởng tàn dư những giáo
điều Khổng Mạnh. Người Chăm xuất phát từ một bộ phận người Chăm
ở miền Trung di cư đến, theo chương trình “tận dân vi binh” lập đồn
điền của triều đình nhà Nguyễn. Do những quan hệ nhiều đời với người
Khơme bên cạnh người Java mà người Chăm Nam Bộ có những nét văn hóa
riêng, tuy vẫn giữ lại truyền thống xây gạch, tổ chức xã hội theo Hồi
giáo với ông HaKim (như xã trưởng), thánh đường, tháng ăn chay Ramadan
và đọc kinh Coran. Người Chăm sống ở Châu Đốc theo đạo Islam.
Đạo Islam chi phối toàn bộ sinh hoạt, phong tục, cho đến cách phân bố
phòng ở, cách trang phục. Trang phục của người Chăm Châu Đốc rất kín
đáo, hầu như che phủ, giấu kín cơ thể càng nhiều càng tốt. Với truyền
thống văn hóa lâu đời của mình, người Chăm đã sáng tạo nên một kho tàng
văn nghệ rất phong phú về nội dung, về cấu trúc, hình tượng. Đó là ca
dao (Pa nược – Pa dít), hát giao duyên (Ađtọh Atăm, Tàrà), hát trữ tình
ân ái (Ađtọh Mưzút), hát ống (Ađtọh Đing), hát đố (Ađtọh Padao), vè
(Ariya),gia huấn ca (Ariya Patoa Pakay), ngâm (Harí Ariya), xướng
trường ca, anh hùng ca (Ămpăm), các điệu hò xay lúa, giã gạo (Ađtọh
Raxunxa), hò đám ma (Ađtọh Tămmưtờri- Ađtọh Kamưrơ), hát ru em (Ađtọh
Ru Anứk), đồng dao (Ađtọh Raneh)… Tuy nhiên, theo giáo lý kinh Coran,
người Chăm vẫn cho rằng âm nhạc và lời ca tiếng hát làm mê hoặc tâm
linh con người, làm con người sa ngã theo dục vọng, không còn đủ trí
sáng suốt để suy gẫm lời kinh. Bởi vậy họ ngăn cấm hát xướng, nhất là
các loại hát hò huê tình của nam
Công cuộc mở đất phương Nam,
khẳng định vùng văn hóa phương Nam, chỉ thật sự định hình từ những cuộc
di dân lớn của người Việt ở TK XVI và đầu TK XVII. Đó là quá trình di
dân tự nhiên, quá trình di dân cơ chế và quá trình chuyển cư tại chỗ.
Quá trình di dân tự nhiên là quá trình di dân lẻ tẻ, chưa đủ để định
hình bản sắc văn hóa của vùng đất. Chỉ đến khi nhà Nguyễn tiến hành
những cuộc di dân cơ chế lớn từ vùng ngũ Quảng vào, kết hợp với sự di
dân cơ chế sau thất bại của nhà Minh trước triều Mãn Thanh (do Dương
Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Mạc Củu cầm đầu), cùng với việc di dân cơ
chế trước TK XV của những lớp cư dân cổ Khơme đến từ nhiều vùng trên
đất nước Campuchia, tràn về theo sông Tiền, sông Hậu để tránh họa diệt
tộc của vua chúa Xiêm La, và sự di dân cơ chế của người Chăm Hồi giáo
đến vùng Châu Đốc, kết hợp với quá trình chuyển cư tại chỗ của cộng
đồng các tộc người để lập làng lập ruộng, vùng văn hóa mang bản sắc Nam
Bộ mới thật sự hình thành. Chính nhờ quá trình chuyển cư tại chỗ, mới
có việc thúc đẩy sự gần gũi giữa các nhóm dân cư, giữa các cộng đồng
dân tộc, mới làm xuất hiện những điều kiện khách quan, tạo nên những
tiếp xúc văn hóa giữa các cộng đồng người có những đặc trưng văn hóa
khác nhau, làm nên tính chất địa văn hóa, địa kinh tế của một vùng đất
châu thổ phương Nam rộng lớn. Đó chính là một vùng văn hóa trẻ, phong
phú, đa dân tộc, đa tôn giáo và đa màu sắc (ở đây chúng tôi không có ý
định đi sâu tìm hiểu vấn đề này).
Muốn tìm hiểu đặc trưng vùng
văn hóa, tất nhiên phải lấy đặc điểm tính cách con người làm trung tâm
để xem xét. Bởi vì con người là chủ nhân của mọi ngôn ngữ và hành động,
tác động sâu sắc đến âm nhạc, sân khấu, văn học, cũng như kiến trúc,
hội họa, lễ hội và phong tục… Tất nhiên, đó là cộng đồng những tộc
người cùng chung sống trên nền địa địa lý tự nhiên của vùng phù sa cổ
miền Đông và vùng phù sa mới miền Tây Nam Bộ, mà tâm lý tính cách bị
chi phối khá mạnh bởi hoàn cảnh địa lý, kinh tế – xã hội và quá trình
phức hợp của nó theo từng bước phát triển của vùng dân cư rộng lớn này.
Tất nhiên, chúng ta không thể phân chia rạch ròi từng vùng văn hóa trên
cả nước, nhưng căn cứ vào những đặc điểm văn hóa khu biệt nhất định,
chúng tôi tạm gọi là vùng địa văn hóa Nam Bộ để làm tiêu chí xem xét.
Theo
đó, nhiều nhà nhân chủng học, dân tộc học… đều có chung nhận định tương
đối thống nhất về tính cách người Nam Bộ, tựu trung gồm những nét chính
sau đây: hào hiệp trong cuộc sống, bình đẳng trong giao tiếp, ít bảo
thủ.
Tôi chưa
thấy ở đâu mà người dân gọi người lãnh đạo của mình bằng “thằng” bằng
“con” như ở Nam Bộ. “Thằng Bảy Bí thơ”, “Con Tám Chủ tịch”… thân mật cứ
như người trong nhà với nhau. Và cũng chẳng thấy nơi nào trẻ em lại
xưng “Con” với người lớn, đứa lớn hơn gọi đứa nhỏ hơn là “Cưng”, bằng
trang phải lứa thì xưng “Qua” với “Bậu”. Lúc thân mật cũng “Qua” với
“Bậu”, lúc giận hờn cũng “Bậu” với “Qua”.
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.
Bậu ra cho khỏi tay qua
Cái xương bậu nát cái da bậu mòn.
Nhưng từ nền văn hóa cổ
đến nền văn hóa Nam Bộ đương đại là cả một tiến trình phát triển suốt
300 năm mở đất, mà nhiều vấn đề vẫn cần phải tiếp tục đặt ra để nghiên
cứu đến tận ngọn nguồn của nó. Ngày nay, chúng ta vẫn phải tiếp tục
nghiên cứu để khẳng định đích thực chủ nhân của những tầng văn hóa
chồng chất trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long vào những thiên niên kỷ
thứ nhất, trước và sau công nguyên. Tất nhiên đây là một công việc rất
khó, bởi tính năng động của một địa bàn rộng lớn, có nhiều luồng tiếp
xúc nên cũng có nhiều biến động về các tộc người; hơn nữa, nó lại là
vùng giao thoa của nhiều trung tâm chính trị khác nhau trong thời kỳ cổ
đại. Nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, cũng như nhiều văn bản của Nhà nước
đô hộ Pháp, vẫn thường nói đến những Nhà nước Đông Nam Á có cương vực
rộng lớn, với một thể chế rất chặt chẽ, thâu gồm những vùng đất rộng
lớn, bao trùm lên cương giới nhiều quốc gia hiện nay. Nhưng trên thực
tế, dưới ánh sáng tiến bộ của các ngành khoa học hiện đại, các quốc gia
Đông Nam Á cổ đại chỉ là những trung tâm chính trị rất lỏng lẻo, cơ cấu
thành phần tộc người và biên giới không rõ ràng và đầy biến động. Vì
vậy không thể chỉ căn cứ vào các thư tịch cổ mà quy chủ nhân của những
vùng đất đai cụ thể là ai, rồi từ đó gán ép cho các dân tộc khác tội
chiếm đất. Lấy ví dụ như theo quan niệm của người Khơme, chúng ta không
thấy có sự đối lập giữa “Thủy Chân Lạp” và “Lục Chân Lạp”; mà chỉ có sự
phân biệt giữa ba vùng địa lý theo quan niệm chung của cư dân Đông Nam
Á. Đó là ba vùng: Khơme Lơ (Khơme vùng cao), Khơme Kandal ( Khơme vùng
giữa), và Khơme Crôm (Khơme vùng dưới). Người Pháp từng gán cho các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thuộc vùng Khơme Crôm, với lý do vùng đất
này có người Khơme sinh sống, có nhiều địa danh mang tên các địa danh
Khơme. Rồi họ còn dựng lên cái gọi là đế chế Phù Nam có địa bàn trải
rộng qua cả Thái Lan, Lào, Việt Nam. Từ đó cho rằng, nếu không có sự
hiện diện của Pháp, các nước Lào và Campuchia đều sẽ bị Việt Nam thôn
tính. Với thái độ nghiên cứu văn hóa nghiêm túc và khoa học, chúng ta
dễ dàng nhận thấy rằng, ranh giới giữa các vùng Khơme Kandal và Khơme
Crôm chính là đôi bờ sông Niết Lương. Tại vùng Kandal hiện nay, ngươi
Khơme lấy Chămka (bãi sông), nuôi bò là chính; trái lại vùng Xoài Riêng
(nam sông Niết Lương) lại làm ruộng nước, nuôi trâu. Như vậy vùng vùng
Khơme Crôm phải chăng chính là vùng Xoài Riêng ngày nay. Xét theo tâm
lý đặt tên địa danh, những tên đất như Gò Công, Cà Mau… rất có thể là
do cư dân Khơme đặt theo tên Kôkông, Takthmau trong bước đường di cư
của họ, khi mà các tộc người Việt và người Chăm chưa đến. Tại các vùng
Sóc Trăng, Trà Vinh, nơi có nhiều người Khơme cư trú lâu đời nhất,
chúng ta cũng không tìm thấy ngôi chùa nào có trên 300 năm tuổi. Theo
tập quán canh tác, người Khơme thích ở “giồng” còn người Việt thích ở
gần sông rạch. Đó là mối quan hệ tự nhiên trong bước đường khai phá
đồng bằng sông Cửu Long của hai tộc người Việt – Khơme. Như vậy, Nam Bộ
chính là vùng văn hóa đất mới, vùng ngoại biên của nhiều quốc gia cổ
đại, mà sau này người Khơme, người Việt và người Chăm đã chung lưng đấu
cật cùng nhau khai phá. Chủ nhân của nền văn hóa, văn minh này, chính
là cộng đồng những tộc người đang sống trên châu thổ của sông Tiền,
sông Hậu. Trong đó chủ yếu là người Việt, người Khơme, người Chăm và
người Hoa, với chung một nền văn hóa hội nhập của các tộc người trên
một địa bàn rộng lớn của đồng bằng châu thổ 18 triệu người.
Tất
cả những điều trên đây vẫn là chưa đủ để nói về bản lĩnh và tính cách
người Nam Bộ, nhưng chừng đó cũng đủ góp phần hình thành bản sắc văn
hóa của một vùng đất mới, nơi hội tụ rất nhiều luồng văn hóa khác nhau
của thế giới. Một trong những giá trị ấy là phương ngữ Nam Bộ, bộ phận
hình thành bản sắc độc đáo của ca dao dân ca Nam Bộ.
II - VÀI NÉT VỀ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
TRONG CA DAO DÂN CA
Phương
ngữ Nam Bộ được hình thành và phát triển cùng với tiến trình phát triển
lịch sử 300 năm của vùng đất, càng ngày càng được bổ sung theo sự giao
lưu mạnh mẽ của nhiều luồng văn hóa khác nhau; nó bắt đầu hình thành từ
TK XVII, cùng lúc với những đoàn người Việt đầu tiên vào định cư khai
khẩn vùng đất Miền Đông Nam Bộ, rồi sau đó phát triển mạnh xuống Miền
Tây. Đến nay, phương ngữ Nam Bộ đã trải qua nhiều chặng đường phát
triển, gắn với những sự kiện chính trị - văn hóa. Chẳng hạn như sự ra
đời của chữ quốc ngữ vào nửa sau TK XIX. Nó là tiếng nói sinh động của
nhân dân lao động, được sử dụng và phổ biến thông qua con đường khẩu
ngữ, trong khuôn khổ một vùng văn hóa địa phương nhất định. Chúng ta
cần phải công nhận nó, coi nó như một công cụ chung để tư duy tại một
vùng đất văn hóa đặc thù; từng bước hòa nhập thành ngôn ngữ phổ biến
chung, ngôn ngữ văn học của cả nước. Trên thực tế, chúng ta rất khó
chọn ngôn ngữ một vùng miền cá biệt nào làm ngôn ngữ chuẩn cho tiếng
Việt, mà chính tiếng Việt đang càng ngày càng phát triển chính từ nền
tảng ngôn ngữ vùng miền trong cả nước.
Từ khi đất nước thống
nhất, rõ ràng ngôn ngữ tiếng Việt đã trở nên phong phú hơn rất nhiều,
bởi chính nhiều phương ngữ vùng miền khác nhau trong cả nước vun bồi
nên. Điều đó góp phần rất to lớn trong việc hình thành tiếng Việt văn
học chung của cả nước. Xin dẫn ra đây một đoạn văn viết về chị Út Tịch
mà nhà văn Nguyễn Thi đã viết trong “Người mẹ cầm súng”: “Thắng giặc
trở về, chị Út sẵn cái bụng bầu chang bang, bước ra làm ông địa. Trống
đánh tùng tùng. Lân múa té nghiêng té ngửa. Bà con lối xóm cười bể
bụng”. Thiết tưởng, nếu khôngsử dụng phương ngữ Nam Bộ, khó mà dựng
được một hình tượng sống động như vậy.
Riêng về phương ngữ Nam
Bộ, rõ ràng có sự giao lưu rất đậm nét với các phương ngữ khác trong
khu vực, như phương ngữ của đồng bào Khơme, đồng bào Chăm, đồng bào
Hoa… và một số luồng ngôn ngữ khác. Điều đó làm nên diện mạo và thần
thái của phương ngữ Nam Bộ. Nó hình thành chính từ ngôn ngữ nói của
đồng bào. Ở đây, chúng tôi xin phép không đi sâu vào lĩnh vực ngôn ngữ
học, như từ vựng, tu từ và giá trị ngữ pháp văn bản của nó.
Nếu
trong ngôn ngữ nói, người Nam Bộ thường có thói quen chỉ sử dụng 5 dấu
thanh (không dùng thanh ngã), thường nói sai phụ âm đầu (v-d, h-g), hay
có sự biến đổi trong phát âm (i-iê, ng-n), hay gộp âm trong xưng hô
(bả, chả, ảnh, chỉ), trong chỉ địa danh (ngoải, trỏng), hay dùng từ cổ
(bể, bợ, bông, heo), thích dùng yếu tố phụ để tạo từ có sắc thái ( dơ
hầy, nhọn lểu, rẻ rề, vàng ngoách, đỏ hoét), thích vay mượn ngôn ngữ
khác (chạp phô, tàu hủ, khổ qua, bao tử, hột xoàn, hên xui, cần xé, cù
lao, giận lẫy, cúng dàng)… thì phương ngữ phương ngữ Nam Bộ chính là
được hình thành trên nền tảng ngôn ngữ nói hàng ngày của bà con.
Ví dụ:
Tèm
hem, tầy huầy, trớt nguớt, thoi loi, tùm lum, nháu nhó, hết ý, chịu
chơi, xả láng, thả giàn, hết ý, hết xảy, quá xá mấu, đẹt câm đẹt ngắt,
cứng ngắt cứng còng, trẻ khô, già cú đế, ngồi chò hỏ, ngồi chành bành,
ngồi chèm bẹp, ớn xương sống, sợ thấy mụ nụ, trời thần đất lở, thấy mồ
tổ, chèng đéc ơi…
Chính từ nếp sống, cách suy nghĩ và nói năng
của người Nam Bộ, cũng như sự bộc trực, thẳng thắn, ít thích văn chương
rào đón, mà ngôn ngữ Nam Bộ thường có lối nói rút ngắn, giàu hình
tượng, thích ngoa dụ cho vui: bi dai, bi lớn, bi nhiêu, bi tuổi, bản
mặt chằn vằn, đồ chằng tinh hổ lửa, đồ ba trợn, con đỉ ngựa, cái quần
què, đẹp thấy ớn, xấu thấy sợ, ngon hết biết, say quắt cần câu, lười
thối thây, làm ăn như mòng đóc, cà rịch cà tang, tà tà ển ển, cà xích
cà xẹo, bẹo dạng bẹo hình, bình bình nước nhửng…
Và… cũng thường
tình như vậy, phương ngữ đi vào ca dao Nam Bộ một vẻ đẹp bình dân, mộc
mạc, mà phải đọc nhiều lần chúng ta mới nhận ra được nó.
Đen như cục than hầm biết làm ruộng anh thương
- Muốn người ta người ta không muốn
Xách cái dù đi xuống đi lên
- Thương sao thương quá bất nhơn
Bữa nay gặp mặt thương hơn bữa nào
- Mù u ba lá mù u
Vợ chồng cãi lộn con cu giảng hòa
- Dĩa bàng thang con tôm càng dựng đứng
Bởi gia cảnh anh nghèo nên
cặc nứng nửa con
- Khen cho con nhỏ cả gan
Ghe không bánh lái dám chèo ngang giữa dòng
- Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi
Kẻo khúc sông này bờ bụi tối tăm
- Thuyền chài thuyền lưới thuyền câu
Biết thuyền nhơn ngãi nơi đâu mà tìm
- Nước chảy liu riu lục bình trôi quắn quíu
Anh mãng thương nàng lịu địu xuống lên
- Mái dầm anh đong đưa
Cùng với em dạo mát
Đặt em ngồi đằng trước
Hay em ngồi đằng sau
Ôi em ngồi chỗ nào
Anh cũng không ưng bụng
Mái dầm anh lúng túng
Đặt em lên đùi anh
(Dân ca Khơme)
- Chiều xuống anh đưa em đi chơi
Xóm làng mình sông sâu nước chảy
Để em ngồi trên thuyền sao lòng anh áy náy
Sợ sóng đánh làm ướt đôi chân em
Để em ngồi đằng trước thì sợ trúng mái dầm
Ngồi ở giữa thuyền thì xa lơ xa lắc
Em ngồi ở đâu thật khó lòng tính được
Chỉ có cách là bồng em đặt lên đùi anh
(Dân ca Khơme)
…
Cái gan con tép bạc mấy vàng tôi cũng mua
Ô là ô áo vá quàng
(Lý áo vá quang)
- Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia thia quen chậu vợ chồng quen hơi
(Lý chim quyên)
- Cây da trước miễu ai biểu cây da tàn
Bao nhiêu lá rụng em thương chàng bấy nhiêu
(Hát đưa em)
- Ba xa kéo chỉ trên chòi
Xa kêu vòi vọi anh đòi chuyện chi
(Lý ba xa kéo chỉ)
- Chiều chiều gọt mướp nấu canh
Thấy anh qua lợi bỏ hành cho thơm
(Lý trái mướp)
- Lỡ tay rớt bể bình vôi
Chủ gia bắt được đọa đày xứ xa
(Lý bình vôi)
- Chú chim sẻ ơi
Ơ ơ ớ hùi
Ăn lúa nhà người
Vừa thơm vừa ngọt
Đừng ăn lúa mót
Trên đồng nhà tao
Lúa của nhà nghèo
Vừa cay vừa đắng
(Choôlchap- dân ca Khơme)
- Trên cành đơm boong vui quá
Sáo con nhảy múa tối ngày
Cánh thì xòe ra bay bay
Chân thì lia thia nhảy nhảy
Ơi đàn sáo con bé tí
Chẳng biết nhờ ai đệm đàn
Đành lấy chiếc mỏ ra ràng
Mổ cành đơm boong khe khẽ
(Xarikakkeo- dân ca Khơme)
- Đừng nhìn tao bớ chim ơi
Hai đứa tao yêu nhau rồi
Mà biết nói gì
Chỉ biết nhìn chim bay đi
(Chim Môhôri- dân ca Khơme)
- Phiền muộn chi em làm héo cánh hoa
Luyến tiếc chi em làm héo nụ cười
Hay là em đã say đắm nơi nào
Ta càng tha thiết mãi không thôi
(Xaccrova chhlơơi chhloong- dân ca Khơme)
- Chim cu kêu cúc cu
Nó đậu trên ngọn tre
Anh gặp rồi anh thương
Em đây còn nhỏ
Em ơi anh chờ em
Em đi lấy chồng
Sao đành bỏ anh
(dân ca Chăm)
- Kiếp này lắm ngang trái
Để kiếp sau ta gặp nhau
Anh ơi số trời định ước
Anh đừng giận vô cớ
(dân ca Chăm)
- Con chim trao trảo
Nó rất dạn
Đã bay khắp nơi
Được sống sung sướng
Sanh con đẻ cháu
Được ở khắp bụi bờ
(dân ca Chăm)
- Con ơi
Ở với mẹ có áo mặc
Ra lấy vợ
Áo không kip cài nút.
Con ơi
Đừng buôn lá bài
Của cải của người ta
Đừng lừa gạt.
(dân ca Chăm)
Phân vùng và tìm kiếm sự
hình thành các vùng văn hóa dân gian địa phương. Vì văn hóa dân gian
địa phương là một hệ thống chặt chẽ, phát triển trong tiến trình lịch
sử của dân tộc, nhưng đồng thời nó cũng rất cụ thể, mang tính chất địa
phương, tính chất vùng và tộc người, in rõ dấu ấn các thời đại, giai
đoạn lịch sử.
Tìm hiểu cơ cấu nội tại của văn hóa dân gian
địa phương. Vì văn hóa dân gian không phải là một lĩnh vực đơn nhất mà
tồn tại ở những loại hình cụ thể, với những tác phẩm cụ thể của nó.
Loại hình và sự biểu hiện của loại hình qua những tác phẩm của nó là
những cấp độ cơ bản, đơn vị cơ bản, qua đó, ta nghiên cứu cơ cấu nội
tại của văn hóa dân gian địa phương.
Tìm hiểu đặc thù của
từng loại hình văn hóa dân gian ở địa phương. Những đặc thù của các
loại hình văn hóa dân gian ở địa phương thường được biểu hiện ở các dấu
hiệu đề tài, hình thức chức năng sinh hoạt. Các dấu hiệu này thường có
sự liên quan chặt chẽ với nhau.
Tìm hiểu sự giao lưu văn
hóa của các địa phương. Vì trong quá trình vận động trên hai trục không
gian và thời gian, văn hóa dân gian của các địa phương luôn tác động
qua lại lẫn nhau. Văn hóa dân gian ở địa phương này thu hút những tinh
hoa của văn hóa dân gian ở địa phương kia và ngược lại. Quá trình giao
lưu văn hóa của các địa phương chịu sự tác động của những quy luật lịch
sử – xã hội cơ bản.
Xuất phát từ nền văn minh sông nước, tìm
hiểu văn hóa Nam Bộ, tất nhiên phải tìm hiểu nền văn minh nông nghiệp
theo kiểu “làm nương rẫy”. Dấu ấn của nền văn minh này để lại dấu ấn
rất đậm nét trong ca dao dân ca.
Về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá
Về đồng ăn cua
Bắt cua làm mắm cho chua
Gởi về quê mẹ đỡ mua tốn tiền
- Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh
- Trên đất giồng mình trồng khoai lang
Trên đất giồng mình trồng dưa gang
Hỡi cô gánh nước đường xa
Còn bao gánh nữa để qua gánh giùm
- Hoa trong vườn nhà ai
Đưa làn hương ngược gió
Lẫn trong mùi cây cỏ
Anh biết tìm em đâu
(Phaka Kroong- dân ca Khơme)
- Bên kia sông có một vườn dâu
Em biết đâu chính tay anh trồng
Đưa em đi con nước xuôi dòng
Em biết không, lòng anh xôn xao?
Anh cùng em qua sông hái dâu
Em nuôi tằm cái áo viền bâu
Áo em mặc kín đáo bít bòng
Mọi việc phải do mình yêu nhau
(Oum tuk- dân ca Khơme)
…