Việt Văn Mới
Việt Văn Mới





        

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM


KỲ THỨ IX.

THAY LỜI DẪN

Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..


VÀI DÒNG TÂM SỰ NGƯỜI VIẾT SÁCH

T rước hết cảm ơn bậc đàn anh bước trước: Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh – Hoài Chân ... (chẳng là gần với tài liệu văn học tham khảo, cũng như so sánh).

Viết sách biên khảo hay phê bình, giá trị nhiều hay kém có thể nằm trong vài ý kiến dưới đây: Lập trường người viết phải có trước khi tìm kiếm tài liệu. Ấy là đã phải kể tới kiến thức, học và đọc; khả năng và tâm hồn văn nghệ nhạy cảm của người viết phê bình.

Lại cần kinh nghiệm, nhỡn quan nhìn, phải được chế biến theo lập luận người viết càng nhuyễn, sách càng phong phú. Không thể coi sách tương tự như cours nhà trường, làm thành gọi là biên khảo, phê bình văn học. Cũng như étude, non-fiction, fascicule, étude critique sur critique phân minh rõ ràng.

Tài liệu dồi dào, nhưng tài liệu nào chưa đọc, không nên bao biện. Người viết không định ý, lập luận; hẳn tài liệu phong phú dồi dào đi nữa; cuối cùng người viết chết theo với tài liệu sưu khảo được. Nhớ tới Nguyễn Hiến Lê trong một sách biên khảo bàn về tài liệu, nhất là tìm tài liệu văn học, sử học Việt Nam khó gấp bội phần khi sưu tập tài liệu tương tự ở nước ngoài. Ý kiến thật xác đáng. Nước ta triền miên khói lửa, và tầm mức thẩm định giá trị tài liệu văn học chưa được sử dụng đúng mức, công bằng.

Cộng đời sống thấp kém, ít thời giờ đọc sách, mua sách, bảo tồn sách, nên tủ sách văn học Việt Nam cần cho người viết sử dụng còn ở tình trạng rất thiếu thốn.

Khi viết bộ sách này, khích lệ tôi nhiều nhất phải kể tới một người: đó là anh Nguyễn Đức Quỳnh. Ông nhắn nhủ tôi rằng: “tài liệu nhiều chưa chắc đã là một yếu tố thành công, còn phải dám làm, dám nhận trách nhiệm”.

Đôi khi, chính kẻ dám làm lại liều lĩnh và dám biết mình ngu. Như vậy, chắc chắn tôi biết trách nhiệm khi viết sách. Cảm ơn một lần nữa nhà văn lão thành Nguyễn Đức Quỳnh, ông bạn văn tiền chiến vong niên. Nữa, cho tôi xin cảm ơn thêm vài tấm áo vải lao động: như anh chị Hai Nụ ở Xóm Chùa (Tân Định) làm nghề thợ thêu. Anh chị nuôi sống tôi hai năm trời: cơm và nhà ở. Nhà thuê vào năm viết bộ sách là một trăm năm mươi đồng. Tiền cơm bốn trăm đồng. Chưa hết, ông già Lịch bán thuốc lá, cũng ở đây; cho tôi chịu khoảng hai ngàn đồng tiền thuốc lá. Thuốc lá Ruby khoảng sáu đồng một bao. Sáu tháng liền, tôi chỉ đi ra tới ngõ; xa hơn là 147B Trần Quang Khải (Sàigòn 1) tới tiệm cho thuê sách Đức Hưng. Nơi này đủ gần hết tác phẩm tiền chiến, giấy dó Hàn Thuyên, mướn đem về đọc để làm tài liệu viết. Một người bạn nữa anh Lung cũng ở Xóm Chùa ngập nước, có một tủ sách khá lớn. Anh cho mượn và tôi sử dụng một cách sở hữu chủ. Anh từ miền Bắc vào Nam lâu, có viết báo tài tử, một người thật chân tình. Phải chăng chân tình này làm tôi cảm động, khi nghe kể đoạn đời anh tham gia kháng chiến ở Nam Bộ bị Pháp cầm tù. Đời tù đầy thêm kinh nghiệm sống, đời quất ngọn roi phũ phàng bao nhiêu, nạn nhân chịu nổi hờn đau sẽ sống lâu hơn; sau thì người ấy sẽ được liệt vào bậc tốt nhất xã hội trên mọi phương diện.Và một bạn học cũ Hà Nội : Tạ Văn Tài đạp xe đạp thăm tôi để khích lệ - trước khi anh đậu hai thủ khoa Văn chương và Luật khoa Sài Gòn rồi sang Mỹ du học.

THẾ PHONG



BỘ LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900-1956

gồm 4 tập:

1). NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930 -1945

2). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN 1945 -1950 gồm hai phần:

a). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN CHỦ LỰC 1945-1950 viết theo lối tuyển tập thơ văn kháng chiến, viết về: Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tố Hữu, Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Hữu Thung, Hoàng Lộc, Yên Thao, Nguyễn Đình Thi vv... Các chiến sĩ văn nghệ như: Vô Danh, Hà Minh Tuân, Lê Minh, Vũ Linh, Nguyễn Trinh Cơ, Đình Quang, An Bá Đảm, Quốc Chính, Nguyễn Xuân Hòe, An, Lưu Hương, Chính Hữu, Minh Tiệp, Phùng, Hà Khang, Kim Lân, Siêu Hải, Nguyễn Công Mỹ vv... b). Nhà văn miền Nam 1945 –1950: Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh, Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, Hoàng Tấn, Bình Nguyên Lộc, Hoàng Tố Nguyên, Quốc Ấn, Sơn Khanh, Vũ Xuân Tự, Hợp Phố (nữ), Phi Vân, Nguyễn Bảo Hóa(78) v.v...

3). NHÀ VĂN HẬU CHIẾN 1950 - 1956.

Bùi Xuân Uyên, Tạ Tỵ, Xuân Nhã (nữ), Hoàng Chu Ngạc, Triều Đẩu, Trúc Sĩ, Phan Phong Linh, Bạch Diện, Mai-Lâm-Nguyễn-Đắc-Lộc, Nguyễn Tố, Văn Thuật, Mặc Thu, Nguyễn Ái Lữ, Kỳ Văn Nguyên, Nhị Lang, Thanh Nam, Huy Quang, Nguyễn Thiệu Giang, Thi Thi Tống Ngọc, Nguyễn Hoàng Quân, Hiệp Nhân, Thùy Linh, Thanh Bình, Vĩnh Lộc, Nguyễn Thạch Kiên, Hà Bỉnh Trung, Hoàng-Lan, Quốc Ân, Hoài Linh, (1 và 2) Kim Dung, Hiền Nhân, Đoàn Thu, Hoàng Công Khanh, Sao Mai, Nguyễn Minh Lang, Văn An, Thanh Hữu, Huy Sơn, Đinh Hùng, Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Hoàng Phụng Tỵ, Hoàng Song Liêm, Hoài Việt, Trần Nhân Cư, Huyền Giang, Băng Sơn, Vân Long, Song Hồ, Lê Đình Chân, Mặc Đỗ, Phạm Việt Tuyền (Thanh Tuyền), Lê Văn Hòe, Phạm Văn Sơn, Hoàng Như Mai, Huyền Chi, Hoài Minh, Thanh Thuyền, Hồ Đình Phương, Tạ Ký, Xuân Huyền, Thanh Thanh, Tùng Long (nữ), Quỳnh Hương (nữ), Thiếu Mai - Vũ Bá Hùng (nữ), Minh Đăng Khánh, Tạ Quang Khôi, Tường Hùng, Kiêm Minh, Uyên Thao, Tô Kiều Ngân, Nguyễn Hoài Văn, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Nguyên Sa, Mai Thảo, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo,(nữ) Triều Lương Chế, Phạm-Thái –Nguyễn-Ngọc-Tân, Vũ Khắc Khoan, Chấn Phong, Hư Chu, Hồ Hán Sơn, Phan Lạc Tuyên, Đỗ Tấn, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Văn Cổn, Hoàng-Nguyên-Bùi-Khải-Nguyên, Cung Trầm Tưởng, Hà Liên Tử, Kiên Giang - Hà Huy Hà, Chế Vũ, Thế Viên, Diên Nghị, Huyền Viêm, Phan Minh Hồng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Năng An, Hoàng - Thu - Đông (Hoàng Trọng Miên), Diên Hương, Thanh Nghị, Kiêm Đạt, Hồ Nam– Vương-Tân, Nghiêm Xuân Hồng.

4) TỔNG LUẬN 60 NĂM VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900 -1956 (NAM VIỆT NAM)

Tổng luận văn nghệ Việt Nam từ đầu thế kỷ đến 1960. Người viết bộ sách cô đọng tóm tắt bốn tập dẫn giải ở trên. Người đọc không có thời giờ hoặc cần có quan niệm tổng thể chỉ cần đọc tập này thôi. Bản Anh ngữ của Đàm Xuân Cận: A brief glimpse at the Vietnamese literary scene 1990 - 1956 (Đại Nam Van Hien Books) Phụ lục bộ sách in thêm một cuốn nữa .Hiện tình văn nghệ Nam Việt Nam 1957 -1961(79) , để độc giả theo dõi được tổng quát bình diện văn nghệ Nam Việt Nam, diễn biến qua nét chính yếu sinh hoạt văn nghệ qua các nhóm: Đại Học và Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Nam Châu, Lê Tuyên, Lê Thanh Châu, nhóm Văn Hóa Á Châu, Chủ tịch giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Lê Xuân Khoa,v.v…. Văn Hóa Vụ (Cơ quan văn nghệ chính phủ Ngô Đình Diệm với Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Trọng Miên, Phan Du,v.v… Nhóm Sáng Tạo, Trung tâm văn bút Việt Nam V.N. (PEN) với Nguyễn Thị Vinh, Thanh Lãng, Tường Hùng, Duy Lam, Nguyễn Hoạt; nhóm Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương với Nhật Tiến, Duy Lam, Thu Vân,v.v… và cuối cùng Khép với bức thư người viết trình bày lý do viết bộ sách. Khi viết tôi mới 24 tuổi. Tự nhận rằng nhầm lẫn sơ sót không thể không có. Chủ quan có, nhưng nhớ rằng chủ quan nào mà anh diễn dịch trong tác phẩm? Chủ quan viễn kiến hoặc chủ quan hẹp hòi, ao tù, bè nhóm? Khi sách xuất đầu lộ diện, tôi không muốn nhìn thấy cảnh này, như Vũ Ngọc Phan ra mắt Nhà văn hiện đại; thì một L.H.V. viết bài phê bình trên báo Thanh Nghị rất hay, xác đáng lại không dám ký tên thật. Nhưng điều đau đớn, sau hai chục năm, tôi đây đến sau vẫn biết rằng, người viết ký tên tắt kia chính là Lê Huy Vân. (Bạn học cùng lớp với Nguyễn Hiến Lê). Tôi cho đó đê hèn đáng yêu nhưng không nên có. Một lối phê bình câm nín yên lặng nữa, đểu cáng đáng yêu hơn: mưu mô im lìm – Pháp gọi là: le critique très impitoyable c’est taire. Như vậy không được, một tác phẩm phê bình văn học ra mắt; hay thì khen hay; dở phải chê dở! Sự khen và chê ấy quan thiết ở chỗ đúng cảm quan người viết ở mức độ đúng nhất, không ngụy trang, mưu mô. Tôi cúi đầu trước cử chỉ đó và trong đời chỉ đón nhận thái độ đó. Khi tôi dự định làm văn sĩ, tôi cần đọc nhiều tác phẩm đàn anh, bạn văn trong nước, cả đến quốc tế. Để làm gì? Xin thưa, để xem tác phẩm nào hay hoặc dở, những gì người ta đã và chưa nói tới. Học hỏi và quyền chê khen theo quan niệm đúng nhất của tôi lúc đó. Hoặc như V.Biélinsky(80) , tác giả phê bình văn triết luận nổi tiếng số một của Nga đã chẳng nói: “...Làm sao nghi ngờ hả? Các anh quay lưng không thèm nhìn hả, lại bịt tai không thèm nghe sao? Kệ xác các anh! Không quan tâm tới. Các anh đọc hay không, với tôi không cần thiết. Tại sao à, cuối cùng ai cũng có tự do. Ngoài ra, làm sao tôi phải mặc cả với anh kia chứ? Vậy thì anh bạn ơi, đừng giận nhé! Bằng lòng hay không bằng lòng, các anh vẫn phải đọc. Không đọc, vậy thì anh đọc cái gì mới được chứ? Anh bạn ơi, nếu cho phép tôi, thì tôi bắt đầu nói đây này"…. Sự thật! Sự Thật! Chẳng có gì hơn là sự thật”
Nói theo đàn anh V.Biélinsky, thì xin thưa với các Ngài, sự thật tôi nghĩ, tôi trình bày như thế đó.

Sài gòn, 20 tháng 6 năm 1956.

THẾ PHONG

♣♣♣


KỲ THỨ XI

Tiết 1

KHÁI QUÁT VÀ ĐỊNH NGHĨA VỀ VAI TRÒ ĐẶC BIỆT CÁC TÁC GIẢ CHIẾN SĨ VĂN NGHỆ

V ăn nghệ kháng chiến không cứ gì nhà văn chuyên nghiệp khai thác hình tượng chiến đấu hay rung cảm trong giai đoạn toàn dân đứng lên tranh đấu sau 80 năm nô lệ Pháp. Ở kháng chiến, có 3 loại người tham gia văn nghệ: Công tác văn nghệ – Chiến sĩ văn nghệ và Văn nghệ sĩ kháng chiến. Loại hai và ba là tác giả được giới thiệu trong tập này.

Tiếng nói của nhà văn trong phần trên có phần nghệ thuật và điêu luyện hơn các tác giả chiến sĩ văn trong phần này, nói chung. Chiến sĩ văn có phần trội về nội dung, đã đành rằng văn nghệ sĩ có thể chỉ nghe qua cảm xúc và sự kể lại viết lại vẫn hay. Ngoài ra, lại còn những văn nghệ sĩ chiến sĩ như Hoàng Cầm, Quang Dũng vv... tham gia mặt trận. Nhưng không phải hoàn toàn văn nghệ sĩ đều như thế cả, sự sống có kinh nghiệm bản thân và có tâm hồn diễn tả bao giờ cũng đúng với rung cảm; ý nghĩa hơn. Chiến sĩ nhà văn chiến sĩ ghi lại rung cảm của mình sâu sắc qua sáng tác, bày tỏ qua thơ, văn, tạp bút. Nguyễn Đình Thi nhận định về vai trò chiến sĩ văn trong tiểu luận “Tiếng nói văn nghệ” như sau:

“… Chúng ta nhận của những nghệ sĩ vĩ đại ấy không những là mấy học thuyết luân lý, triết lý, mà tất cả những say sưa, vui, buồn, yêu ghét, mơ mộng, phấn khích và biết bao nhiêu tư tưởng của từng câu thơ, từng trang sách, bao nhiêu hình ảnh đẹp đẽ mà đáng lẽ – chúng ta không nhận ra được hàng ngày chung quanh chúng ta một ánh nắng, một lá cỏ, một tiếng chim, bao nhiêu bộ mặt con người, trước kia ta chưa biết, nhìn thấy, bao nhiêu vẻ mới mẻ, bao nhiêu vấn đề mà ta ngạc nhiên tìm ra ngay trong tâm hồn chúng ta nữa. Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào tất cả bên trong chúng một ánh sáng riêng không bao giờ nhòa đi, ánh sáng ấy từ bây giờ biến thành của chúng ta và chiếu tỏa trên mọi sự việc ta sống, mọi con người ta gặp, làm cho sự thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ. Những nghệ sĩ lớn đem tới cho tâm hồn ta cả thời đại họ một cách sống..."

Chiến sĩ văn ở đây, qua rung cảm Nguyễn Đình Thi nhìn về họ, có lý lẽ của sự khám phá cơ hội căn bản là mới lạ. Chứ chưa hẳn có cơ hội mới lạ là thành văn nghệ sĩ chuyên nghiệp. Cách sống một người tù chính trị cách mệnh, rồi nảy ra ý nghĩ diễn đạt tâm hồn mình có nghệ thuật – nếu nhà văn chuyên nghiệp không sống trong cảnh tù đày, sẽ bị thua sút khi làm công việc tương tự. Đã đành rằng tưởng tượng ưu thế của họ; nhưng tả cái chết của người nông dân có sống khi diễn đạt lại thì thiếu sâu sắc như Chateaubriand, trí tưởng tượng của nhà văn vẫn cần căn cứ vào sự thực đời sống cảm nhận được. Tố Hữu là tác giả tiêu biểu; bởi lẽ ông rung cảm chân thành trong bốn bức tường thép, dây sắt chăng điện, xà lim, buồng hẹp, giam cầm ngày qua đêm, âm thanh xích sắt, hình ảnh cơm nửa mo, cứt nửa bãi, đã nói lên hình tượng bữa cơm tù, chẳng ai nhắc ai cũng tự động tìm ăn. Thì chẳng ai bảo ai, mỗi lần nghe gọi tên mình là một lần nghĩ đến cảnh cùm, kẹp, tra tấn. Tâm hồn người tù chính trị, cách mệnh, nảy ra ý nghĩ làm thơ, nếu biết làm thơ, hát lên nếu có khiếu nhạc. Và vì thế Phan Bội Châu có Ngục Trung Bút. Tố Hữu có Trăng Trối hay W.Churchill kể lại hồi ký của mình về thế chiến thứ hai; tất cả đều muốn làm giảm sự đau khổ chồng chất lên trí não, cơ thể, phổ biến sự đấu tranh trường tồn cho những người đến sau nhận kinh nghiệm kẻ đi trước. Văn nghệ trở thành lợi khí nối liền gạch nối giữa con người và con người qua thế hệ liên tiếp. Nhận định được vậy, văn nghệ là sức sống vô hình nối lại khoảng cách quãng khi xã hội chuyển tiếp, hoàn thành đường thịnh trị nhân sinh thành một giây không ngắt quãng.

Tiết 2

SAO ĐỎ (16)

Tiểu Sử.

Ông thuật lại chuyện Đánh Trường Bay của Tiểu Đoàn 110, mà chúng tôi cho trích đoạn theo đây. Ông tả tỉ mỉ từng thái độ, động tác của một trung đội xung phong vào trường bay. Hoàng, một chiến sĩ chỉ huy trưởng cầm quân nhớ đến một đồng chí đã chết trong lần trước, lần này anh phải phục thù. Cần, một trung đội phó rất hăng hái. Đông, em liên lạc viên táo bạo. Sau khi trung đội của anh đốt máy bay thì Hoàng bị thương, Cần cứu thoát Hoàng rồi Cần lại bị thương nặng. Địch đến gần, trung đội của Hoàng mất thêm Cần từ đêm ấy; lẽ là Cần tự hủy mình và địch cũng bị thiệt hại theo. Qua âm hưởng truyện dưới đây, gây cho người đọc ấn tượng ý niệm tranh đấu, nói lên được lòng chiến sĩ ngoài trận địa đấu tranh mãnh liệt, cứu nguy xứ sở trong giai đoạn kháng chiến.

ĐÁNH TRƯỜNG BAY

Lúc ấy gần nửa đêm.

Những vệt sáng dài quét xuống sân cỏ, chạy tuột ra mãi đằng xa tít và dừng lại bên bờ sông Đuống. Tất cả khu trường bay Gia Lâm đã chìm đắm trong đêm tối, lác đác vài khung cửa sổ để lọt ra, ánh sáng nhờ nhờ ghi những chỗ ăn chơi đàng điếm của bầy lũ thực dân.

Hoàng mắt đăm đăm nhìn mục tiêu, bên cạnh Hoàng, các đội viên lặng lẽ bò rạp xuống đất, khi ngừng khi tiến theo hiệu tay của Hoàng. Toàn đội nằm chờ, không một tiếng động, không một cử chỉ ai nấy đều nắm chặt khẩu súng trong tay.

Hoàng cảm thấy thời gian lâu quá. Hoàng muốn nhảy chồm lên và xông vào ụ súng của giặc cách đấy không bao xa.

Hoàng phải triệt để tuân thủ theo quân lệnh: trung đội Hoàng và trung đội Hồng Kỳ sẽ đột kích vào trường bay đúng mười một giờ đêm nay, tấn công sẽ ghi bằng quả pháo lệnh. Vẫn không rời mục tiêu, Hoàng thì thầm hỏi:

– Sẵn sàng chưa đồng chí Cần ?

– Đã.

Hoàng nghĩ tới lần một tiểu đội trưởng có tài gan dạ tạm quyền trung đội phó trung đội Hoàng. Rồi Hoàng lại vụt nghĩ tới Hân, nguyên trung đội phó.

Mất Hân, Hoàng mất một đồng chí chân tay đắc lực, tài giỏi và đêm nay Hoàng thề quyết trả thù cho người bạn xấu số đã chết trong một đêm tập kích trường bay như đêm nay. Cả trung đội đều im phăng phắc, ngót bốn mươi con người như chung một ý tưởng “ra đi là không trở về”.

– Đoàng.

Quả pháo lệnh là mồi lửa châm vào lòng rạo rực của các chiến sĩ. Ngót bốn mươi con hùm sám xông vào vị trí quân Pháp.

Những tiếng quái gở bật ra.

Tiếng súng đủ các cỡ nổ sé trời.

Hỏa pháo tứ tung bay.

Hoàng hô anh em tiến, Hoàng xông pha giữa làn mưa đạn cả đội mạnh dạn tiến theo sau.

– Giết, giết...

Những tiếng kêu uất hận, những tiếng thét căm hờn từ đáy lòng dũng sĩ Việt Nam.

Đây là những kẻ giết cha, anh, vợ, con tàn sát đồng bào ta. Đây là lũ dâm dục đã hãm hiếp bao đàn bà con gái.

– Giết.

– Giết! Đoàn quân say máu, vì đã thấy bao nhiêu khổ nhục, đã thấy bao nhiêu cảnh đau lòng đã uất ức căm hờn máu trào đến tận cổ. Họ sọc lưỡi lê vào những thằng Pháp, họ lăn sả vào thúc mạnh lưỡi dao găm vào thịt quân thù. Giết...

Hoàng sau khi phá vỡ ụ súng máy, hướng dẫn anh em xông vào nhà để máy bay. Cần, tiểu đội phó nguyên trung đội phó theo sát Hoàng. Đoàn dũng sĩ ùa vào nhà tối như hủ nút, họ giơ hai tay quờ quạng… đây là bánh xe của máy bay, còn đây là cánh quạt mờ mờ trong gian nhà lạnh lẽo.

Phải rồi, đây là những miếng mồi ngon của những con hùm sám, của trung đội Hoàng.

– Anh Hoàng!...

Hoàng quay lại và nhận ra ngay giọng của Đông, em liên lạc của trung đội Hồng Kỳ.

– Gì thế em?

– Anh Hồng Kỳ bảo em đến báo cho anh trung đội của anh ấy đã vào tới sân bay và đang tính toán với bọn Pháp.

–Được.

Em liên lạc vụt chạy mất.

Hoàng hô anh em lấy “ét xăng cờ–rếp”(17) ra đốt máy bay. Thế là các chai cứ choang choang vào thân máy, rồi một que diêm xòe lửa. Là con chim sắt khổng lồ hàng ngày nhả đạn, tuôn bom khủng bố đồng bào Việt Nam bốc cháy. Cả gian nhà rộng rãi sáng rực. Ánh sáng tỏa trên bãi cỏ, ngoài sân. Mùi sơn, mùi dầu xăng sặc sụa!

Rồi hàng tràng liên thanh T2 ly7 và 13 ly 2 thi nhau sả vào chỗ sáng vèo vèo. Hoàng và anh em đã rút khỏi bãi lửa, nhưng một tiếng thất thanh:

– Trời ơi!

Hoàng đi sau cùng loạng choạng ôm bụng hô lớn:

– Anh em cẩn thận, rút lui mau.

Hoàng cố đi , máu bên máu mạng sườn trao ra ướt đầm cả cánh tay áo đầu gối Hoàng run run thỉnh thoảng lại khuỵu xuống muốn ngã.

Theo lệnh của Hoàng, toàn thể rút lui khá xa. Súng liên thanh bắn đuổi theo không ngớt. Hoàng lại ngã, đau lắm. Hoàng cố trỗi dậy theo anh em, nhưng kiệt sức rồi máu ra nhiều quá. Hoàng nằm im, tiếng rên rỉ khi to, khi nhỏ ngân rền. Ra khỏi vị trí Pháp, Cần kiểm điểm lại trung đội. Cần hoảng lên.

– Có ai thấy anh Hoàng ở đâu không?

– Thưa anh không ạ.

Cần không ngờ Hoàng đi sau lại chậm chậm như vậy. Anh giao toàn đội cho một tiểu đội trưởng phụ trách dẫn về địa điểm, rồi băng mình về phía trường bay.

Anh y tá Đương cũng chạy theo.

Cần hăm hở tức tối, con dao găm nắm chắc trong tay vung lên như muốn cắm vào ngực quân thù. Hoàng nằm phục sau bức tường mà Cần vừa leo vào. Hoàng đang rên rỉ giơ tay đón. Cần vừa leo lên định nhảy xuống thì một loạt liên thanh xả tới và hắt Cần nhào xuống. Y tá Dương cõng Hoàng qua lại hốt hoảng gọi Cần nhưng Cần đứng dậy lảo đảo:

– Mang ngay anh về đi. Kệ tôi mà… à!

Thấy Dương ngần ngừ, Cần thét:

– Mau lên, mệnh lệnh là mệnh lệnh!

Y tá Dương thoăn thoắt cõng Hoàng đi. Thấy hai bạn chiến đấu đi rồi, Cần nhăn nhó ôm bụng, tay vẫn cầm khu khư con dao nhọn hoắt và… ngã gục xuống, thở hổn hển; nhưng lại cố ngóc đầu dậy... Tiếng giầy lệt sệt và tiếng nói sì sồ của bọn Pháp tuần tiễu đã đi tới.

Cần sức đã tàn, ngoắt tay rút quả lựu đạn khỏi dây lưng rồi rút kíp nín thở đợi chờ. Toán địch cách Cần 15 thước, quả lựu đạn của Cần vút bay tới với tiếng thét:

– Giết.. Giết.

– Đoàng!

Những thây to lớn đổ xuống

Tiếng quái gở lúc này lại tái diễn nổ rên ư ử theo tiếng nấc của Cần. Trung đội Hoàng mất Cần từ đêm ấy.

SAO ĐỎ

(trích trong tập san Nhất Trí của tiểu đoàn 110)

Tiết 3

LÊ MINH

Tiểu Sử.

Lê Minh là tác giả Hành quân trú quân, được trích dẫn dưới đây, của một chiến sĩ văn viết thật cảm động. Hình ảnh một chiến sĩ được nhìn thấy cảnh hành quân trên màn ảnh quân đội đế quốc, đi đâu có xe đưa đến đó. Có khi ngủ một giấc dài rồi mới đến chỗ hành quân. Là chiến sĩ nhược tiểu dân tộc đấu tranh cho độc lập, chiến sĩ trong truyện như tác giả tả tất phải lam lũ, vất vả trên đường độc đạo. Súng nặng hàng chục cân, đi bộ, trèo đèo, vượt suối, vừa đi vừa ngủ, vừa dìu nhau vào mặt trận. Đôi khi chiến sĩ đi qua nơi thị trấn bị tàn phá, lòng xót xa: “Quang cảnh chết! Thôi còn đâu nữa Đ.T thơ mộng, Đ.T nhộn nhịp với những hiệu tạp hóa xanh, đỏ, với những quán trà, quán cơm thơm phức, mùi phở sào và mùi cà phê, người đi lại đông đúc như Hàng Đào...Tàn phá và đổ nát..” Rồi đến cảnh ngụy trang, từ thô thiển đến tinh vi từ thiếu kinh nghiệm đến dày kinh nghiệm, tác giả diễn tả lại rất sống động. Có một điều đặc biệt, đáng chú ý nhất là dù mệt mỏi gian lao bao nhiêu, người chiến sĩ vẫn tin tưởng vô biên trong cuộc chiến đấu. Đọc văn Lê Minh để hiểu cảnh khó nhọc chiến sĩ, nhưng không vì thế mà chán nản.

HÀNH QUÂN TRÚ QUÂN

“Thật thế, kể từ khi bước chân ra khỏi Thủ Đô, chúng tôi đã lăn vào một cuộc hành quân dài đặc. Một cuộc trường chinh. Có thể nói thế – chúng tôi đã vượt qua hàng ngàn cây số, qua không biết bao nhiêu sông, không biết bao nhiêu suối, bao nhiêu rừng. Chỉ có thể nói là đi liên miên, từ miền đồng bằng đến các tỉnh miền Việt Bắc.

Trong những ngày cuộc hành quân dài nhất của chúng tôi, có thể kể cuộc hành quân trong thời kỳ Việt Bắc bị tấn công.

Từ ngày 10 –10 –1947 nghĩa là ba ngày sau khi quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn, cho tới ngày 3 – 2 –1948 là ngày chúng thất bại, chúng tôi trở lại hậu tuyến tạm nghỉ. Tiểu đoàn chúng tôi đã đi tới một ngàn năm mươi cây số. Hỏi tới hành quân? Tôi lại nhớ tới ngày xưa đi xem chiếu bóng, những phim quay nhiều mặt trận. Chà! Những cuộc hành quân trong phim ảnh mới thú vị làm sao! Hàng chục xe vận tải, hàng chục chuyến xe lửa tốc hành chở quân ra mật trận. Đồ đạc, quần áo lương thực có chuyến xe lửa riêng. Ngoài đồ vũ khí nhẹ, người lính chả phải mang gì nặng nề, cứ việc lên xe ngồi. Thế là từ nơi đóng quân ra đến mặt trận xa hàng trăm cây số. Trong nháy mắt, họ đã đến nơi, không mệt nhọc, không mệt nhọc gì cả; có khi lại còn làm được một giấc ở trên xe rồi cũng chưa biết chừng. Thật là mộng!

Lại nghĩ đến hành quân của chúng tôi bây giờ mà khiếp. Đi hàng chục cây số. Có lần ở chợ mới, Bắc Cạn, một ngày một đêm đi luôn năm chục cây số đường xấu và đường rừng núi mà lại đi bộ, đi chân không, người thì đầy võ khí, đồ đạc quần áo.

Nhất là những chàng vác súng máy mới rầy. Nặng gần đến chục cân có ít đâu. Nguyên bộ chân khẩu Browning, là hạng súng máy nhẹ hơn cả, cũng đến bảy cân rồi còn gì! Lại còn phải đạn nữa chứ, những hòn đạn nặng chĩu phải mang lấy, nếu không có ngựa để thồ. Anh vác Bazooka cũng khó nhọc không kém còn nữa, còn nhiều thứ nặng nề mà không mang theo được. Ấy thế mà anh em đi đã đi được đấy, đi một cách nhanh chóng và gọn gàng nữa là đằng khác. Mà nào các anh có to, có khỏe gì cam. Anh nào cũng gầy giơ xương sườn. Ngày 10 tháng 10 bắt đầu hành cuộc hành quân. Buổi tối hôm ấy, chúng tôi được lệnh xuất phát. Qua phố Đ.T nhà cửa vừa có lệnh phải phá. Gạch ngói ngổn ngang. Không khí sặc mùi khói tro khét lẹt.

Quang cảnh chết! Thôi còn đâu nữa Đ.T thơ mộng, Đ.T. nhộn nhịp với những hiệu tạp hóa xanh đỏ, với những quán trà, quán cơm thơm phức mùi phở sào và mùi cà phê, người đi lại đông đúc như Hàng Đào. Tàn phá và đổ nát. Ôi chiến tranh thật là phũ phàng! Chúng tôi nhớ lại đêm nào rút khỏi thành Hà Nội, cảnh tượng cũng chẳng khác thế này.

Đoàn chúng tôi đi. Trời đêm ấy mát mẻ, có trăng suông. Lại xa mặt trận. Đi ung dung giữa đường dài, cầu chưa phá, đường chưa xẻ. Cuộc hành quân quả có dễ chịu. Đi mất một ngày, bốn giờ chiều hôm sau tới Q.V. Ở đó chúng tôi ở lại hai hôm rồi đi C.Đ. Cuộc hành quân bắt đầu vất vả. Chúng tôi phải đi gấp. Hành quân suốt ngày đêm. Anh em lâu không đi nhiều cũng thấy hơi toái phở. Chúng tôi đi đã mấy đêm rồi. Đêm nay lại đi. Tuy không mệt lắm vì ban ngày chúng tôi được nghỉ nhiều: nhưng buồn ngủ dữ. Đi được vài giờ cơn ngủ ở đâu đã kéo đến. Mấy thằng chúng tôi mắt cứ dính lại. Chân bước đi mà mắt thì cứ nhắm. Chúng tôi đi lảo đảo. Chân nọ đá chân kia. Sau nghĩ ra được một cách, cứ hai thằng dựa vào nhau đi. Mới đầu còn thằng nhắm mắt, thằng mắt mở. Về sau cả hai thằng cùng chập chờn, nhưng vẫn không dám nghiền mắt lại thật mà ngủ lịm đi bao giờ không biết. Ấy thế mà chân cứ bước đều.

Chúng tôi ngủ như vậy cho đến lúc hự một cái. Cả hai thằng cùng choàng mở mắt thấy mình đứng dưới hố. Cảnh tượng ngộ nghĩnh quá. Chúng tôi nhìn nhau phì cười đến đứt hơi.

Qua quãng đường xẻ, chúng tôi không dám ngủ. Nhưng đi khỏi nơi ấy, đường láng. Không thằng nào bảo thằng nào chúng tôi lại tiếp tục theo nhau gật lìa gật lịa. Tài tình một cái là vừa đi vừa ngủ như thế mà vẫn không đâm ra ngoài hàng. Có anh chàng đi kém quá, ngã đến năm sáu cái, mở mắt ra mà còn chửi đổng:

– Cây khỉ gì vậy lại mọc giữa đường!

Qua một cái cầu khó đi. Đầu tốp hành quân dừng lại. Thế là như chuyến tàu hãm phanh, chúng tôi đâm mình vào nhau, thằng dưới nằm ngã đè lên thằng trên dúi dụi. Nhưng chỉ những đêm nào tối trời, lại đi giữa đường cái, hoặc đường khá tốt mà thẳng mới xảy ra những chuyện ngủ đường như thế. Chứ phải hôm trời mưa đường trơn mà ngủ như thế thì cứ gọi là ngã trật mắt. Những đêm hành quân dưới trời mưa, trái lại là những điều chúng tôi phải chú ý nhất. Tinh thần luôn luôn căng thẳng. Không dám lơ đễnh một chút nào.

Đường đất thịt trơn lắm. Nhất là những quãng đường xẻ hoa mai; đất vừa trơn lại vừa gồ ghề, đi càng trơn tợn. Chúng tôi đi sát vào nhau, vì như thế thì một anh ngã là ngã cả nút. Anh nào cũng chuệnh choạng như say rượu mặt cúi gằm ngón chân lấy xòe ra và bám chặt xuống đất. Chà! Trơn dữ quá càng bấm chân xuống đất mạnh lại càng trượt đi. Chỉ nên chọn những điểm đất trũng có nước hay lầy mà đặt bàn chân thì mới vững được. Nhưng trời vẫn tối lắm, làm thế nào mà trông thấy được chỗ đất lầy với đất trơn. Đành cứ là đi phứa phựa. Bàn chân bị phủ một lượt đất thịt lại đi lên chỗ đất thịt hai mặt trơn cọ vào nhau, nó trôi tuột đi. Ấy thế là chân chổng lên giời thế là "phèo", là ngã. Có võ lắm mới không việc gì chỉ trượt chân và lảo đảo một tí thôi. Nhưng những vố hụt như thế cũng đủ làm toát mồ hôi lưng và dựng tóc gáy. Chốc chốc lại nghe đánh huỵch một cái. Một anh vồ ếch. Mới con đầu còn có tiếng cười rúc rích, nhưng về sau, nhiều vồ ếch quá, mà anh nào ít nhất cũng ngửi hơi ếch đến hơn một lần thì thôi không còn ai buồn cười nữa. Hành quân trời mưa quả có vất vả và mỏi mệt nữa. Mõi cả vật chất lẫn tinh thần. Và không phải chỉ chân với mình phải làm việc tợn, mà mắt và nói chung, tất cả giây thần kinh đều căng thẳng dồn hết vào sự chú ý xuống đôi bàn chân để chỉ có một công việc là đi khỏi ngã. Đã thế mà thôi đâu còn lạnh còn buốt nữa chứ. Những hạt mưa như từng nắm kem ném vào mặt người đi đường. Nó đọng trên tóc, trên lông mày rồi chảy dòng dòng xuống mắt, xuống mũi, xuống mồm, lấy lưỡi liếm thì hạt mưa có chất mặn. Ra mưa có lẫn cả mồ hôi và có lẽ cả nước mắt nữa. Quần áo dưới trời mưa ướt sũng, cả ba lô cũng ướt. Chăn màn cũng ướt nốt. Thế là đêm nay, anh em đành cởi trần ôm nhau mà ngủ vậy.

Đi đường cái thì trơn. Đường đá vì bị xẻ và đào lên nên cũng trơn, có khi còn trơn hơn đường đất vì lần đất thịt ở dưới bị đào lên chất thành đống. Mưa lâu, đất bết vào nhau, quánh lại trơn không thể nói được. Đi đường tắt cũng lội. Qua khe, qua cầu, những cái cầu dài làm sơ sài bằng hai ống tre ghép lại, hay chỉ bằng một khúc gỗ tròn. Trời mưa, đi nhiều nó bị phủ một lượt đất trơn như mỡ. Khi qua phải đi từng người một, không thì lăn xuống khe mất mạng. Qua những rừng nứa hôm trời mưa cả là một cái nạn ghê gớm. Soạt! Soạt! Anh vừa chạm phải những ngọn nứa. Lập tức anh sẽ thấy nhấp nhoáng ở gáy. Đưa tay lên vuốt, anh tóm ngay được một chú vắt xanh lè, nhỏ bằng que tăm đang sắp sửa rút vào cổ anh mà hút máu. Những con vắt nhanh như cắt và liều lĩnh không thể tưởng tượng được. Trên cây cỏ, vắt, dưới đất lại còn nhiều nữa, anh thử cúi xuống mà xem các kẽ chân anh đã thành những ngăn đựng vắt. Anh khiếp à? Anh bắt không xuể đâu. Anh còn đi nó còn bám. Bắt vô ích. Chỉ nên đi nhanh lên thôi. Có cu cậu sợ vắt, mỗi lần trời mưa phải hành quân qua rừng nứa là run người lại. Đi một lúc lại cúi xuống dòm chân. Thế rồi cậu thấy một con vắt đen xì bám vào bụng chân. Cậu giẫy nẩy lên, kiếm cho mau chóng một cái que gạt nó xuống đất. Ác là nó bám chặt quá, cậu phải gạt thật mạnh bật cả máu ra nó mới chịu bám xuống bên đường. Về sau bị bám tợn quá, cu cậu gạt không kịp đành cắn răng mà đi không dám nhìn xuống chân nữa. Rồi dần dần nó cũng quen đi. Vắt không còn là một sự ghê gớm nữa. Người ta phớt nó đi như phớt khi đá phải vành khăn xếp, nói nhỏ: “tiếng văn hoa của bãi phân trâu”. Rồi đến nơi ở đua nhau mà bắt để thi ai có nhiều vắt bám nhất. Hành quân đường tắt mà đi ban đêm không thấy nhau rồi. Mở mắt cũng như nhắm mắt, chẳng còn nhận ra cái gì nữa. Chúng tôi cứ việc nắm lấy áo nhau mà đi theo em liên lạc. Chân bước thấp bước cao, chẳng còn biết là mình dẫm lên cái gì, và đi qua những chỗ nào đang đi mà vô phúc anh nào vấp ngã thôi thế là đứt liên lạc.

Anh nhỏm dậy bước gấp đuổi theo đoàn quân vẫn bước đều đi thật nhanh. Tay anh giơ ra phía trước xoa xoa hòng tóm được cái vai hay cái ba lô của người đi trước. Đuổi kịp thì thật là may. Anh sẽ thở đến phào một cái nhẹ nhõm. Rủi lại chạy đâm vào một ngách khác, chạy mãi không thấy người đi trước đâu. Thế là anh cất tiếng gọi sẽ? Không thấy tiếng trả lời anh hú lên. Mới đầu còn khẽ và dè dặt. Sau anh đâm cuống hú tướng mãi lên, kỳ nghe thấy tiếng trả lời mới thôi.

Những đêm hành quân thường xảy ra chuyện mất liên lạc như thế và tiếng hú cứ nổi lên, đây một tiếng; đó một tiếng vang cả rừng. Hết cả bí mật. Về sau bị sạt tợn quá, và để tránh cái nạn bị bỏ rơi, anh em nghĩ cách bắt đom đóm bỏ vào trứng và nhặt những là mục có lân tinh sáng gài vào ba lô của nhau để đi khỏi bị đứt liên lạc. Những cuộc hành quân của chúng tôi thường về đêm như thế vì chúng tôi ở ngay sát mặt trận. Nhưng cũng có lần hành quân giữa ban ngày. Hành quân ban ngày phải ngụy trang cẩn thận nghĩa là phải lấy lá gài khắp người thật kín. Xa trông như những bụi rậm rạp. Mới đầu ngụy trang do kỹ thuật còn kém, có anh chỉ gài phất phơ mấy cành cây to tướng cắm lên lưng nhác trông như một cái cây biết đi. Về sau thì chúng tôi ngụy trang đã nghề lắm, có tổ chức thống nhất. Từng tiểu đội ngụy trang một thứ lá cây giống nhau dùng dây bện thành những tầng áo lá rậm kín và nhẹ. Lúc đi chỉ việc choàng vào người buộc lại, thật tiện mà chắc chắn. Ngụy trang vào trông anh em cũng dữ dội lạ. Nhất là khi đi, gió thổi làm đám lá trên mũ và trên vai bay phất phới, trông oai ghê có vẻ chiến sĩ lắm.

Đến nơi đóng quân, chúng tôi ngồi nghỉ, tháo tấm áo ngụy trang, thấy nhẹ nhõm cả người, bộ quần áo rách mướp của chúng tôi lại được phơi ra ánh mặt trời. Những chỗ rách ở vai, ở khuỷu tay, ở đầu gối bay như cờ đuôi nheo ngạo nghễ. Tiếng cười nói sau này vang thành một điệu hát “chúng ta cười nhìn gió bay là tung manh áo tả tơi”.

LÊ MINH

Tiết 4

VŨ LINH

Tiểu Sử.

Vũ Linh cũng như chiến sĩ văn nghệ khác trong kháng chiến, tác giả Hành quân chiến đấu. Khác với Lê Minh, câu truyện ghi lại hình ảnh một cảnh sau buổi giao tranh nóng hổi. Sặc mùi khói lửa. Hành quân chiến đấu giữa đêm khuya khoắt, gió, mưa. Lòng hăng hái của chiến sĩ đấu tranh quên đói, quên mệt nhọc. Sau đó, tác giả đói quá và thái độ ấy được diễn tả linh động như sau: “Tôi vừa “tước” được của anh đại đội trưởng một bắp ngô sống nhưng bị “xung phong ngay”. Đề cao sự chia xẻ và lòng yêu thương chiến sĩ đối với nhau. Cho nên không nỡ ăn cả một chiếc bắp ngô. Anh đại đội trưởng nhường; tác giả bị anh em đồng đội xung phong mất, rồi chia mỗi người được vài chục hột. Đẹp bao nhiêu! Lòng phấn khởi, khi đọc xong mẩu chuyện yêu thương của chiến sĩ kháng chiến giành độc lập cho xứ sở. Tình cao cả của chiến sĩ đến gần với chúng ta hơn như thế, là nhờ ở những mẩu truyện linh hoạt sống động.

HÀNH QUÂN CHIẾN ĐẤU

Đêm càng khuya mưa càng nặng hạt như trút nước xuống. Anh em được lệnh lên trên một trái núi mà hầu như xưa nay chưa ai bước chân tới bao giờ để ngủ. Mệt. Mấy đêm nay xuyên sơn; ai nấy ngủ lăn lóc, bạ chỗ nào đặt mình chỗ ấy, anh nằm xuôi nằm ngược. Mặc cho có vắt và những trận ngâu liên miên, tiếng xì xào ngớt hẳn. Yên lặng. Thỉnh thoảng vài tiếng o o ngáy vang lên, tuy bị những trận mưa cố át đi. Năm sáu người một chỗ, họ gục đầu vào gối ngủ, anh kia dựa lưng vào gốc cây ngủ. Có anh tính cẩn thận, không muốn lăn ra đất ra bùn, lên những cành cây hốc đá trải chiếc áo mưa ra để nằm. Nhưng chiếc áo mưa không thấm nước ai ngờ đã trở nên cái vũng nước để cứ tát đi hết một lượt thì mưa, rồi nước từ trên cao tràn xuống và vũng nước bằng chiếc áo mưa lại đầy. Đoàn người ra đi vạch lau rẽ cỏ thẳng gò núi tiến, qua nhiều đồi tranh quang quá phải ngụy trang vừa đi vừa nhìn vị trí địch hai cái lều vừa dựng, một lá cờ ba sắc hai tên lính Thổ đứng trên gò nhìn xuống vị trí Đ.. Thỉnh thoảng tiếng súng ở vị trí địch lại vang lên. Mặc. Đoàn người vẫn tiến. Hôm sau bắt đầu hết gạo, đường lại khó đi hơn, trời lại cứ mưa tầm tã, phải trèo qua những rặng đá răng mèo lởm chởm và nhọn hoắt, có chỗ phải theo dây leo mà tụt xuống, chốc chốc lại đứng lại để phát đường nhìn phương hướng mà lấy lối đi. Xâm xẩm tối tới một làng nhiều nhà nhưng không thấy người qua lại chỉ trừ một nhà có đốt lửa và thấp thoáng mấy bóng người: không phải là dân chúng mà là tiểu đội tiếp tế của địch. Chúng tôi chuẩn bị sẵn sàng. Một đồng chí xung phong vào đầu bắn một phát, một tên ngã, định bắn phát thứ hai thì bị ngay một viên đạn địch bắn trả lại xuyên báng vào nách và ra đằng sau. Anh quỵ xuống. Một tên trông thấy đồng chí Kế ở cửa dơ báng súng đánh một cái. Kế vội dơ súng đỡ và bị gãy báng súng. Vội vã anh xông vào ôm cổ địch, hai bên cùng hăng hái vật nhau, mãi đến khi đồng chí Hùng ở trong nhà chạy ra đánh tên giặc và lấy được khẩu súng.

Sau cuộc chiến đấu gay go, đột ngột chúng tôi lại ra đi và được hai cây số lại gặp địch. Lần này kịch chiến, anh em tỏ ra hăng hái. Đồng chí Hùng thét lên: “Các đồng chí ở trên cứ yên chí, có chúng tôi ở đằng sau đây”. Đoạn anh nhắc khẩu "Bờ ren" lên lia một chập sang vị trí địch. Địch rút lui. Cảnh vật lại em lìm. Mây đen kéo đến rất nhanh bao trùm lên núi rừng trở nên âu. tiếng dế kêu buồn bã hòa lẫn với tiếng thác đổ mơ hồ dội vào lòng những kẻ quen với súng đạn những ý nghĩ không đâu. Lòng họ tê đi, vì dọc đường này, họ đã rỏ máu, họ đã mất những đồng chí thân yêu mà trước đây hai giờ còn chung sống, cùng họ cam khổ, vạch lau rẽ lối để làm tròn nhiệm vụ. Vụt một cái lòng họ sôi lên căm thù đầy ứ. Và đoàn người vẫn tiến trong đêm tối. Họ tiến cho tới khi có lệnh cho nghỉ thì họ lại lăn ra ngủ, quên hết mọi khó khăn.

Đoạn đường khổ đâu đã hết. Mưa càng ngày càng nặng hạt hơn, không ngớt một phút nào, họ co ro tìm những hốc đá, hốc đất mà ngủ vì chăn, áo quần, ba lô cho tới cả thân họ đều ướt và rét, vắt vô kể, cầm sờ mà vất đi, chập chờn thức ngủ như vậy cho tới sáng.

Sau mấy bữa không có gì vào bụng, bụng cồn cào, chân mỏi mỏi, dốc lại cao, đại đội thẳng tiến qua những trái đồi chót vót, trèo dốc dựng đứng. Mặc, vẫn cứ đi. Qua những rừng chuối đều bị ngả nghiêng bóc lõi ăn. Đói quá. Một đồng chí bứt một thứ quả gì bé bằng ngón tay xanh ăn thấy ngon. Ai nấy đều thi nhau ăn, tuy chát vô cùng. Tôi vừa "tước" được của anh đại đội trưởng một bắp ngô nhưng bị xung phong ngay, và rốt cuộc cũng chỉ còn được mấy chục hạt. Thế rồi đến chiều nay. Anh em reo lên, còn có tí sức nào cũng cố mà reo lên, vì sau ba ngày đói, mưa nắng, đánh nhau, leo núi, chúng tôi đã toại nguyện và khoan khoái trong tiếng hoan hô gặp bộ đội bạn: biên phòng.

Trích báo tay đại đội

VŨ LINH

Tiết 5

NGUYỄN TRINH CƠ

Tiểu Sử.

Nguyễn Trinh Cơ là một y sĩ trong ngành quân y chiến đấu. Tác giả Em Ngọc, một mẩu truyện đầy cảm động mà chúng tôi trích dẫn dưới đây. Viết Em Ngọc Nguyễn Trinh Cơ muốn đề cao lòng yêu nước của một em bé.

Ngọc là liên lạc viên. Tâm trạng khi đưa em đến bệnh viện là sợ bị cưa tay. Em hỏi bác sĩ như vậy. Vì không muốn cho bệnh nhân thất vọng, bác sĩ đành phải nói dối trái với sự nhận định xác thực của ông. Lòng thắc mắc và tâm tư bị xáo động. Tác giả ghi lại tỷ mỷ từng thái độ nhỏ nhặt của em, nhưng vô cùng tinh tế. Từ thái độ minh chứng em Ngọc có tác phong người lớn, em không kêu đau, vòi, làm nũng cùng các nữ y tá đều nhận như vậy cả. Nhưng đến khi mẹ em vào thì tình thương ấy lại trở về đúng chỗ của tình mẹ con: “dăm ngày sau, bà mẹ được tin lại thăm em và ở lại chăm nom. Mỗi lẫn đi thăm em, tôi vẫn thấy em tươi tỉnh, ngoan ngoãn. Nhưng các chị cứu thương cho biết rằng nhiều lúc vắng người, em hay làm nũng bà mẹ, đò bà quạt, rót nước luôn miệng. Mỗi lần ăn phải chính tay bà và cho em từng miếng một”. Tâm lý rất sâu sắc, quan sát kỹ lưỡng. Ông còn cho chúng ta thưởng thức một đoạn văn linh động của em Ngọc trao lại cho bác sĩ một bài học về tâm lý thời chiến tranh sau khi trở về đơn vị. Và chính tác giả là người ham học; cho nên mới dám nhận bài học trường đời, không cứ gì ở một người hơn tuổi, bằng tuổi. Ở đây đến cả một người kém tuổi: “Tôi đi thăm các thương binh cũ của tôi lúc ra về, vì muốn đến thăm tiểu đoàn bộ, tôi đứng xa hỏi thăm em Ngọc địa điểm tiểu đoàn. Không trả lời, em Ngọc vội chạy lại chỗ tôi, lấy tay phải còn lại níu áo tôi, nghểnh hai chân lên vươn mình lên. Tôi hiểu ý cúi mình xuống kịp để đón câu trả lời của em, câu trả lời nhỏ như tiếng: “Tiểu đoàn bộ ở làng A.S.”. Tôi ôm chặt em bé vào lòng, thành thật nhận lấy bài học về kín đáo mà vô tình em đã dạy tôi”. Văn nhẹ, thoát, tế nhị, nhiều đoạn đặc sắc, tinh thần thông minh của một em bé được mô tả có nghệ thuật. Trong cuộc kháng chiến. Nguyễn Trinh Cơ muốn chúng ta cùng nhận định còn biết bao nhiêu là em Ngọc tham gia cuộc giải phóng xứ sở như thế!

EM NGỌC

Đây không phải một thiên tiểu thuyết. Chuyện mà em Ngọc kể ra chỉ cốt ghi lại một kỷ niệm trong đời sống kháng chiến của một người thầy thuốc. Hôm ấy từ hai giờ sáng tiếng súng nổ ran sau mấy ngày yên tĩnh. Tiếng liên thanh kéo dài như những tràng pháo, đạn moóc chê nổ ầm rền vang trong đêm yên lặng. Sáu giờ sáng chúng tôi ở bệnh viện đã dậy và người nào việc nấy. Theo lệ thường, sau những tiếng dồn dập nhân viên đều sửa soạn sẵn, hấp đồ mổ thu xếp chỗ để chờ cứu chữa số binh sĩ bị thương nơi mặt trận về. 9 giờ, 10 giờ việc thăm thương binh cũ và băng bó đã xong mà vẫn chưa có thương binh mới đến. Chúng tôi vẫn chờ. Vào quãng 11 giờ, một cái cáng từ từ tiến vào “nhà chờ” nơi các thương binh mới đến nằm nghỉ tạm trước khi vào nhà mổ. Đi sau cáng là một anh cấp trung đội mà tôi quen. Không chờ anh đến gần, tôi đã hỏi dồn:

– Thế nào anh, có nhiều không?

– Chỉ có một em bé này thôi ạ.

Lúc ấy tôi nhìn kỹ vào cáng: một thân hình nhỏ bé thu gọn vào lòng cáng chiếc khăn màu xám phủ kín người, để lộ mặt ra, khuôn mặt đều đặn sáng sủa của một em bé 11, 12 tuổi. Em bé nhìn tôi bằng đôi mắt mở to và nở nụ cười để chào hỏi. Tôi vỗ nhẹ vào má em để an ủi và mở băng xem vết thương. Một chị nữ cứu thương khẽ đỡ đầu em quay đi chỗ khác.

– Chị không phải giữ chị ạ. Chị cứ để em xem vết thương của em.

Nghỉ một chút em bé lại tiếp, lần này nói với tôi:

– Tay em có phải cưa không bác sĩ?

– Em cứ yên tâm.

Tôi nói lảng, bằng một giọng cố bình tĩnh để dấu một nỗi buồn, khuỷu tay em đã nát, không còn cách nào giữ được. Chị nữ cứu thương tiêm cho em Ngọc một ống thuốc trợ lực và để em nằm nghỉ một lúc. Tôi ra hiệu cho nhân viên sửa soạn ở phòng mổ, rồi cùng anh trung đội đi vòng sân nói chuyện.

Tôi ngậm ngùi bảo anh:

– Nát hết tay rồi, không thể giữ được.

– Tiếc quá. Em Ngọc giỏi lắm. Gan dạ, táo bạo, và đã giúp được nhiều việc. Rồi thong thả, anh kể cho tôi nghe rõ tại sao em Ngọc bị thương. Từ đêm địch bắn sang vị trí ta. Đến gần sáng, bộ đội gần đấy đoán được sẽ có cuộc hành quân của địch. Ban chỉ huy cần liên lạc gấp với bộ đội ở phía sau. Em Ngọc nhận lệnh ra đi sau lời căn dặn kỹ càng của anh chỉ huy. Khỏi đường qua đê thì đến gần luồng đạn của địch. Em Ngọc ngừng lại một lúc, định đi vòng ra sau cho chắc chắn. Nhưng nhớ lại anh chỉ huy nói là việc cần kíp lắm, em mạnh bạo bước thẳng. Khỏi vài chục thước, một viên đạn moóc chê nổ làm em nằm rạp xuống. Ở tay thấy đau chói. Em Ngọc cởi khăn quàng buộc chặt lấy chỗ tay đau, ép vào ngực rồi đứng dậy cố lần bước tiến thẳng. Em đến nơi, mặt xanh nhợt. Anh y tá bộ đội buộc vết thương cho em xong thì em xin phép đi nằm. Rồi thản nhiên ngủ một giấc yên lặng như không có việc gì vừa xảy ra.

Trong phòng mổ đã sẵn sàng. Em Ngọc nằm thẳng trên bàn mình che dưới những miếng vải trắng bóc. Trong phòng yên lặng. Hộp kền sáng loáng. Mùi cồn, mùi vải hấp bốc lên. Cái khung cảnh quen thuộc dễ làm cho người say mê công việc. Tôi đi rửa tay và mặc áo hấp. Cùng lúc ấy, người đánh thuốc mê chụp máy lên mặt em Ngọc. Trong phòng ngủ yên lặng, chỉ có tiếng phập phồng của cái bong bóng ở máy thuốc mê lên xuống theo nhịp thở của em Ngọc. Bỗng em rẫy mạnh và la to: “Thực dân liệu hồn. Sao mày bắn gãy tay ông?”. Tất cả chúng tôi trong phòng mổ đều mỉm cười vì câu nói đột ngột ở miệng đứa trẻ. Rồi tiếp luôn một cơn dãy dụa mạnh nữa tiếng khóc xen và những câu nó dồn dập: “Thực dân nó bắn gẫy tay tô..i rồ..i. nước mắt tôi còn đang đánh nhau với nó kia mà. Hu.. hu. Để tay cho tôi, tôi đánh nó. Đuổi nó đi. Đu.. ổi..”. Tiếng em Ngọc bé dần, mất đi trong giọng ú ớ. Rồi em Ngọc bắt đầu ngủ say.

Trong một phút tất cả nhân viên trong phòng mổ đều ngưng tay. Người nào cũng cố ý nhìn đi chỗ khác. Một vài chị nữ cứu thương quay mặt đi lấy vạt áo giấu giếm lau một giòng nước mắt.

Em Ngọc thành ra bệnh nhân được cưng nhất trong bệnh viện. Luôn luôn có người ngồi nói chuyện hay đọc báo cho em nghe. Quà bánh nhiều đến nỗi em ăn không hết. Mỗi lần thay băng, vài ba chị cứu thương xúm xít quanh em, hát hay pha trò cho em quên đau. Nhưng lần thay băng nào em Ngọc cũng cười, nụ cười nửa miệng, không thành tiếng, nhưng nó làm cho nét mặt em tươi hẳn lên và khiến cho người gần em lây cái vui của em cũng theo em nói cười.

Dăm ngày sau, bà mẹ được tin lên thăm em và ở lại chăm nom. Mỗi lần đi thăm em, tôi vẫn thấy em tươi tỉnh ngoan ngoãn. Nhưng các chị cứu thương cho biết rằng nhiều lúc vắng người, em hay làm nũng bà mẹ, đòi bà quạt, rót nước luôn miệng. Mỗi lần ăn phải chính tay bà và cho em từng miếng một. Làm nũng mẹ có lẽ là tính tự nhiên của tất cả các trẻ em. Sau đó nửa tháng vết thương em Ngọc lành hẳn. Hôm em về, tôi tiễn em ra đến tận cổng làng bắt tay em thật chặt như bắt tay một người bạn nhớn. Rồi bẵng đi một dạo đến năm sáu tháng tôi không được biết tin tức về em Ngọc.

Lần ấy, tôi đi thăm một An dưỡng đường ở cách bệnh viện tôi vài chục cây số. Đến một tổ vừa bước chân vào nhà đã thấy em Ngọc chạy vội ra chỗ tôi, thòng thòng một tay áo quá dài. Em kể cho tôi nghe hiện giờ em giữ vị liên lạc cho tiểu đoàn ở đây. Tôi đi thăm các thương binh cũ của tôi. Lúc ra về vì muốn đến tiểu đoàn bộ, tôi đứng xa hỏi em Ngọc địa điểm tiểu đoàn. Không trả lời, em Ngọc vội chạy lại chỗ tôi, lấy tay phải còn níu áo tôi lại, nghển hai chân, cố vươn mình lên. Tôi hiểu ý, cúi mình xuống kịp để đón câu trả lời của em, câu trả lời nhỏ như tiếng thở: “Tiểu đoàn bộ ở làng H.S.” Tôi ôm chặt em bé vào lòng, thành thực nhận lấy bài học về sự kín đáo mà vô tình em vừa dạy tôi.

Tôi nhìn lại khuôn mặt đầy đặn, sáng sủa của em Ngọc, rào rạt trong lòng một niềm tin vô hạn về thế hệ ngày mai. Người tò mò đọc những dòng trên đây có lẽ cố tìm cho biết em Ngọc là ai? Ở bộ phận nào? Cái tên của em có quan hệ gì? Em Ngọc mà cũng có thể là Bình, Hải, là Chương, là những em nhi đồng đang ghé vai bé nhỏ chia một phần công tác kháng chiến cùng các anh nhớn tuổi.

Em Ngọc ở đâu? Thuộc bộ đội nào? Chúng ta cần gì phải biết rõ. Một bộ đội nào chiến đấu trên đất Việt Nam này mà không có em Ngọc?

NGUYỄN TRINH CƠ

Tiết 6

KHUYẾT DANH

Tiểu Sử.

Đây là ba mẩu nhật ký trích trong báo “Chiến Thắng” của Trung đoàn Thủ đô. Tác giả là các chiến sĩ của trung đoàn ấy. Nhưng dấu tên. Mẩu Nhật ký của một pháo binh, tác giả ghi nhận vào mùa đông độ rét đậm miền núi Tu Vũ (Mộc Châu) trong cuộc hành quân. Văn bình dị, nhẹ nhàng, nhưng không kém phần sắt máu.

Dưới Bèo, tác giả cặn kẽ tả trạng thái chịu đựng độ rét của một trinh sát viên nằm dưới nước để dò vị trí địch. Ý chí nung nấu ấy là góp cho sự chiến đấu chung của tổ quốc.

Mùa xuân đã tới, chiến sĩ thương binh là một phần tử của Trung đoàn thủ đô cần được nhắc nhở. Sự săn sóc của một nữ đồng chí khiến người chiến binh cảm động. Bọc băng, mua thuốc lá cho chiến sĩ, với cả lòng thương yêu tương trợ giữa đồng đội, khiến những người còn một nửa sống cảm động và nhìn thấy trước mặt mình một màn trong sáng mùa xuân.

1– NHẬT KÝ MỘT PHÁO BINH

Thật vậy, trận Tu Vũ ngày 18 – 3 – 48 bị một mẻ rét mà nay tôi chỉ có thể viết là “rét không thể tả được”. Trước còn run như người lên cơn sốt rét sau rét cứng người hẳn lại. Tiểu đội tôi hai giờ đêm thì khiêng súng đạn tới vị trí. Làm xong công sự trời đổ mưa dữ dội. Anh trung đội trưởng ra lệnh cấp tốc lấy chăn che làm bạt cho đạn khỏi ướt. Đạn để rải rác nhiều đống, lại cả ngòi máy cắt đạn. Anh trung đội trưởng đi xem chỗ bố trí của đội yểm trợ, còn chúng tôi lại thay nhau gác.

Mưa càng to, gió càng tạt mạnh, anh tiểu đội trưởng ra thăm đạn và kêu lên. “Nguy quá!” Hai chăn mà nước vẫn thấm, mọi người cuống cuồng vì đạn ướt thì đến sáng bắn làm sao được, chăn thì có mấy cái để phủ cả. Chỉ còn cách cởi trần ra lấy áo phủ. Năm anh yếu được miễn. Phủ xong áo, chúng tôi xúm xít vào nhau như đàn gà để mong được hơi ấm truyền từ người này sang người khác. Người có áo đứng ngoài thành vòng tròn che cho người không áo. Gió vẫn rít, mưa vẫn rơi. Ba tiếng sau, chúng tôi được lệnh sửa soạn bắn thì vừa lúc mưa bắt đầu ngớt hạt. Chúng tôi ai vào việc nấy; bỗng lại thấy anh tiểu đội trưởng kêu lên, cả đoàn xô đến anh. Anh đã ngã gục vì rét quá. Chúng tôi rút vắt nước đi đắp lên cho anh. Một lúc sau anh tỉnh lại và câu nói đầu tiên của anh là “rét không thể tả được”.

2 – DƯỚI BÈO

Trời rét buốt, anh trinh sát đi dò vị trí của địch phải nhảy xuống ao gần giặc, giấu mình dưới đám bè. Dù suýt chết giá dưới nước, anh cũng đem về được những điều bộ đội ta cần biết để đánh giặc. Dưới đây là lời anh kể:

“Nước giá buốt quá. Ướt đến đâu biết đến đấy. Tôi tưởng như có hàng ngàn, hàng ức mũi kim châm vào da thịt. Khi nước đến cổ. Hai tay cứ run rẫy quờ bờ phủ mặt, hở có mũi và mồm. Nhưng bây giờ thì cố nằm im. Rễ bèo man mác và êm êm vào cả kẽ mặt và lỗ mũi. Nước bùn đọng ở rễ từ từ theo dòng mắt tuôn vào miệng. Trước nó chỉ chườn qua môi rồi dần xuống má, xuống cổ nhưng bây giờ thì không giữ nổi nữa. Hàm răng cứ đập vào nhau cồm cộp. Dù có hãm mặc lòng. Và mỗi lần há miệng ra, nước bèo lại ồ vào. tôi không nhớ uống tất cả bao nhiêu ngụm nữa và không rõ hương vị thế nào?

Người tôi cứ lững lơ như ở một quãng không. Chả biết nó đã tê cứng hay đã chín trong khối nước lạnh rồi. Mới đầu tôi còn thấy buốt ngoài da sau lần lần da ngoài cũng mất. Hình như có một người lột da rồi cầm một tảng đá lướt từ sống lưng xuống đến ngực, đến bụng, khắp các thớ thịt. Và cứ thế, một lần lột lại một lần xoa đá. Khi đến lần cuối cùng, nghĩa là vòa đến tim phổi, các mạch máu tưởng đến ngưng lại được. Khổ nhất là mỗi lần có gió nổi lên. Mũi cứ như bị xẻo bớt thịt đi. Tệ hơn nữa là không đau nhói một cái. Sự đau cư tê dại dần; đi lê thê như không bao giờ hết. trong lúc khổ sở, tôi cố hình dung một cái gì để vững tinh thần”.

3 – MÙA XUÂN ĐÃ TỚI

Tôi nổ ba phát súng liền lên ổ súng địch đặt trên cửa sổ tầng gác nhà Lục lộ. Ba phát mất tích. Thằng Pháp cát két trắng nhấp nhô sau bị đất. Nó tìm. Phát súng thứ tư, từ nòng khẩu khai hậu của tôi trúng ngay vào bị đất đó, bụi mù. Nhưng thằng Pháp đã tìm thấy tôi rồi. Nó liền trút một tràng. Nó bắn khá lắm. Lỗ bắn của tôi sát mặt đất, rộng một viên gạch, thế mà cách ba trăm thước nó bắn trúng lỗ. Tôi bị đạn vào mắt tóe đỏ lòm. Cả một câu chuyện dài trên đây để đưa tôi vào trạm, cứu thương khu. Tôi kính mời các bạn cùng tôi vào thăm cái nơi yên lặng mà chúng ta bước tới, với một mối cảm động rưng rưng và kính cẩn.... Tôi mang một cái mặt đỏ lòm vào cái cửa “nhà thương du kích” này thì một chị đã vội vàng chạy ra đón tôi. Chị tưởng tôi bị thương nặng. Nhưng tôi từ chối sự ân cần.

– Thưa chị, tôi bị đạn vào mắt, không đau lắm nhưng máu chảy nhiều, chị xem cho.

Tôi ngồi xuống ghế. Ê te dội lên vết thương máu cầm và sạch. Tôi bị mảnh đạn đum đum vào mắt. Mảnh đạn được bác sĩ gắp ra và tôi được băng bó. Chuyện chỉ có thế các đồng chí ạ. Nhưng… có cái lạ này….

– Không việc gì anh ạ. Ba hôm nữa anh sẽ khỏi, vết thương nhẹ không thôi mà. Ấy anh ngồi yên, tôi băng bó thật tốt cho anh ra trận ngay bây giờ cũng được. Nhưng đừng ra vội nhé… ở nhà tịnh dưỡng vài hôm đã. Anh hút thuốc không? Chúng tôi bận cả ngày mãi hôm qua mới ra được Hàng Buồm mà chả biết mua gì, mua luôn gói thuốc lá cho các anh hút.

Tôi cảm động quá các anh ạ. Tôi ngồi yên. Băng vải nõn luôn lượn nhảy trên mắt tôi, quanh đầu tôi. Chị cứu thương nói nhiều, nói nhiều. Mà tôi thì loáng thoáng nghe, câu được câu chăng. Vì trời ơi! Tôi đương mơ một cái gì xanh tươi như cỏ cây, cái gì trong sáng như ánh mặt trời trên làn nước phẳng. Gió mát phương Nam thổi đâu đây và có tiếng hát êm lạ và hay lạ. Mùa xuân, mùa xuân dịu dàng tươi sáng, luôn líu lo trên cành.

Trích báo “Chiến Thắng”

Tiết 7

ĐÌNH QUANG

Tiểu Sử.

Tác giả Bàn Tay thuật lại câu chuyện một anh thương binh mất bàn tay. Tả lại tâm trạng của một chiến sĩ kháng chiến cụt tay, hình tượng thèm khát một bàn tay mà biết bao nhiêu người đến thăm đều không mang lại cho chiến sĩ một bàn tay. Tản văn trích dưới đây đăng trong báo Trung đoàn 77, là một trong những truyện hay nhất của chiến sĩ văn. Người đọc thử hình dung một chiến sĩ cụt tay mong muốn đến độ nào: “Hôm nay các mẹ có đem đến cho một bàn tay đâu? Chỉ có một bàn tay, có lẽ họ cũng biết thế nhưng Không bao giờ họ dám bàn đến nó. Tôi thấy nó, chiếc bàn tay nát rời, ở khắp nơi, mọi nơi...”

Thật đã đạt được độ rung cảm cao, sâu sắc, thâm trầm. Hình tượng ấy nếu không là một người đã sống giữa lòng cách mệnh, giữa trái tim của họng súng, giữa tâm hồn; làm sao diễn tả được sự mong muốn vô cùng giản dị của thương binh cần một bàn tay. Cho đến cả: “anh vụt giơ tay cao lên. Anh ngưng nói. Một lát đưa chỗ thương mới khỏi xuống sát mặt, anh thở dài đút nó vào túi áo. Đâu cũng có nó nhưng không bao giờ được cầm lấy nó, đỡ lấy một chút hơi nóng của nó truyền ra. Anh ơi thế này mới bực chứ anh xem đây này" còn bao nhiêu thái độ, động tác nữa. Ý nghĩ mà chính là nạn nhân không bộc lộ diễn tả, dù nhà văn tài ba đến đâu cũng khó tưởng tượng nổi, từ thái độ con ruồi đậu mà không phủi được, hay bâng khuâng trong giấc mộng; khi gặp bàn tay nát về với mình.

Nếu cuộc sống là đề tài cần thiết để làm bối cảnh cho tác phẩm; Đình Quang đã trả lời rõ rệt qua một truyện hay tột độ Bàn Tay. Ngoài giá trị đề cao chiến đấu còn nói lên tính nhân bản một cách tha thiết, chỉ nói riêng đến khía cạnh thương binh.

BÀN TAY

Lúc ấy tôi không kịp biết đau, cũng không kịp nghĩ gì nhiều nữa. Tôi man mác một nỗi tiếc có bao giờ tôi còn có thể tìm thấy nó nữa… Trời! Chiếc bàn tay tôi cụt, máu phụt ra, bắn vào lòng bàn tay trái một vật cứng. Máu ra mãi, người tôi yếu dần, mắt tôi mờ đi tôi còn nghe như có một tiếng lựu đạn thứ hai nữa, tôi ngã xuống, thế rồi…

Tiếng cười bạn thương binh trầm trầm, ẩm và ướt hơn, trong phòng tiếng ngáy đều đều. Anh khẽ chống khuỷu tay, xoay mình sang phía tường. Ánh sáng sao lạnh lẽo tỏa trên mảnh vườn trước nhà. Anh nằm cong úp thìa hai tay ôm màng tai anh, anh muốn giấu hai giọt nước mắt đọng ở thái dương.

– Thế rồi anh có biết không, sau hơn nửa ngày mê mệt với những cơn ác mộng, tôi tỉnh lại nhìn xung quanh tối om, tiếng đồng hồ đâu đâu buông hai tiếng gọn.

Đêm về khuya đã lâu rồi. Không có một tiếng động. Tối quá anh ơi tôi muốn tìm chút ánh sáng mà không được. Tôi sợ cái màu đen của giấc mơ lắm rồi. Giá khi đó cũng có anh nằm bên tôi như bây giờ này thì tôi cũng đủ thấy đời đáng quý. Tôi nhìn mãi, ráng nhìn về phía dưới chân ngọn đèn bệnh xá lọc qua bao lần màn đen đến chỗ tôi chỉ còn là tia yếu ớt. Tôi muốn ngửng đầu lên co chân lại gọi lên một tiếng, nhưng không được, óc tôi cũng không đủ nhớ rõ, dù là một hình bóng. Đau đớn thế là cùng! Mai mỉa thế là cùng! Tôi khóc, anh đừng cười tôi nhé, tôi khóc thật anh ạ, tôi chưa bao giờ khóc nhiều hơn thế, tôi đau đớn hơn khi bố mẹ tôi chết cái buồn tử biệt ấy nó có thể quên dần được khi người ta không bị xáo động nắm tro lạnh ở trong lòng. Nhưng mà bàn tay nó ám ảnh tôi mãi tôi có quyền có nó như tất cả mọi người khác cơ mà, anh có nhận như thế không? Thế mà tôi đã mất nó, đã mất rồi …

Những ngày nằm liệt ở bệnh xá, là một chuỗi ngày sống khắc khoải. Tất cả bác sĩ, các chị cứu thương, các bạn đồng ngũ, họ biết tôi buồn tủi lắm họ thương tôi, họ cố làm cho tôi vui, họ hát, họ hỏi chuyện, họ an ủi. Tôi biết thế, tôi gượng cười vì họ. Hàng ngày các mẹ đến thăm tôi, các mẹ muốn đem đến cho tôi sức sống náo nhiệt ở bên ngoài. Khổ! Họ hết sức đấy, họ làm hết cách cho tôi tươi lên rồi đấy, nhưng có bao giờ tôi nghe thấy: “Hôm nay các mẹ đem đến cho con một bàn tay đây ?” Chỉ một bàn tay có lẽ họ cũng biết thế nhưng không bao giờ họ dám bàn đến nó. Tôi thấy nó chiếc bàn tay nát rồi, ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Tôi thấy nó ở đình màn, trong nếp chăn, trên mặt chị hai, trong tà áo mẹ hiền, đâu cũng có nó. Anh vụt giơ tay cao cụt lên. Anh ngừng nói, một lát đưa chỗ thương mới khỏi xuống sát mặt, anh thở dài đút nó vào túi áo. Đâu cũng có nó nhưng không bao giờ được cầm lấy nó; đỡ lấy một chút hơi nóng của nó truyền ra. Anh ơi “... thế này mới bực nữa, anh xem đấy này …”.

Anh rút cánh tay đưa sang, đầu ống xương bắp thịt khẽ động đậy, miếng khâu còn lại vài đường xám nhạt. Anh cười gằn một trang, vùng ngồi dậy người loạng choạng. Tôi giơ vai cho anh dựa.

Không gì bực bằng tôi bị tù. Phải kể ra thì bị tù thật, tôi bị câu thúc một cánh tay. Gặp lúc ngứa bắp trên tay trái thì chỉ cười trừ thôi, cười như nắc nẻ đến khi các chị cứu thương sợ chạy hết rồi, thì đưa khăn lên mà lau má. Những đường gân tôi chưa bị liệt đâu, đường gân ngón trỏ ngón, tay cái, ngón út nữa đây này. Thỉnh thoảng tôi thoáng quên như bàn tay đang còn, tôi giơ ra bắt tay một người bạn, đường gân chuyển là lạ, thân thể mất thăng bằng xòe tay ra không được, nắm lại cũng không được, tôi bị như một sức mạnh nào bó chặt lấy tay, Chao ôi ! còn nhiều cái bực mình như thế nữa kể không hết ! Từ đó tôi mất cả hi vọng sau tôi nghĩ rằng tôi chỉ còn một tay, tôi phải làm việc gấp đôi để theo kịp những người khác, không thể dung túng những tư tưởng yếm thế đứng trên cái lụn bại để trông người khác tiến và có thế mới xứng đáng với bộ áo xanh này chứ anh nhỉ. Kể ra thì tôi cũng chưa đáng buồn lắm! Còn có người cụt hai tay, cái chân chết nữa cơ mà. Độc lập còn cần nhiều bàn tay rơi rụng anh đừng cho tôi là tự kiêu nhé, càng hi sinh nữa…

Tôi tập viết tay trái, làm việc tay trái, tập quên dần tay phải nhưng cũng có lúc sực nhớ đến nó, lúc giơ tay chào Quốc kỳ, đỡ lấy tờ mệnh lệnh chẳng hạn. Thế rồi đêm nay tôi thấy nó về gắn liền vào cổ tay, tôi không lầm đâu thật mà tôi không lầm : rõ ràng tôi cầm lấy nó hẳn hoi tôi đếm từng ngón sờ từng cái móng tôi mừng quá tôi lấy ngay bút viết một bức thư báo tin cho tất cả những người thân mến, thảo một bài báo đăng tin bàn tay đã trở về với thương binh. Tôi cầm mân mê nó mãi nắn bóp nó, bấu nó để giữ lại xúc giác. Tôi không thấy đau, tôi bấu mạnh nó vội vàng biến mất. Tôi giật mình tỉnh dậy thì thấy anh giựt tay lại chính tay đó là tay anh. Từ đó tôi không còn nhắm mắt được nữa, tôi ước mơ cứ kéo dài dài mãi để được sung sướng sống đầy đủ tứ chi như anh… như tất cả người khác, dù chỉ là một giấc mơ thôi…

Trích từ Tập san TRUNG ĐOÀN 77

ĐÌNH QUANG

Tiết 8

AN BÁ ĐẢM

Tiểu Sử.

Sự diễn đạt tình cảm qua tác phong sống mới của đoàn quân đi, là phản ảnh một trong những đề tài cách mạng. Đình Quang tả tình người sống động trong tâm hồn; thì An Bá Đảm tả cái sống động bên ngoài hình ảnh của đoàn quân lên đường mang theo lý tưởng chiến đấu cho dân tộc diễn biến qua nhiều thái độ hi sinh. Ý kiến của một chiến sĩ văn tuy bộc lộ có phần ít nghệ thuật, nhưng bao giờ cũng chân thành, Ở đoạn này chúng ta nhận định rằng rong hầu hết tác phẩm của chiến sĩ văn là chép đúng sự vật, như một máy ảnh chộp đúng khách quan, và ảnh đẹp hay xấu là tùy theo máy tốt xấu: "Anh đại đội trưởng luôn luôn thúc giục thế mà hàng ngũ vẫn sộc sệch. Nghĩ mãi mới tìm ra cách động viên anh mỉm cười:

“Gần đến phủ lị đấy nhé. Đi đứng cho hùng dũng, hát cho to lên “Bàn dân thiên hạ cười cho đấy”. Nghe đồn đây “chất Thủ đô tản cư về”.

Vui tươi thì có vui tươi, nhưng không tế nhị mà chỉ là một hình ảnh khám phá cái xấu của một cơ hội căn bản cần cho tiểu tiết phóng sự. Tuy nhiên mỗi mẩu đời ký sự gồm hai phần: hay và không hay hoặc chưa hay, mỗi người nhìn một khía cạnh chép lại… để ráp lại một cuốn phim dài đầy công lao trường kỳ kháng chiến dân tộc.

ĐOÀN QUÂN ĐI

Trời nắng chang chang. Đi một mạch gần hai chục cây số, anh nào anh ấy mệt nhoài, chân không buồn bước, mặt nóng bừng bừng khát nước khô cả cổ thở hổn hển : Dăm sáu anh yếu sức từ từ tụt hậu rồi xin phép ở lại sau, tinh thần như bị căng thẳng. Cái ba lô lúc mới đi nhẹ thế, bây giờ nặng như đá quẳng được đi thì khoan khoái con người quá. Những anh lém lỉnh nhất giờ cũng thực hành ngậm miệng chủ nghĩa. Anh đại đội trưởng luôn luôn thúc giục thế mà hàng ngũ vẫn xộc xệch. Nghĩ mãi mới tìm ra các động viên anh mỉm cười:

– Gần đến phủ lỵ đấy nhé! Đi cho hùng dũng, hát cho to lên “bàn dân thiên hạ cười cho đấy. Nghe đồn đây lắm “ chất Thủ đô” tản cư về.

Hành quân toàn đi ban đêm cả, ít được ngắm sơn thủy hữu tình chỉ thấy sương mù bao phủ, rừng núi lu bù.

Hành quân ban ngày tuy có cái hại là lộ bí mật quân sự nhưng có cái lợi là biểu dương được lực lượng vũ trang và anh em còn ngắm được cảnh lạ. Tuy chả non nước gì đâu, quân đội cách mạng chứ có phải ngày trước, nhưng không biết tại sau hễ có tí chất là anh em cứ thấy vui vui rồi sự hoạt động tự đâu nó phát ra. Gia đình có trẻ lắm lúc cũng bực mình, nhưng nhiều lúc vui cửa vui nhà ra phết? Ăn thịt cá mãi cũng chán, thỉnh thoảng điểm bữa rau cũng ngon miệng. Mô phạm nhiều rồi, dù có mở lòng phát huy một chút thanh niên tính cũng chẳng sao miễn là đừng quá trớn. Gãi đúng chỗ ngứa, các Vệ tươi ngay mặt lên, chuyện nở như ngô rang hai ba anh láu lỉnh nháy nhau: “thủ đoạn chính trị viên đấy nhé”. Sau khi chỉnh đốn lại hàng ngũ đoàn quân hùng dũng bước theo nhịp đếm của anh đại đội trưởng. Bài chiến sĩ ca được thét vang lên. Nghe thấy tiếng gáy, hơn hai chục em nhi đồng nhi nữ trong phố chạy ùa ra, vô tay reo: “A các anh bộ đội. Ra mà xem chúng mày ơi. Lắm súng quá!” Đoàn quân từ từ tiến vào hai hàng phố đổ ra nhìn. Mấy ngọc nữ dăm Súy Vân, Súy Kiều tóc thề đã chấm ngang vai, áo trắng, quần thâm kiểu đời sống mới, cười trầm trồ khen các anh ấy khỏe nhỉ. Họ nhà Vệ mở từng khúc một lòng cứ cồn cồn như sóng nước sông Lô, nhưng mặt lạnh như tiên, mắt nhìn thẳng rầm rộ hát, bụi cát bay mù mịt cho đến khi qua phố độ nửa cây số, không biết tại sao phong trào hấp dẫn cứ thấp dần rồi đét một cái sụt hẳn. Đêm càng khuya, sương rơi càng nặng hạt, gió thổi càng lộng. Đoàn quân ma cứ im lìm từ từ tiến, lúc ẩn, lúc hiện, lúc chập chờn theo ánh sáng của mặt trăng. Mấy tiếng chim kêu đi kiếm mồi đêm. Vài tiếng chó sủa và xa xa một ánh đèn le lói, chỉ có thế thôi. Cảnh vật đều im lặng như tờ.

Trời rét ngọt. Họ suýt soa giở chăn ra khoác. Người nọ nối đuôi người kia, đi ngoằng ngoèo như con rắn dài. Chốc chốc, một tiếng còi mồm báo hiệu. Họ ngồi sụp xuống vệ đường mắt nhìn trước nhìn sau rồi lại tiếp tục đi. Vài anh lại bắt đầu thúng thắng ho và ngáp vặt. Họ muốn nói chuyện cho đỡ buồn ngủ nhưng ác quá hành quân ban đêm mà nói chuyện là điều tối kỵ. Dăm sáu anh đi chậm lạch bạch chạy gắng đuổi kịp đoàn quân.

– Hố đấy nhé.

– Đi sao đứt quãng thế, nhanh lên.

– Tệ quá hỏa thực để nồi niêu lẻng kẻng cả.

Những câu thúc giục, truyền tin ngắn thỉnh thoảng thốt ra rồi im hẳn.

– Sao đứng lại thế cậu?

Một tiếng gió phều phào trả nhời: “Qua sông”. Được lệnh nghỉ, đoàn quân bỏ ba lô ra vuôn vai chia nhau từng tốp vào hàng nghỉ uống bát nước chè nóng, hoặc rít điếu thuốc lào, mua cái bánh hoặc quả chuối để lau dầu cho bộ máy. Cơm từ hai giờ làm gì kiến chẳng bò bụng tợn! Có anh ngồi xổm bên đường, đầu gục trên hai cánh tay hỏa tốc vài phút cho qua cơn ngái ngủ. Hơn hai chục vừa thuyền gỗ, thuyền nan luôn muốn thay đổi nhau chở đoàn quân qua sông. Sóng vỗ vào mạn thuyền kêu oằm oặp. Trăng lúc bấy giờ lại tỏ. Những con thuyền cứ qua lại vùn vụt trông đẹp mắt quá, giá ban ngày hát toang lên vài bài cho khoái con người, nhưng tối mới chết chứ lị, hát để ai nghe.

Mấy anh chàng tức cảnh sinh tình, nhè nhẹ đập báng súng khe khẽ hát bài Thủy quân ca. Đoàn thuyền cứ chở. Đoàn người cứ ùn ùn sang bờ bên kia

– Báo cáo anh sang hết cả rồi. Một tiếng truyền đanh thép: “Đi”.

Con rắn dài lê thê lại tiếp tục nhẫn nại bò. Những anh lái đò ngơ ngác nhìn theo tặc lưỡi:

– Chà lắm moóc chê quá. Đông ghê! Dễ có đến mấy nghìn. Chắc các anh ấy đi đột kích đâu hẳn. Trời rét mướt nghĩ ái ngại cho các anh ấy.

Có tiếng chửi đổng:

– Mẹ kiếp đêm nay Tây chết vô khối!

AN BÁ ĐẢM

Tiết 9

QUỐC CHÍNH

Tiểu Sử.

Sinh trưởng ở Thủ Đô và là một chiến sĩ văn nghệ sống trong đại đội 212 đóng ở ven đô Yên Duyên, đang sửa soạn được đưa lên Tây Bắc. Ông tả lại tâm trạng buổi sắp lên đường, như Hà Minh Tuân với Lên mặt trận. Tác phẩm nhỏ bé ấy bắt nguồn từ con đường miền xuôi lên rừng núi Sơn La. Đoạn văn dưới đây, tả tâm trạng anh em chiến sĩ sắp rời miền đồng bằng quen thuộc. Sự ngại ngần của phút lên đường ấy, nhất là mặt trận Tây Bắc là một điều dễ làm nản chí, rừng hiểm trở vô vàn khó khăn với chiến sĩ miền trung châu. Nhưng nhờ tinh thần cao để thắng trở ngại. Tản văn này diễn đạt chưa khéo, ở đoạn đầu tả hoang mang của chiến sĩ chưa xếp vào hệ thống suy cảm tiệm tiến, đoạn cuối điều động được chủ quan định tâm viết thoát và có một kết thúc lập ý cao.

LÊN SƠN LA

Ngày 30–1–47 , Ông tiểu đoàn trưởng Tuần Sơn vừa đổi tới tiểu đoàn 212 đông nam thành phố Hà Nội, hạ lệnh cho toàn thể cán bộ Đại và Trung đến Tiểu đoàn bộ khai hội giới thiệu và ấn định công tác mới. Trưa hôm đó toàn thể đã có mặt tại nhà trong làng Yên Duyên. Đại đội 15 với ông Xuân râu xồm, mặt đen, đeo Chiêu Hòa và mặc áo vét tông tô-pi-can. Đại K với ông Quốc Đảm ngổ ngáo. Đại 16 với ông Trang cao một thước tám mươi, bờ lu dông da và bát Mỹ, các cán bộ trung đội trẻ măng, sừng ngổ, súng lục lệch người tíu tít đùa, họ quên chết ư? Không, nhưng họ thích chết trong trận. Người ta không thể bảo rằng đó là những cán bộ quân đội vừa ở tăng xê sát địch về khai hội; nếu người ta chỉ nghe họ nói chuyện. Thế thật, họ nói chuyện cù Tây, họ chê nhau tử tế quá với các chị cứu thương, họ rủ nhau chết ha ha, đây là những con cưng của thời đại lạnh lùng vẩy súng. Một vài anh già đứng một góc nói chuyện về gia đình nhau; vẫn nhớ đến gia đình chứ có quên đâu – một anh say sưa tuyên bố: “Nhà tớ bị Tây giết hết rồi, có tin chắc chắn mẹ và ba chị em bị cháy thui ở Lò Đúc nhưng tớ giết được bẩy thằng Tây ở Bát Tơ, xét ra vẫn lợi mà độc lập rồi khối người nhận tớ làm con nuôi”.

Khai hội được nửa chừng, giây nói bộ Chỉ huy trung đoàn gọi và hạ lệnh 212 cấp tốc sửa soạn cả tiểu đoàn ngày mai đi Suối Rút. Tin đến như tiếng nổ của quả bom bay; toàn thể hội nghị lặng yên ngơ ngác. Ừ thì giá bảo đổi đi mặt trận phía Tây hay bắc Hà Nội, hay cùng lắm toàn tiểu đội xung phong vào tận thành Cửa Đông không làm cho anh em lạ bằng tin đi Suối Rút. Suối Rút hay suýt ra lắm nhỉ, có lẽ toàn thể chưa ai có đến người họ nào mà ở xa đến thế. Thế nhưng tất cả chỉ là trong hai phút vì bọn này đều quen phớt lạnh cả rồi. Anh tiểu đoàn trưởng lên tiếng:

– Chắc là chúng ta đi Sơn La vì tôi nghe nói trên ấy mặt trận nặng. Các đồng chí không lo đâu tôi ở Sầm Nứa về Sơn La, Sầm Nứa đều tốt cả, hơi độc một tí thôi.

Anh nói thế để anh em yên tâm một chút nhưng chính anh em không lo nữa, đời thằng lính thì những chia ly, những thay đổi, những què quặt cả đến chết chóc nữa có ra mùi gì. Tình thần anh em chắc chỉ là bị giao động mạnh vì tin đi đến đột ngột giữa lúc anh em đang bàn về kế hoạch đánh ở Thủ đô. Khai hội chuyển sang bàn về chuẩn bị đi lại sôi nổi như cũ. Sau khi quyết định xong kế hoạch hội nghị giải tán. Trang và Xuân kéo Quốc Đảm ra một xó, hội qua kinh nghiệm đánh rừng Đông Triều, các trung đội trưởng bàn tán, toàn thể đều lo mà cái lo chung là không biết đánh ử rừng có khó không? Sau đấy họ phân tán về nơi đóng quân, Quốc Đảm còn dặn với:

– Này các cậu nhớ nhé; chớ có bố trí rừng gianh nó đốt thì chết đấy. Mà có người cưỡi ngựa đi chợ thì phải xắt tỏi đầy mũi ngựa nhé, còn các cậu phải ăn tỏi vào hổ nó mới sợ (19).

Họ còn dặn nhau về trữ ký ninh vàng và xin màn.

Bọn đại đội 16 kéo thêm con đê Thanh Trì về vị trí sát địch. Đi trên đê cảnh sông Hồng Hà êm ả, trời về chiều mây vẫn tím, xa xa dãy núi Ba Vì hiện rõ. Họ lặng thinh đi cạnh nhau, mỗi người nặng một ý nghĩ. Anh đại đội trưởng nhìn vê phía thành phố Hà Nội. Hà Nội còn bốc khối, ngày mai anh xa Hà Nội, nơi chôn rau cắt rốn, xa Hà Nội để đi xa lắm; đi về phía Tây Nam Hà Nội tít mù. Anh chỉ dám nghĩ đến thế vì: anh quay lại thấy các trung đội của anh cũng tư lự như luyến tiếc những đống gạch vụn giây máu của Thủ Đô anh dũng, anh phải xua họ lên sự thực một sự thực mà vài giây trước đây anh cũng đã quên. Anh dối lòng một chút:

– Này đồng chí Thanh Tùng, đồng chí có thấy khoái không? Tôi thấy đánh mãi ở một mặt trận cũng buồn, cứ cho đi đây đi đó mãi, mỗi nơi một vài tháng thế mà thú, rồi khối kinh nghiệm, già dặn lên đấy nhé. Mấy lại anh tiểu đoàn trưởng trên ấy về mà khỏe gớm nhỉ?

Bị gọi khỏi cơn mộng, anh trung đội trưởng Thanh Tùng luống cuống mỉm cười mà không đáp. Anh trung đội Tư Hải thắc mắc:

– Anh Trang ạ, sao trên ấy lại lấy 212 đi anh nhỉ, từ Hà Nội lên mặt trận Suối Rút?

Biết ý anh này ngại ngần, anh Trang đánh luôn vào tâm lý ưa phỉnh của tuổi trẻ:

– Ờ thế đồng chí không nhớ là Quốc Phòng chọn cơ mà, chắc là trên ấy nặng nề nên phải đến 212 ra tay chứ.

Từ Hải thích quá, phởn, cười to:

– Vâng, oai thật đấy anh nhỉ, Chính đổi về đại đội 16 mình đấy nhé.

Không muốn để Từ Hải lên điều, anh Trang phá lên cười lấp. Còn anh trung đội trưởng Tuất từ nãy vẫn điềm tĩnh, vốn tính anh điềm tĩnh cười theo.

Sáng hôm sau tiểu đoàn 77 từ hậu tuyến lên thay thế vị trí cho 212. Hai đại đội 11 và 15 đã đi trước về Văn Điển địa điểm tập trung của tiểu đoàn. Đại 16 vì đóng rải rác nhiều làng nên sự đổi chuyển chậm mà nhất là sáng nay bên phía địch có nhiều hoạt động đáng nghi. Đại đội bộ đã sửa soạn xong và đã theo anh chính trị viên về Yên Duyên trước. Máy chữ trên vai, cặp giấy ở tay, những chàng lính bàn giấy học sinh trẻ măng vừa đi vừa hát. Anh em nhờ sự giải thích của anh chính trị viên nên lấy việc đi làm thú, việc gì đã do lệnh trên thì không những anh em phục tùng mà lập tức còn cố tìm cái thú của nó để mà thú cơ mà, anh em thường nói : “Trong cái khổ nào cũng có cái sướng, mà trong cái sướng nào cũng có cái khổ”. Anh em đã được nghe nhiều chuyện về rừng thiêng nước độc, sốt rét, ngã nước… không những thế mà anh em toàn sinh trưởng Thủ đô làm lính Thủ đô, ăn nước máy, ngủ quạt điện, nằm màn tuyn, đến nay tưởng tượng cái cảnh ba năm lính thú… anh em không ngại cho đời sống thay đổi một cách quá nhanh, nhưng trái lại ý nghĩ lớn nhất xâm chiếm đầu óc bọn người trẻ mạnh ấy lại là : cái vinh dự được chọn lọc. Gần chiều toàn Đại 16 lục tục về Văn Điển vào đình làng, ở đây hai đại 14 và 15 đã tập hợp. Các ban nhân sự tới tấp làm việc, tiếng máy chữ rào rào, trong nhà dưới ánh đèn dầu lạc che lờ mờ. Các ban quân khí kiểm điểm súng đạn, phát thêm vũ khí. Các thư ký chạy lung tung lấy danh sách. Đại 16 khéo vào sân ,chỉnh đốn hàng ngũ trong một khu đã dành sẵn. Anh đại đội trưởng kiểm số và báo cáo ông tiểu đoàn trưởng – ông này đăm đăm nét mặt trẻ măng trước đoàn quân, ông bận quá, ngày hôm nay ông không bận nghiên cứu kế hoạch đánh – mà lại bận ký giấy, bận giải quyết việc linh tinh các văn phòng báo cáo và nhất là ông bận giải quyết những báo cáo xin đi. Có những anh gầy béo, khẩu Anh-đô-xi-noa mang trên vai dài chấm gót lạch bạch đuổi theo từ mặt trận về để xin đi Sơn La. Sao họ không sợ Sơn La nhỉ ? Vâng, thưa anh họ không sợ Sơn La thật, vì dù Sơn La hay Văn Bú cũng là đất Việt Nam cơ mà.

– Thưa anh, anh cho cả đại đội đi mà anh nỡ để em lại.

Những người ở lại báo cáo và khóc rơm rớm. Ông tiểu đoàn trưởng trả lời:

– Không đồng chí ạ, lên trên ấy vất vả, núi non hiểm trở, vì vậy phải để đồng chí lại, lên lại ốm thì khổ. Đánh ở Hà Nội cũng thế thôi, quay về đi.

Họ quay về vậy, quay về sau khi lại ôm vài người bạn thân hơn, ngửi để nhớ lấy hơi, hơi yêu quý, hôi hôi thơm thơm của những người bạn trai cùng nằm trong một lỗ đất, họ mở ba lô móc moi tìm lấy mấy viên thuốc lọ dầu tặng kẻ đi xa đường ngược. Họ đổi quần áo bền tốt cho người lên đường, còn họ…

– Thôi mình đổi cả cho cậu bộ quần áo này đây đi rừng đỡ rách nhé, cậu cởi bộ quần áo ra đưa mình ở dưới xuôi không cần.

– Thì cứ cởi ra, về người ta giặt được mà lỵ. Thế là cởi truồng trong góc sân tối để đổi quần áo.

QUỐC CHÍNH

Tiết 10

NGUYỄN XUÂN HÒE

Tiểu Sử.

Cũng là một trong trung đoàn 97. Tác giả tản văn Quà Tết của cô Thảo, đăng trong bích báo Lưỡi Lê xuất bản ở Việt Bắc, nghĩa là sau khi trung đoàn này đổi tên khi lên mặt trận Tây Bắc. Ông tả lại một tình ý ở hậu phương tiếp vận quà cho tinh thần anh em quân đội tiền phương ở mặt trận Sơn La. Ở hậu phương, cô Thảo đề xướng lên cuộc thu góp quà bánh gửi cho anh em bộ đội Sơn La. Tâm trạng cô Thảo, tác giả diễn đạt rất nhẹ nhàng, đôi khi sôi nổi, và lòng yêu thương chiến sĩ vô biên. Sau khi đã thu góp được một số quà, bánh, cô đi mua mảnh lụa “sát si” thêu tặng chiến sĩ.

Trong buổi giao tranh, một chiến sĩ cướp được súng của giặc, được anh đội trưởng trao tặng thêm chiếc khăn tay của cô Thảo. Người chiến sĩ ấy mừng mừng, tủi tủi và cố gắng nguyện chiến đấu hết lòng cho xứ sở. Thì một buổi kia, gã được thưởng chiếc khăn tay cô Thảo bị thương ở tay, vì gã biết chiến đấu hết lòng cho độc lập nên can đảm xung phong vào phòng tuyến địch. Gã bị thương, gã dùng chiếc khăn tay băng bó. Gã thầm nhủ, giá người cho gã khăn tay biết nỗi niềm này !

Một câu truyện rất thường, nhưng Nguyễn Xuân Hòe tả lại qua một bút pháp nghệ thuật chững chạc, từ trạng thái nho nhỏ đến những thái độ tế nhị, rung cảm một chiến sĩ nổi bật hẳn lên khiến cho người đọc vui buồn theo tác giả. Một truyện hay ; linh động của chiến sĩ văn tài năng.

QUÀ TẾT CỦA CÔ THẢO

Năm ngoái, quà Tết của đồng bào Hòa Bình gửi lên Sơn La nhiều quá! Nhất là cái khoản khăn tay thì như bươm bướm vỡ tổ. Thôi thì đủ các hạng cái bằng lụa, cái bằng vải, cái trắng, cái phơn phớt mỡ gà đẹp quá ! Cái nào cũng thêu quanh bốn mép có chữ ở góc. Chữ rằng: “Em thêu tặng chiến sĩ Sơn La”. Nào cô Thu, cô Nguyệt, cô Xói, cô Mai ; nổi quá ! Khi quà tới nơi, anh em trông thấy cái nào cũng muốn lấy. Lại còn thư nữa chứ. Thư chúc Tết vui vẻ. Có cái viết: “em có lời hỏi thăm, em là phụ nữ cứu quốc Hòa Bình… chúc các anh mạnh khỏe để đánh Tây”. Cảm động quá, cảm động nghĩ rơi nước mắt. Lại có cả nữ thi sĩ tặng bài thơ không riêng cho ai tuy có vài chỗ lủng củng nhưng mà ai cũng muốn đọc.

Giận cho cô Thảo quá. Cô ấy thế mà cứ lo sốt vó, sợ quà của mình rơi mất. Quà Tết là ý tình của hậu phương, làm sao đánh rơi ý tình ấy !

Trong cuộc khai hội cuối năm họ tập hợp trong đình Thượng thảo luận về mục gửi quà Tết cho chiến sĩ. Kịch liệt lắm. Cô Thảo có ý kiến:

– Em xin có ý kiến ạ. Nghĩa là anh em bộ đội hy sinh chiến đấu cho Tổ Quốc được hoàn toàn độc lập – Thì chúng ta phải tăng gia sản xuất đoàn kết thân ái. Em xin tặng một chiếc mùi soa và một cân kẹo sừu. Xin có ý kiến thế là hết ạ.

Họ vỗ tay đen đét. Hoan hô sự ủng hộ đầu tiên của cô Thảo. Cuộc thảo luận gay go thêm, kẻ ủng hộ cái nọ, người ủng hộ cái kia. Ai cũng muốn cho quà của mình có thể gọi là khá. Nhưng chẳng biết đâu cô Thảo hứa là làm ngay, để chậm lúc lỡ tập trung quà lại không kịp. Khi giải tán cô mua luôn miếng lụa mỡ gà. Bảo rằng lụa “sát si” hàng “Bôm bay” cơ đấy. Cô ướm thử con chỉ đỏ lên trên. Chao ôi ! sao mà nổi thế ! Nổi như bèo ấy. Cô đem về thêu: “em tặng anh chiến sĩ Sơn La”. Còn tên cô thì thêu to hơn xong đâu vào đấy cô mát cả lòng cả ruột. Hôm hai mươi bảy, tháng chạp có một cuộc mít tinh đông lắm, hơn hai vạn người dự. Quà Tết thu lại được hơn mười bộ kể cả to nhỏ. Trưởng ban tuyên bố kết quả. Họ hoan hô náo nhiệt tệ. Cái đám thanh niên phiền lắm, vỗ tay đôm đốp như đập hộp pháo một lượt. Còn phụ nữ chưa bình đẳng được ở vấn đề vỗ tay. Nghe nó cứ đen đét như pháo tép cả ấy. Trẻ con thì nhộn. Thú vị cứ reo lên a a như đoàn ông kêu. Kín đáo hơn, ông già bà lão tủm tỉm, ý chừng các cự thấy họ đoàn kết với nhau nghĩ tới các con cụ đang chiến đấu thì các cụ thú. Có cười ra tiếng thì cũng hì hì một tí thôi. Quà Tết lên đến Sơn La thì không xảy ra chuyện gì mất mát cả, nhưng xảy ra một chuyện. Trận đánh cuối cùng năm ấy, gã vớ được một khẩu súng của địch. Gã được anh đại đội trưởng thưởng thêm cho một chiếc khăn tay của cô Thảo. Trông thấy nó đẹp và sạch sẽ quá phải chùi tay vào hai bên hông rồi mới dám cầm nhè nhẹ và cảm ơn anh đội trưởng. Chao ôi ! Mùi lụa thơm quá, khiến gã nhớ lại hồi còn nhỏ, mẹ gã may cho gã một chiếc áo mới. Gã tưởng tượng rồi cảm ơn thầm người nào tặng gã chiếc khăn tay. Lòng gã càng thêm phấn khởi. Trong một trận đánh đêm hôm mùng năm. Gã mặc cho đạn bay đạn nổ, xung phong chịu chết. Vì gã biết rằng đồng bào gã đang trông ở tay gã và anh em khác. Nhưng gã bị trúng đạn ở tay. Gã liền buộc bằng cái khăn của cô Thảo. Nếu cô Thảo biết thì sung sướng lắm nhỉ!

Trích từ báo Lưỡi Lê Trung Đoàn 97

NGUYỄN XUÂN HÒE

Tiết 11

AN

Tiểu Sử.

Tác giả tập truyện Bến Tắm Cháy là một chiến sĩ trong một đại đội đóng ở Cổ Vịt. Sinh hoạt của dân tản cư dựng ở khắp nẻo và đây là một hình ảnh của Cổ Vịt. Tác giả rất khéo khi diễn đạt nếp sống dân tản cư, ghi lại được một hình tượng của thời đầu khói lửa, dân cư bỏ làng mạc ra đi: “Trong phố đã có trẻ con mới đẻ. Đã có người già mới chết hàng phố tổ chức đưa đám, khênh đòn tang, viếng hoa. Dân phố đã quen hơi bén tiếng, thân nhau, tạm quên cảnh huống tạm thời”.

Và giặc khủng bố bỏ bom đốt phá. Cảnh tượng của sau giây phút tàn độc ấy, tác giả viết: “Cổ Vịt cháy. Dân phố toán loạn chạy ẩn vào các khe sâu, các khu rừng. Chiều đã nhạt mầu, người ta bước trên đóng tro còn đỏ lửa, than vãn cơ nghiệp bị thiêu hủy, không chạy được một chút gì. Một số người ngược lên Bắc, một số bồng con bế cái ngậm ngùi trở về vùng tạm chiếm…”

Và sự khủng bố của giặc chỉ là hành động nhất thời của một thái độ giội nước đổ lên tổ kiến. Vì sự nhẫn nại chiến đấu âm thầm của dân kháng chiến vẫn xây đắp âm thầm như kiến xây lại tổ: “ Trên đường về chúng đốt Bến Tắm. Lần này dân phố bình tĩnh hơn của cải không mất gì và mấy ngày sau một dãy phố khác lại dựng lên các khoảng đất cũ chừng năm trăm thước xích lại dưới những chòm cây. Đoạn phố mới ngày cứ dài mãi ra, đó thêm những đồng bào không chịu được cảnh áp bức của vùng tạm chiếm chạy lên…”

Sự bi quan của tác giả diễn đạt theo đúng hình ảnh con người hành động, cả theo giác quan. Như khi nói tới hình ảnh số đông đồng bào trở lại vùng tạm chiếm, chứng tỏ rằng tác giả tôn trọng hình ảnh thực tế, không sợ mất lập trường. Nhưng bao giờ chính nghĩa cũng thắng, lẽ bọn vô chính nghĩa là thực dân cướp nước không sớm thì muộn, chúng đều phải trả lại chỗ đứng cho nhược tiểu dân tộc.

BẾN TẮM CHÁY

Khoảng vừa một năm, chợ ở cách đây chừng cây số, trong một khu đồn điền. Chợ Cổ Vịt. Chợ dựng dưới bóng hai hàng thông cổ thụ. Dãy phố rộng thênh thang thẳng tắp. Những gian nhà cỏ xinh, rèm cửa xanh vàng của các tiệm giải khát, hàng hóa, vải lụa bày biện trong những tủ hoặc ngăn kính, dân tản cư lái buôn ở các chợ khác kéo tới tụ họp mua bán, ồn ào, ngựa xe đạp qua lại rộn rịp, gió nhẹ thổi bay tà áo mầu. Trong phố đã có trẻ con mới đẻ. Đã có người già mới chết hàng phố tổ chức đưa đám, khênh đòn tang, viếng hoa. Dân phố đã quen hơn bén tiếng thân nhau, tạm quên cảnh huống trợ thời. Họ rủ nhau gia nhập đoàn thể, làm phòng thông tin, mở lớp học bình dân học vụ, bàn nhau vào ủy ban quản trị. Người ta cố ở chật để nhường nhau một không gian nhà để khi tắt lửa tối đèn có nhau…

Thế rồi giặc tiến đánh, súng moóc chê trên đỉnh núi rót mãi đạn xuống dãy phố. Cổ Vịt cháy. Dân phố toán loạn chạy ẩn vào các khe sâu, các khu rừng. Chiều đã nhạt mầu, người ta kéo ra bước trên đám tro còn đỏ lửa, than vãn cơ nghiệp bị thiêu hủy, không chạy được một chút gì. Một số ngược lên Bắc, một số người bồng con bế cái ngậm ngùi trở về vùng tạm chiếm. “Thôi cũng đành liều”.

Việc gì phải xót xa tiếc của. Thoát được người là quý rồi. Còn người là còn của. Cho nó đốt cho nó phá. Chúng ta làm lại các phố khác lo gì. Nhất quyết theo chính phủ anh chị em ạ.

Mọi người ùa theo. hai tuần sau dân phố Cổ Vịt kéo đến một bên giòng suối. Người ta dựng lại một cái phố thật. Lại vẫn những mái cỏ xinh, rèm cửa xanh vàng. Lại buôn bán náo nhiệt. Rút kinh nghiệm lần trước, đồ đạc hàng hóa đều xếp gọn gàng để dễ chạy Tây. Mặt trận càng ngày càng lan rộng. Giặc lại bị tấn công. Đồng bào được báo trước sơ tán hết đồ đạc. Giặc đánh vùng rặng núi, trên đường về chúng đốt Bến Tắm. Lần này dân phố bình tĩnh hơn; của cải không mất gì và mấy ngày sau, một dãy phố khác lại dựng lên cách khoảng đất cũ chừng năm trăm thước xích lại dưới những chòm cây. Đoạn phố mới, ngày cứ dài mãi ra, đón thêm nhưng đồng bào không chịu được cảnh áp bức vùng tạm chiếm chạy lên. 19 – 8, Dân phố ăn mừng ngày Quốc Khánh. Cờ đỏ rực phố. Một người đương say sưa ôn kỷ niệm cũ. Hai chiếc phi cơ hung hãn chao tới liệng cánh hai ba vòng, trút xuống những băng đạn lửa dài. Bến Tắm cháy. Sáu người chết thiêu, tám người chết đạn, hơn hai chục người bị thương vào quân y viện, bình tĩnh họp mít tinh. Từng toán người vào rừng chặt gỗ xén trụi nhiều khoảng đồi gianh. Đàn ông, đàn bà, cụ già, em bé, vác gỗ về. Dân phố lại làm nhà, lại dựng chợ, đào hầm trú ẩn.

Ngoài đường ran lên những tiếng hát của đàn trẻ.

Người chủ tiệm giải khát treo tấm rèm vào khung cửa sổ tròn, vách đất vừa trát chưa ráo, ngắm nghía mãi màu lụa thiên thanh sóng bên mầu đất đỏ.

– Đời lại tươi!

AN

Tiết 12

LƯU HƯƠNG

Tiểu Sử.

Chiến sĩ văn Lưu Hương, tác giả truyện có hơi liêu trai Một cuộc rút lui thần kỳ, tả một trân giao chiến với Pháp ở Pháp Cổ, Thủy Nguyên, thuộc Liên khu Ba. Lưu Hương tả lại tỷ mỷ cảnh sống của ba nhân vật sống sót chống lại đoàn quân xâm lược trong núi đá vôi miền Thủy Nguyên. Qua mấy đêm trường chống đói, khát, lại lẩn lút. Một trong ba, An bị địch quân bắt được, còn Trung và Phương thoát nạn. Đêm cuối cùng, họ vượt qua sông trở về Thủy Nguyên, bà cụ già, mẹ bộ đội nấu cơm cho họ ăn. Ông diễn tả từng một cử chỉ rất nhỏ của sự xê dịch khó khăn trong cơn hoạn nạn độc nhất vô nhị. Tả sự rét mướt trong hang núi, Lưu Hương ghi lại thật tân kỳ của cảm giác những kẻ là chiến sĩ đã nếm mùi chua chát: “Chợt một cơn gió lạnh ào tới. Tưởng như có thể đánh gập đôi người lại được. Chúng tôi vừa thò lên đỉnh ngọn núi đã biết ngay mình bị lạc lối vì hướng Nam gì mà gió bấc lại đánh thẳng vào mặt. Và từ đấy gió bắt đầu hú từng hồi dài. Có lẽ đã lên cao lắm...”. Lưu Hương nghe tiếng đạn ca nông nhiều quá, đến nỗi ông cho rằng nó đã đánh võng vào tai và phản ứng của tiếng súng chỉ là dỗ một giấc ngủ: “Anh tính đánh nhau suốt ngày đêm, người bị hơi đạn đánh võng làm cho quá mệt. Ai đâm dạn với tiếng ca nông như dạn với tiếng em khóc đêm ở nhà. Ca nông tha hồ mà giã đò bên tai. Quá lắm thì cũng chỉ giật mình chồm dậy một cái, rồi lại nằm vật ngay xuống đánh thông một giấc”. Kinh nghiệm chiến đấu của An, Phương, Trung đã không còn là con lừa khi được vỗ về là báo hiệu thồ nặng, cho nên Lưu Hương đã góp vào kinh nghiệm chiến tranh thêm một định luật mới. Đây là đoạn tác giả tả Pháp và Ngụy binh dụ dỗ.. nếu nhẹ dạ là đưa đến cái chết vô cùng thảm hại: “Chúng tôi nghe rõ tiếng ngụy binh dụ dỗ: lên ngay đi: quan lớn băng bó cho. Đứa nào biết chữ Tây quan lớn cho làm bàn giấy…”. An vốn nóng tính lại vừa bị thương nên máu càng hăng. An chửi vung tí mẹt. Chúng nó chuyển dụ dỗ sang bằng một lô lựu đạn…” (.....) : “Bên ngoài ngụy binh lại càng đãnh mõ giục nhặng củ tỏi “lên đi! Lên ngay đi thì quan lớn tha chết cho. Các quan lớn biết hết rồi. Có ngay lên hay không ? Không quan lớn bắn chết.”

Nhưng kết quả ấy chỉ là một đòn vọt, cho nên ông đã lột mặt nạ của đòn não tủy ấy, mua kinh nghiệm cho anh em bộ đội chiến đấu: "cứ đứng ngoài chõ mõm vào cửa hang sủa nhặng thế thôi. Y như nó đã đánh hơi thấy mình”.

Khát nước đến nỗi phải đái cho nhau uống. Lưu Hương đưa chúng ta đến đoạn đời đấu tranh đau khổ tột độ, nhưng lý tưởng chiến đấu vẫn bừng lên khi hành động. Và nhu cầu vật chất đòi hỏi chỉ còn là phương tiện:

“Vậy trước khi leo lên, hẵng lam một cốc bia cho bốc máu. Trung đứng ì ạch như xi em, khốn nỗi chỉ lách tách được vài giọt. Vì khát đã mấy ngày giời rồi còn đâu nữa mà xi. Tôi san cho Trung tạm gọi là được nửa cốc”.

Và hành động cuối cùng đầy nước mắt mừng của tình quân dân nhất trí chống xâm lăng… và hình ảnh nào đẹp hơn là một bà cụ già nước mắt ràn rụa tưởng hai người bộ đội du kích đã chết; mà đêm nay còn được nghe tiếng họ gọi cửa. Rồi một phút, cầm ngay chiếc rá vo gạo nấu cơm cho họ ăn. Một cuộc rút lui thần kỳ của Lưu Hương viết như hơi văn Liêu trai; nhưng là một tập truyện vô cùng cảm động, đề cao lòng chiến đấu. Và còn là một kinh nghiệm chiến đấu với địch, một tỷ dụ của mức độ chịu đựng gian lao khi mắc nạn, cố gắng tạo hoàn cảnh nguy nan thành chiến thắng.

MỘT CUỘC RÚT LUI THẦN KỲ

(…) Chúng tôi vừa ra đến cửa hang. Một cơn gió lạnh thun thút luồn sau lưng. Tôi run lẩy bẩy đứng không vững. Mắt hoa lên vì ánh lửa chập chờn dưới chân núi. Nhưng rồi… chúng tôi cũng phải rón rén đi như làm việc. Bàn chân dò từng mô đá. Lần lần sang vách khác, bám cho chắc rồi mới dám đặt bước chân. Đứt liên lạc phen này thì thật chết. sau tôi chỉ còn có Trung chạy đèn đỏ. Chúng tôi là những người ở lại cuối cùng để bắn cầm canh ra ngoài hang. Phe yểm hộ cho anh em rút trước. Tôi rảo bước để cố đuổi kịp anh em. Lắm lúc chân bước hẫng một cái, tôi tưởng chừng người đến lao ngay xuống chân núi. Chợt tôi ôm chầm ngay lấy cái bóng đen. Thì trán tôi va đánh bốp một cái. Úi giời! Bẩy đom đóm mắt. Tôi ôm ghì lấy đá không thì đến lăn xuống núi mất.

Chỉ tại cậu Trung đi chậm quá. Một hòn đá lăn bong bong xuống núi. Thế là chúng nó bắn lên như mưa. Chúng tôi phải dán người vào vách đá. Đạn đi vun vút bên ngoài. Nhưng cái nghiệp chó nhà Thằng Lõ bao giờ cũng thế. Chỉ được cái dọa anh em thì mả lắm. Tôi đương đợi cho yên yên, Trung đã chộp được áo tôi. Anh chàng mừng quýnh. Chúng tôi cùng mò mẫm đi. Đá bắt đầu nổ lanh tanh dưới chân. Nghe đương vui tai thì có tiếng gọi trên đầu, không biết là anh chàng Trung đi thế nào lại ngồi được chòm chõm trên vách đầu vách đá tôi. Trung loay hoay không xuống được tôi phải đứng tựa vào vách đá, làm thang cho Trung xuống. Anh chàng vừa tụt xuống thì lại thấy một bàn chân đạp xuống đầu tôi. Lại cả An nữa kìa. An không quên đưa cả báng súng vào đầu tôi. Hự một cái. Nhưng gặp được An thôi thế là hết cả đau, thêm An đường đi sẽ gần lại. Chúng tôi leo. Người nóng đến bốc khói. Chợt một cơn gió lạnh ào tới. Tưởng như có thể đánh gập đôi người lại được. Chúng tôi vừa thò lên đỉnh ngọn núi đã biết ngay mình lạc lối: vì hướng Nam gì mà gió Bấc lại đánh thẳng vào mặt. Và từ đây gió bắt đầu hú từng hồi dài. Có lẽ đã lên cao lắm.

Sương xuống mênh mang. Một vài tiếng gà gáy dưới làng. Đạn phuy-dê bắt đầu vùn vụt lên đỏ lóe mắt. Rồi trọng pháo cũng gầm gừ từ phía đồn Mao Khê, Đông Triều và tận nơi nào xa lắm. Luồng đạn nó đi khoan gió vo vo. Tiếng nổ ầm ầm trong núi. Ca nông đến ngày thứ ba trong nắng sớm là đã không thành chuyện đối với chúng tôi. Anh tính, đánh nhau suốt ngày đêm, người bị hơi đạn đánh võng làm cho quá mệt. Tai đâm dạn với tiếng ca nông như dạn với em khóc đêm ở nhà. Ca nông tha hồ mà giã giò bên tai. Quá lắm thì cũng chỉ giật mình chồm dậy một cái rồi lại nằm vật ngay xuống, đánh thông một giấc. Bao giờ đến tua mình phải ra bố trí mới chịu dậy. Nhưng An và Trung thì mặc cho pháo lay trong núi. Xương muối tha hồ xuống đẫm người. Tiếng nổ vừa dứt đã thấy hai cậu ấy ngáy vo vo. Ngày đã hửng hửng lên. Sương càng mù mịt. Tôi đang thiu thỉu chợt giật mình. Tai áp ngay xuống sườn đá. Mỗi lúc một rõ tiếng giầy đinh. “Nó lên đến nơi rồi”. Tôi dựng ngay cổ An và Trung dậy. Đồng thời vơ luôn mấy khẩu súng rồi tuột ngay xuống vách đá. Còn xót lại ruột bao đạn, tôi vừa thò tay ra chưa kịp thì một thằng đen chùi chũi đã đứng ngay trước miệng súng của tôi. Nó đưa môi mắt trắng nhã nhìn quanh quẩn, chợt trông thấy bao đạn liền hô hoán ầm lên. Tôi lên đạn nó quay lại. Một phát hất nó lộn ra ngoài và tôi nhớ là lúc đó, người tuột xuống, tôi không còn biết gì nữa. Tôi nằm ép người đợi khói lựu đạn tan dần mới nhận ra An rên. Tôi ấn vội An vào một ngách đá. Trung kéo tôi lần vào sâu. Chúng tôi nghe rõ tiếng ngụy binh dụ dỗ: "Lên ngay, lên ngay đi! Quan lớn băng bó cho. Đứa nào biết chữ tây quan lớn cho làm bàn giấy”. An vốn tính nóng, lại vừa bị thương, nên máu càng hăng. An chửi vung tí mẹt? Chúng nó chuyển ngay sang dụ dỗ bằng một lô lựu đạn. Nếu đứng dưới mà chiến đấu thì thế nào cũng ăn lựu đạn của chúng nó. Tôi và Trung đành lên sâu vào ngách ngang, nằm gục đầu cổ thở qua lần vải áo. Trong vách chính đã bụi mù. Súng máy nổ ầm ầm. Hai thằng lõ và một thằng đen đã tụt xuống từ lúc nào. Giầy đinh kéo lạo xạo. Đá hất loảng soảng. Súng lục nổ dương đông kích tây luôn tay. Mồm chúng nó thét oang oang. Những khẩu súng” bát” cầm trong tay lại thi nhau không bắn mà cứ lẩy bẩy. Chúng tôi nằm trong ngách ngang không phải lo chết lại còn được một mẻ nhịn cười đến đứt hơi. Thật là đúng điệu bộ khí phách của những ông tướng Đại Pháp nhưng mà đi đôi với Đại Rát.

Cách chúng nó chừng hơn một sải tay, miệng súng của tôi đã đặt vào bụng một thằng. Tôi cho một viên "mút" nhẩy khe khẽ lên nòng. Trung gạt súng tôi ra cản lại. Tôi do dự vừa lúc một băng “tôm son” choảng vào loảng soảng. Trung đã vội vuốt mặt, vuốt tay xem có thấy máu. Chúng tôi nhìn nhau, lắc đầu cười. Đành phải lùi sang ngang nữa, tít tận vào trong vậy. Bên ngoài ngụy lại đánh mõ dục nhặng củ tỏi: "Lên đi, lên ngay đi thì quan lớn tha chết cho. Các quan lớn biết hết rồi. Có lên, có lên ngay không? Không quan lớn bắn chết”. Thêm vào đấy tiếng chửi của An toáng lên. An bị bắt rồi. Tiếng chúng nó đánh An huỳnh huỵch. Vẫn chỉ “có một mình bố mầy đó thôi thằng nào có giỏi cứ việc xuống”. Lúc đó tôi và Trung hai đứa sôi người lên được. Làm thế nào để cứu An ngay. Đã rơi vào tay của chúng nó thì thế nào cũng phải chết. Bàn chỉ còn cách bắt chợt lẻn ra ngoài bắn lung tung cho chúng nó toán loạn. Lợi dụng lúc đó để cứu An… Nhưng mà ai cõng An chạy trên núi này được?

Chúng tôi nằm bàn mãi cho đến khi trong hang đã tối hẳn. Đến lúc phải quyết định mở ra. Khỏi vừa hang, tôi trượt chân ngã, đèn bin bật tứ tung. Chúng nó đuổi mãi cho đến khi đèn chiếu lệch về hướng khác. Đạn cũng ngừng rít trên đầu. Trung mới níu tôi lại, ngồi phệt xuống, kêu khát và đòi nghỉ. Tôi phải cương quyết xách Trung dậy. Mới đi vài bước ngoảnh lại đã mất hút, không thấy Trung đâu. Đương bực mình vì phải lộn lại, giận không để đâu cho hết, tôi nghe thấy tiếng Trung đánh tiếng khe khẽ "Lại đây mà giải khát Phương ơi!". Tôi lò mò lại tìm. Trung đứng loay hoay nhét khăn mặt vào các khẽ đá để hút lấy nước. Rồi Trung vắt khăn ngửa mãi mồm ra hứng. Tôi không nỡ trách Trung nữa. Nhưng tôi giục càng gắt, phải sớm ra khỏi khe núi sớm được giờ này hay giờ ấy. Trung rủ tôi tha thiết quá. Tôi theo Trung đi ngắt những búp bong bóng đọng nước. Lang bạt hết khóm này lần sang khóm khác. Trong đêm tối chỉ còn nghe tiếng mút chùn chụt mà theo nhau. Gà chợt gáy dưới làng… Thôi chết. Sáng mất rồi. Chân tôi muốn chạy nhưng bước đi không vững. Đói lả người. Đúng như chúng tôi đã rút kinh nghiệm, mới sáng bảnh mắt ngụy binh đã nheo nhéo dưới chân: "Ra đi các quan lớn biết hết rồi. A! nó kia kìa! Có ra ngay không? Không, quan lớn bắn chết”. Cứ đứng ngoài chõ mõm vào cửa hang sủa nhắng thế thôi. Y như nó đã đánh hơi thấy mình mồn một. Chỉ còn có đợi mình. Anh nào non gan chui ra là hết đời. Nhưng được cái anh em “Lê Lợi” chúng tôi, chúng tôi đã đi guốc vào trong bụng chúng nó. Tôi ngồi nghĩ bụng: “Chúng mày còn đứng chõ mõm vào hang mà sủa, chứ chúng ông đã vắt chân lên cổ chúng mày”.

Thật là bảnh chọe trên một gốc si rậm, tận đỉnh vách thành cao hơn đầu Tây hai mươi thước. Cởi thắt lưng, cởi giải rút, xé quần, thôi thì tìm đủ các thứ giây để co cành si lại mà phủ kín lấy người. Thế là cứ yên chí ngồi bình chân như vại. Chỉ có cái “xuỵt” cấm nói. Nói là chó đen, chó vàng nó sủa ầm lên thì hết đường. Tôi và Trung ngồi: còn thêm một việc. Hết đưa súng lên ngắm từ cái đầu, những bộ ngực phanh trần đến cái lưng nhánh mồ hôi: rồi lại hạ súng xuống nhìn nhau đồng ý: “Đếch vào”. Để dành ra ngoài hãy hay. Ông với chúng mày còn gặp nhau nhiều. Phởn lên bây giờ thì hết đời đấy. Bên dưới chúng nó sủa chán ngồi nghiến răng nghiến lưỡi, bắn liên miên vào hang. Bắn cho tiếng súng quan nghe, rồi nháy nhau chuồn thẳng. Chúng nó đi khỏi. Chúng tôi hết trò để mà quên. Ngồi rảnh y như rằng lại khát. Sao mà khát khổ khát sở đến thế này. “Mẹ kiếp”. Giá lúc nãy có lấy nước ao, nước cống!

Ngưng chúng tôi đã chịu ngay thế nào? Để cho cu Trung cứ lèo nhèo mãi, anh em cũng lấy làm khổ tâm lắm. Phải cho chú mình cùng đi giải khát một cái mấy được.

– Này Trung ơi! Cứ theo bà cụ mình ra bến ô tô thì được một đôi giầy da láng oai ra phết. Mà chưa biết chừng có cả cốc kem hai xu. Thế mà mình nhất định không thèm đi: chỉ đòi nằng nặc một đôi guốc mộc. Cậu có biết để làm gì không? Để vào Đảng, mà điều kiện tối thiểu ngoài can trường không sợ đội xếp ra, còn phải có một đôi guốc mộc. Thế thì hai giờ vào lớp chiều. Mười hai giờ đã tụ tập ở bãi sân để phát động giờ: liệng guốc lên rào rào đấy. Cứ biết thằng nào thằng nấy tọng đầy cặp và hai túi. Để hôm nào vô phúc giữa giờ giảng bài. Anh em đương rì rào chia nhau thì ông giáo tóm ngay được dưới gậm bàn: một dĩa muối ớt toàn những là me xấu.

Thế rồi từng lúc chúng tôi xuỵt xoạt nhau im để được cười một mẻ như xì hơi bánh xe đạp. Trung cũng hứng lên kể huyên thuyên những chuyện giải khát đâu đâu. Trung đang vui nhộn. Nhưng Trung đã ỉu ngay: “Anh Phương ơi lấy đâu được ngụm nước bây giờ?” Thế là cái ỉu của Trung lép xẹp câu truyện. Thì lại khát. Từ đấy chẳng còn buồn nhìn nhau. Khôn một ai muốn nói nữa. Cái tình trạng bi đát kéo dài cho đến khi Trung quay lại xin tôi một mảnh giấy. Trung quấn thành một cái phễu. Tưởng để làm gì? Tôi không ngờ là để hứng nước… nước tiểu. Rồi Trung đưa lên một hớp. Hết. Vẻ mặt ngon lành như vừa nốc xong một cốc bia. Tôi nhìn Trung mà sợ. Không nhanh lên khéo Trung ăn cỏ mất. Rồi đêm lại đến… thêm một đêm nữa để đi. Mà đêm nào chúng tôi cũng nhủ thầm đêm nay phải vượt bằng được cái hình lờ mờ của chóp núi trước mặt kia! Nhưng đã mấy đêm và mấy ngày không được ngủ rồi. Chóp núi như lảng mãi ra để không bao giờ chúng tôi tới được. Vẫn phải leo thôi. Cỡ nào cũng leo. Giời rét căm mà mồ hôi lúc nào cũng đẫm áo. Ba lần chăn bọc bàn chân đã bương hết. Sương đêm thấm vào các kẽ lỗ, buốt đến nổi chưa đặt bước xuống đã muốn co rụt ngay cẳng lại. Đêm thứ ba chúng tôi đi được rất ít đã phải mò lên gốc si. Rét; đói khát, mà leo mãi, tôi và Trung đã kiệt sức. Hết nằm co quắp lấy nhau lại nhổm dậy, chúng tôi ngồi bên nhau. Gió cứ vạch cổ áo ra để bỏ tọt từng mảng nước đá xuống lưng. Rét chẳng ngủ được. Suốt đêm chỉ lục cục bàn tính. Cuối cùng, tôi và Trung đồng ý: xé ống quần ra lau súng cẩn thận. Để mai đợi chúng nó đến thật đông, bắn cho thật hả một trận cuối cùng. “Nhất định mai cứ thế chứ?” – “Thì còn làm hơn thế nào hơn được nữa?”.

Tôi còn nhỏm dậy hỏi Trung một lần cuối cùng trước khi nằm úp thìa vào lưng Trung. Rét quá. Không sao ngủ được. Tôi xoay người Trung cũng phải xoay. Mãi sau tối cố nằm im để Trung ngủ, Trung mới rón rén nhổm dậy để phủ chiếc áo trấn thủ lên đầu tôi, thật nhè nhẹ.

Tôi thú thực là đã bao nhiêu năm nay, những ngày sống ngang dọc trên bến Bình Đông. Lúc này tôi mới tin là mình còn nước mắt. Trung nhắc đến bao nhiêu tên bạn: “không biết lúc này các cậu ấy đâu rồi nhỉ?” Những kỷ niệm thú vị trong những buổi đi tìm Tây để đánh, Trung nhắc nhở liên miên: đến bà mẹ già hiền hậu, các em những thằng cháu nhỏ ở nhà. Những ngày cả huyện Thủy Nguyên kéo đo đào hàng mấy chục cây số đường giao thông hào. Ca nông vẫn nổ ầm bên kia sông. Hải Phòng… và những ngày mùa trên cánh đồng Thủy Nguyên, thi nhau đập lúa với các chị ấy. Nhất là những đôi mắt một mí, cái mũi dọc dừa của đất Thủy Nguyên thật là tuyệt vời!

Trung gợi lên cả một cuộc đời hoạt động nho nhỏ ngày ấy. Mới đầu thì tôi còn thấy buồn buồn, sau đâm ra sốt ruột, sốt ruột đến điên người lên đi được. Tôi kéo phăng Trung đứng lên. Nhưng đêm đã về sáng. Tôi và Trung đành phải sửa soạn. Súng gác lên cành si. Bao đạn để ngỏ. Và rung đùi ngồi đợi. Rung đùi đây không phải là ung dung. Rung đùi vì rét quá. Trung còn phải nhét rẻ đầy mồm, nhưng anh chàng vẫn ho lục cục trong cổ như con gà sống thiến. Nhưng, thật là phúc bẩy đời cho những thằng định lên đây hôm nay. Hai viên đạn mới nhất. À quên bốn viên cơ đấy. Vì đạn của anh em lâu ngày dầm mưa cũng nghi lắm. Bốn viên mới nhất mà tôi và Trung đã dặn nhau để cuối cùng: một hai… ba là cùng đoàng vào nhau. Tôi và Trung đành phải ôm hận bỏ chúng nó vào bao vậy. Thì ra đêm hôm trước chúng tôi đã mò gần đến chân vách của thành ngọn núi cuối cùng trước rồi mà không biết. Đến nay là đêm thứ tư. Còn một mẩu đường thì đến chân vách thành đã nhìn thấy rõ. Nhưng chúng tôi nằm ì ra không thiết gì nữa. May mà còn có hai đứa đi với nhau, hễ thấy nhau nằm ì ra lâu quá, y như rằng thế nào thằng nọ cũng nhỏm lên lôi cổ thằng kia dậy. Trung nhìn lên vách thành dựng đứng cao vút. Trung nắn bắp chân tay. Chúng tôi nhìn nhau cùng lắc đầu. Nhưng lại nghĩ đến bên kia là Trại Sơn, Pháp Cổ, là Bảng Trình và Thủy Nguyên. Là sống rồi, thế thì nhất định phải leo. Chúng tôi cảm thấy người bừng mạnh hẳn lên. Hoặc là sẽ lăn xuống chân núi cho nó chết hẳn đi. Nếu vượt được thì phải sống mãi. Để phen này về, nhất định diệt chúng nó ngay trong làng. Không bao giờ còn dại dột kéo nhau sang cái dãy núi đá khát chết người này nữa. Vậy trước khi leo, hẵng làm một cốc bia cho bốc máu. Trung đứng ì ạch như xi em, khốn nỗi chỉ lách tách được vài giọt. Vì khát đã mấy ngày rồi còn đâu nữa mà xi. Tôi san cho Trung tạm gọi là nửa cốc. Rồi người đã ấm áp tôi bắt đầu bám rễ xi lên trước, còn không quên ngoái cổ lại dặn Trung phải chịn mặt nhìn thẳng vào vách đá mà leo. Nhì xuống hoặc nhìn lên thì thế nào cũng toi mạng đấy. Thế rồi hai chân bấu vào vách đá, tôi với tay lên rễ si. Đây là lời Trung sau khi chúng tôi thoát cái trận gian lao này.

Tôi nghe thấy tiếng rễ cây bật trên đầu và tiếng kêu của Phương. Tôi biết mình chết đến nơi. Rồi sao mà lâu quá. Mãi chưa thất tới đất. Tôi mở mắt lơ mơ tỉnh. Xương sườn như gãy hết, tôi không dám sờ vào. Cũng không dám nhúc nhích không tin là mình còn sống thật. Một lúc lâu định thần rồi tôi mới biết mình đang nằm giữa một cây bòng bong. Và không biết đã từ lâu chưa, tiếng Phương gọi vẳng xuống. Tôi trả lời là còn sống nhưng đã gãy hết xương rồi. Không lên không xuống không đi đâu được nữa bụng thì nghĩ thế, nhưng đến khi Phương thúc: “Cố lên đến nơi” tôi lại thấy mình còn muốn sống quá. Tôi nhỏm ngay dậy, bám rễ si leo lên. Đến lúc hoa cả mắt tay sắp buông ra, lại thấy tiếng Phương thúc: “Cố lên, đưa tay đây” và “mấy lần cố lên, cố lên đưa tay đây” cho đến khi đưa nắm được Phương thật rồi. Tôi chẳng thấy Tây nào cả. Chúng tôi ôm lấy nhau. không còn biết nói thế nào. Mà sung sướng bao nhiêu, không còn thấy rét hay khát nữa. Dưới kia là Trại Sơn, là Pháp Cổ, là Bảng Trình và con đường chạy về Thủy Nguyên. Lách qua vị trí chúng nó thì thường lắm rồi, chúng tôi tự thấy mình không còn đủ sức để bơi. Vậy chỉ còn một việc là tìm cách sang sông. Thật là cái số chúng tôi chưa đến ngày tận, nên chiều hôm đó, nước lũ đánh rạt ở đâu về một chiếc nan.

Cả buổi chiều thấp thỏm ngồi đợi. Lắm lúc giật mình thon thót. Vì chúng nó thỉnh thoảng lại thập thò kéo nhau ra khỏi đồn điền Phúc Lai. Chỉ sợ chó chúng nó đánh hơi thấy có chiếc nan mang rạt về. Nhưng cũng là may suốt ngày chỉ có xe tăng lên xuống ầm ầm dốc đồn Pháp Cổ. Đêm hôm đó, dùng cành cây héo nan chúng tôi qua được sông Kinh Thầy tương đối cũng dễ dàng. Rồi vượt nổi khỏi vòng vây cuối cùng, chúng tôi vịn vào nhau lội bì bõm dưới ruộng. Hai đứa cùng có một cảm giác lạ lùng thật là đúng hai anh Mán lảo đảo về xuôi. Chúng tôi bị lạc trong hang Trại Sơn mãi đến quá nửa đêm mới đến nhà. Bà lão thấy tiếng gọi quen. Gióng ngái ngủ đưa ra: “Anh Trung ấy à. Để lão mở”. Nhưng đã xách đèn ra soi tận nơi vào mặt, bà lão ngơ ngác:

– Bà lão hỏi thế này không phải. Hai anh có phải là anh Trung anh Phương người Thủy Nguyên không?

– Vâng đúng là chúng con đây ạ. Con là Trung mà cụ vẫn lùi khoai cho con ăn đấy mà.

Hai hàm răng móm mém. Im lặng bà mẹ già của du kích Thủy Nguyên chúng tôi cặp rá lập cập lần xuống bếp.

LƯU HƯƠNG

Tiết 13

MINH TIỆP

Tiểu Sử.

Chiến sĩ Minh Tiệp nổi danh một thời khi thi bản Bức tranh sinh hoạt của ông ra mắt anh em bộ đội. Tả lại sinh hoạt đội, hòa nhịp với đời sống dân chúng, khi sống và tranh đấu trong kháng chiến tả lại qua thi bản trên, bùng bừng một sinh khí mới trong lứa trai vào thời khói lửa. Cách diễn tả dung dị, nhạc điệu rồi rào, tư tưởng thoát, lập ý cao. Lại còn phản ảnh nhân bản tính với người đồng chủng, ngoài ra vũ trụ tính “vạn vật nhất thể” rất thơ. Ông là một chiến sĩ thi có tài vượt bực.

BỨC TRANH SINH HOẠT

Trung đội anh đóng bên bờ suối trong

Gió núi mênh mông rạo rực lòng

Xóm xa

Rừng rậm!

Đình trơ vơ đứng trên đồi nắng

Vùm che hai chục mái đầu xanh

Cây lũy,

Tre thành!

Giường kê cánh cửa

Bàn ăn lát nứa

Câu đối dán đè khẩu hiệu xinh xinh

Thương dân nhà chật chội

Bạn anh đóng ở đình,

Chẳng tu cũng cơm muối

Cô gái Mán thương tình

– Biếu anh dẫy sắn để dành trên nương

Đây cái giếng mới đào

Cầu ván ghép thanh tao

Nước trong xanh leo lẻo

Sỏi rải lối đi vào

Vường hoang anh phá làm ba luống

Vọng gác làm cao vút mấy lèo

Đây chẳng tiện nuôi heo

Công đâu mà cám bèo!

Anh nuôi đàn mái ghẹ

Lúa mùa rụng tung tóe

Thả một lúc đầy diều

Lớn mau như người thổi

– Bao giờ xong hội “đua ganh

Gà quay một bữa thết anh tiệc mừng”

Mấy hôm liền đi rừng

Lấy cây mai cây trúc

Mũ nan đan vài chục

Anh em tạm đủ dùng

Áo anh đan sợi chỉ tay

Tùm xanh tùm tía như cây trên rừng.

Thằng Tây có mắt như bưng

Đố mày biết được cây rừng hay tao!

Mái đình nâu mục thủng

Tường xiêu cột lao đao

Dô ta anh em ơi mau dựng

Phên nứa chăng lên chắn gió vào

Chim ơi mày ở nơi nào?

Ví không có tổ thì vào ở chung

Đình hoang mấy độ thôi hương khói

Giờ hửng đôi chiều ngọn lửa rung

Hành lang mờ vết chân in lối

Nay ngự nghênh ngang súng mấy từng!

Anh từ đâu qua đâu mở hội?

Chờ giặc lên sương máu mở ăn mừng!

Tôi vun đàn gà ri

Tôi vun vườn rau cải

Bao giờ đông đến thu đi

Rau kia tôi hái gà ri làm lòng

Bữa cơm đoàn kết tôi mong

Bà con đến dự cho đông đình này.

Mong đêm mong tháng mong ngày

Mong mùa đông tới cho Tây nhảy dù

Cho tôi thực hiện thi đua

Băm vằm xác giặc, tắm mưa máu thù.

Này giặc đói, giặc thiếu

Này giặc ốm, giặc xâm lăng

Cha cha, vạn, ức, triệu!

Bao vây mình hung hăng!

Anh ơi! Tôi vẫn ngang tàng

Tôi bắn, tôi cuốc, tôi đan, tôi trồng.

Tôi ăn quả chín, tôi uống nước trong

Phên đan che lạnh gió đông thổi về

Rừng rung cây lá hoa muôn thuở

Chim hát vang vang nhạc vạn đời

Hàm răng cầm cập cơn sốt rét

Chăn gối, đèo cao, vắt, muỗi ruồi.

Nứa xanh tôi chặt làm nồi

Cành giang tôi vót làm đôi đũa ngà

Anh ơi! Tôi đóng ở đây

Phá hoang tập luyện chờ ngày giặc lên

Thi đua tôi quyết nêu tên

Cho vui trung đội, cho yên dạ này

Đêm đêm súng chẳng rời tay

Ngày ngày dao cuốc không giây phút rời

Giữ căn cứ địa làm nơi

Ngàn năm ghi mãi mẩu đời đấu tranh.

10 – 1948

MINH TIỆP

Tiết 14

Em PHÙNG

Tiểu Sử.

Gộp công vào kháng chiến, không phân biệt trẻ già, trai gái, em Phùng là Thiếu sinh quân chiến đấu bên cạnh các anh thanh niên, các chị phụ nữ.

Một Em Ngọc của Nguyễn Trinh Cơ là một mẫu người anh hùng hôm nay và ngày mai. Ở đây, một Phùng còn là thi sĩ ghi lại sinh hoạt trong "Bước đường công tác". Diễn đạt cuộc sống chiến đấu; đưa vào thơ, lối thơ ghi linh hoạt, sôi động (poème cinématographique); Minh Tiệp, Phùng đã thành công. Đọc bài thơ dưới đây để hiểu, cảm thông những bước chân bé nhỏ dắn dỏi lội khắp đồi, núi đất nước trong thời kỳ kháng chiến, mà đáng lẽ trong thời bình, họ là học sinh cắp sách đến trường. Khả năng thơ ở bước đầu đã vững; hẳn rằng thiên tài không chờ tuổi ở Phùng.

BƯỚC ĐƯỜNG CÔNG TÁC

Lời ai còn nhớ mãi

Lời ai còn bên tai

Lời ai còn vang dậy khúc đường dài

Lời ai khiến ta thêm dai nhịp bước

Tầu qua Yên Bái

Tầu đến Lào Cai

Rồi đỗ lại

Ồ kìa biên giới

Cờ hồng bay phấp phới

Ai đi Phố Lu

Ai rẽ Bắc Hà

Làm ơn nhắn hộ ta

Hỏi thăm đoàn Thiếu Sinh Quân

Qua Bắc Hà công tác

Đường Bắc Hà lác đác

Có bóng đoàn ta

Ngựa thồ đi xa

Rồi đến đoàn ta đều bước

Ai lên Mường Khương trước

Ai đã tới Cổng Giời

Nhắn hộ tôi

Rằng: Đoàn Thiếu Sinh Quân ngồi đợi

Hãy chờ tôi với

Hãy cho tôi theo cùng

Đoàn quân bé nhỏ oai hùng

Bước đi mạnh dạn chập chùng đồi nương

Trích báo Vệ Quốc Em Khu X

Em PHÙNG

Tiết 15

HÀ KHANG

Tiểu Sử.

Hà Khang là chiến sĩ văn Liên khu Bốn, phụ trách đặc biệt ở mạn Bình Trị Thiên. Tác giả nhiều thi bản mầu sắc địa phương, khiến chúng tôi nhớ đến Bùi Hiển ở ngày kháng chiến vừa nhận định ở trên, văn thơ là đoạn phim đời. Ở đây Hà Khang đã góp: "Có một mùa chiêm". Tả cảnh chiến đấu của người có bổn phận gìn giữ từng thước đất, từng ngọn lúa vàng khỏi rơi vào tay địch; được Hà Khang đưa vào thơ vô cùng linh diệu. Thơ Hà Khang mạnh, ý mới, kĩ thuật bình dị, nhưng không vì thế mà sơ sài.

CÓ MỘT MÙA CHIÊM

Rằng nghe Bình Trị Thiên

Mùa chiêm toàn lính gặt

Bữa cơm vội bên đèn

Ngờ ăn lầm máu giặc

Nắng đỏ chiều sông Gianh

Xương lam xa, màu lành núi Ngự

Lúa chiêm thơm làng tê xóm nớ

Lúa chiêm thơm mát nẻo sao rừng

Những đồng chí Đàng trong

Gặt xong bị đột kích

Đến sớm mai về, hai vai áo rách

Tôi làm lính Thanh

Điểm giờ đổi canh

Trao lại bạn đủ từng thước đất

– Đây có mùa chiêm lúa chín bồng bềnh

Ngoài khơi súng giặc bâng quơ tiếng

Người lính Thanh

Áo phanh trên bãi biển

Quỳ hai chân bên sóng mái đại đao

Biển Sơn bọt trắng cù lao

Hòn nọ vườn dao sóng biếc

Lắm kẻ đến nay ưa chém giết

Như Bình Trị Thiên

Có một mùa chiêm

Tiêu diệt địch ngay trên ruộng lúa

Con cháu ngày sau

Thấy đề trong sử sách

Có một mùa chiêm máu đọng đen ngòm

Chê hôi tanh bò để cỏ xanh um

Đôi bóng lính thay canh trên ruộng lúa

Chân vấp phải đầu lâu bên dứa dại

Mùa chiêm 1948

HÀ KHANG

Tiết 16

SIÊU HẢI

Tiểu Sử.

Tên thật Nguyễn Siêu Hải, sinh 1926, nguyên quán Hà Nội. Đã xuất bản Voi Đi (1949)...

Tác giả Voi Đi, ghi lại câu chuyện sự khó nhọc chuyển vận khí giới. Một câu chuyện không có gì mới, nhưng sự diễn tả và sống động trong cảnh chuyển vận được ghi lại thật linh động tuyệt độ cao của một trong những truyện kháng chiến hay "Voi Đi"; Bàn Tay Đình Quang, hoặc Một truyện rút lui thần kỳ của Lưu Hương

Qua các làng anh em chuyển vận khí giới khi mệt thì nghỉ chân. Nhưng phải bọc kín khí giới để tránh sự nhòm ngó, e lộ bí mật quân sự. Rồi anh em bèn nghĩ ra cách mượn trâu để kéo. Một bà chủ nhận lời ngay vì có con trâu bất kham. Khí giới đưa đến địa điểm, người dắt trâu ăn được mới một bữa cơm (một bữa cơm đàng hoàng nhất của bộ đội), ấy thế mà người lao động vẫn kêu. Tác giả dùng thể so sánh chưa thịnh soạn, báo hiệu cho người đọc nhìn thấy khía cạnh khổ ở độ cực kỳ khổ của bộ đội. Thêm vào đây, tác giả còn cho độc giả biết thêm vì quá khổ, ăn đói; nên anh em lao công kia phải đi ăn thêm trả chó, trước khi về.

Thái độ nho nhỏ như thế được Siêu Hải đưa vào trang văn, tỏ ra là chiến sĩ văn biết quan sát và quan sát sâu sắc. Thái độ chữa bệnh sầy da của trâu kéo khí giới, chữa bằng phân trâu non của chính nó, mua kinh nghiệm cho những ai chưa biết và với những người đã sống thực hành môn thuốc đó cảm thấy phục tác giả. Nhận xét về thái độ, rung cảm, phản ứng của sự ngỡ ngàng khi thấy anh em khiêng súng; tác giả cho người đọc nhìn thấy nếp sống của mỗi người nông thôn nhìn khác nhau. Chẳng hạn với anh thợ mộc sống khôn ngoan hơn cho rằng là bộ đội đi làm cầu đường. Người nông dân khác cho là một bộ phận máy bay, cầu mong nước nhà chóng có máy bay để trả thù Pháp độc quyền thả bom trong chiến tranh. Lập ý cao viết truyện này và thật hào hoa trong sáng.

VOI ĐI

Thấy để nguyên cả súng kéo đi không được nữa, anh đơn vị trưởng cho lệnh tháo rời ra từng bộ phận để khiêng vậy. Một cảm giác hãi hùng và thất vọng lướt thông qua mọi người. Anh em lặng lẽ tháo. Vài anh đội viên láu cá bám theo ngay cái lá chắn hoặc cái máng, bộ phận nhẹ, để được gánh đi trước. Còn cái nòng nặng nhất trở lại sau với hai mươi anh em, anh San và tôi. Tôi cho buộc đòn dọc, rồi đòn ngang “nào hai, ba, lên vai… ích…”. Cái nòng được nhắc lên khỏi mặt đất, nhưng đi một cách rất chậm. Anh em rất lúng túng, vì quả thật không có chỗ, chân dẫm vào nhau, vai cánh sít nhau. đi được vài thước đã ồn ồn:

– Ái đau quá, ối này, ôi thôi.

– Sao chả đi cho người ta đi!

– Hố thì đi thế nào được?

Thế là lại đặt phịch xuống. Mặt mũi vẫn còn nhăn nhó.

– Cái dây buộc ngắn thế này, làm gì chẳng chết vai người kia, buộc lại đi.

Anh Tân tiểu đội trưởng đứng đó nói thêm:

– Anh em buộc cho đều dây, chứ lệch là có người nhẹ không, có người sụm lưng đấy.

– Gớm tôi biết rồi ông nói trang mẹ.

– Chứ không ư. Thôi đi, cái máng có lẽ đến nơi rồi.

Nói xong lại lên vai đi. Được vài chục thước, lại đặt xuống để thở vì ngực bị nén xuống nhiều quá, khó thở. Đứng ra xa nhìn thấy bao cái mồm méo xệch, há hốc kêu oai oái, bao nét mặt nhăn nhó khi dẫm phải gai, bao cái lưng trông lom khom thật thảm hại. Nhất là lúc đó lại ở giữa hai bên núi cao chót vót, lau lá mọc chỉa ra tua tủa, sương đêm giỏ giọt mưa lún phún từ đêm chưa ngớt, không khí ướt át hơi thở ra phì phì càng thêm nặng.

Sức lao động tốn nhiều mà liệu đường đi dài được một phần nghìn từ đây đến chỗ đánh chưa? Theo chương trình, tất cả phải đến một địa điểm cách đây tám cây số, thì ăn cơm sớm và nghỉ tại đó, tránh cái nắng ban ngày, tối lại đi. Nhưng thực ra mới đi được hai cây số. Tôi và anh San phụ trách ở đây không dám giục nhiều, chỉ ôn tồn bảo anh em đi thôi. Tuy biết là chậm đấy nhưng chả sao đi nhanh được, hố tác chiến đào ngang, đào dọc, đang khiêng hụt chân, tụt xuống luôn. Anh Đát hay bẳn nhất, luôn mồm với anh Thịnh đi liền trên:

– Đi không có mắt à? Đi trước sáng sủa hơn, đi liếc mãi, người đi sau vướng, nó tối mắt chả biết chỗ nào để nhắc chân mà trên cứ đi biền biệt.

Đồng chí Thịnh nhe răng cười hềnh hệch:

– Ối giời ơi! Việc gì phải bẳn, mình làm con trưởng chống gậy đấy thôi, thời mình phải chịu khó nhọc hơn các em thứ bé; ít tuổi hơn, nó đi trước mặc nó.

Thế là tất cả lại rộ lên cười.

Trên con đường đã có người qua lại. Xe đạp, gánh hàng từ xa thấy vậy đã phải nhảy xuống hoặc đứng dạt sang bên. Thoáng có bóng vài chiếc yếm trắng và giải thắt lưng xanh cùng đứng đợi ở đó. Tất cả phá lên cười. Anh Thịnh đang khiêng huých câu nói:

– Này thôi đi chứ. Kìa rồi sắp tươi rồi.

Khi gần đến các chị công nhân nói trên, tiếng khóc đùa bật lên:

– Ối cha ới, ới mẹ người ta ơi!

– Ối cha ới mẹ người ta ơi, nặng thế này!

Người khóc; người cười rộ, người nhắp nháy mắt. Anh Thập lúc đi ngang quay sang nói:

– Các chị ơi gánh giúp chúng tôi với.

– Ủng hộ bộ đội mà.

–Úi cha thế thì thú quá! Các chị nọ cũng cười theo, tỏ ý không giận dỗi. Đấy chỉ cần một vài phút khuây khỏa đó mà cũng có thể đi được một quãng khá dài. Phía trên cũng có tiếng ồn ào. Tôi rảo bước lên thời các bộ phận kia cũng đang còn ở lại đó.

Anh em đang nghỉ. Cái nào đã nghĩ lâu thì lên vai đã

– Tôi tưởng các anh đã đi xa rồi.

– Thưa Anh nặng lắm, đói quá!

Luôn muôn bên tai nghe tiếng hai, ba vọng lại. Tôi vượt lên một quãng lại gặp cái bánh xe. Thứ bánh xe này khiêng bốn người thời nhẹ, mà thật ra không đủ người mà khiêng hai người thì nặng quá. Anh Toàn và anh Chúc co rúm người lại mới đi được. Chân run run, cái bánh xe vì vậy mà lắc lư theo cái đà ấy mà nặng. Kết cục rơi phịch xuống. Hai anh kịp lui vội nếu không ắt phải điếng chân. Anh Toàn ngồi xuống lân la ra chỗ bệ nói với anh Mạch:

– Mạch giúp hộ tớ một buổi, tớ nát cả vai rồi.

– Ánh có gánh được không?

– Được

Mạch đổi sang chỗ Toàn, lại chỗ bánh xe, chặt ngắn cái đòn đi, xuyên qua lỗ bánh xe mà lúc lắp là cái lỗ của cái trục. Anh bảo Chúc đi lom khom giữa cái đòn, còn anh, anh lấy tay lăn bánh xe cho nó bon đi trên đường.

– À được đấy, đỡ gánh khổ, các anh đi sau nhé.

Tôi nhìn theo trong bụng vui mừng, lúc khó là lúc nhiều mẹo nhất. Đi nữa qua cái cầu chợ Ràng, gặp nhiều bộ phận. Tám người khiêng đang đặt chổng kềnh bên đường. Anh em ngồi nghỉ. Tôi lại định đi tìm lời khuyến khích thì có bộ phận anh em lại lẳng lặng lên vai. Anh em đi, anh em nghỉ rồi lại đi mặc lòng! Mỗi cái tôi giao cho một anh cán bộ phụ trách, khoán trắng cho họ chịu phần trách nhiệm đôn đốc, vì biết thế nào họ cũng đến được địa điểm đã định theo chương trình. Anh Lệnh phụ trách coi cái bệ, anh ta vui tính hay quậy với anh em nên vui, đi nhanh hơn cả. Đám đó đi thỉnh thoảng Lệnh ta đi sau lại xướng câu: “Khởi chinh cổ… ổ ổ…” tất cả anh em lại đồng thanh .. ối a ới a.. anh Lệnh ơi… hoặc “cử ai – ối a ới a anh Lệnh ơi”… các người làm ruộng bên đường đều ngưng việc; nhìn anh em cười theo như nắc nẻ.

– Các anh gánh cái gì mà nặng thế?

– Cái máy nước dẫn về Bắc để làm ruộng đó!

– Tôi vượt cái bệ, tìm cái máng xem sao. Được non một cây số, lại gặp Mạch và Chúc loay hoay với cái bánh xe. Lần này ngoài cái đòn ngắn gác ngang trục bánh xe Mạch ta còn lấy hai cây nứa kẹp hai bên phía ngoài như cáng xe bò.

– Anh Chúc này đi trước cầm như kéo xe bò nhé, tôi đi sau đun nào.

Nhưng lại chả được, vì có một bánh nên nó hay đổ sang hai bên, lại bẹp gãy nữa.

Người đi trước cũng nhọc, người đi sau cũng khổ. Tôi vội hỏi: “Sao kế trước lại thôi?”

Lối đó tốt lắm nhưng anh Chúc mệt không giữ được, mà tôi giữ thì cao quá, cúi mãi đau lưng quá!

Nhìn lại tôi thấy người anh Chúc bé nhỏ trắng trẻo đang thở hổn hển mồ hôi lấm tấm như giây mọc quanh miệng, mặt tái nhợt. Anh nói: “Mệt quá hay nghĩ đã, bao giờ đến thì đến”.

– Cố tí vậy, cho kịp cái bánh trước, làm cả hai cái tốt lắm, bớt người được mà nhàn.

– Mệt lắm!

– Thế anh cầm ba lô nhé.

Nói xong Mạch đưa cái ba lô bằng giây thép đan cho Chúc, một mình vần cái bánh đi. Mạch cho bánh đứng vững bắt đầu đun đi. Nó nghiêng sang phải lại hất sang trái, nó sang trái tay phải điều khiển luôn. Nó chạy chậm lại phải đủ nhẹ cho nó đi nhanh để dễ khiển. Lúc lên dốc vừa đu lại vừa lái, thúm cả lưng. Lúc đổ dốc lại có nhiều hố mới nguy. Nên không kìm nó lại thúm xuống thời cũng chết, tay cứ phải giữ từ cái nan hoa này lại bỏ ra víu vào cái kia, co lại để nó khỏi lăn mạnh. Gặp cái dốc nào, không phá hoại cho nó lăn mạnh, nó chạy ầm ầm, lộc cộc như xe goòng ai cũng phải tránh cho xa. Có một lúc Mạch chạy bở hơi tai để kịp nó, vì nó vừa va phải hòn đá suýt đổ nghiêng. Vừa lúc đó tôi tới gặp cái máng. Anh Dư phụ trách coi hốt hoảng báo anh em tránh ngay kẻo què. Bánh xe ầm ầm qua. Song Dư lại phải ba hoa với tôi:

– Gớm anh ạ, máng bịt kín thế này ai cũng chả hiểu là cái gì, họ cứ hỏi vớ hỏi vẩn, duy có một người đàn bà Mán đi qua, chỉ vào nói là cái máng súng. Chúng tôi lặng cả người đi anh ạ – có lẽ con voi nào đi qua đặt ở nhà người ta đấy.

– Thôi che nữa vào, còn cái bánh nữa đâu?

Các anh ấy đi xa lắm rồi, có lẽ họ ăn cơm xong rồi. Anh em đói lắm anh ạ..

Thấy các bộ phận này có thể tới N.Đ. ăn cơm sáng được. Còn cái nòng thì chả thế nào đến được. Anh em ăn từ hôm qua, suốt đêm rồi còn gì! Tôi vội viết mảnh giấy con nhắn anh Giáp làm hỏa thực mang cơm xuống, và dặn các bộ phận khác, nhất là cái bánh xe qua N.Đ. là nơi đông đúc phải che đậy, còn tôi quay lại với cái vòng lúc đó mới lê tới gần chợ Bang đang hò reo ầm ầm. Anh San thấy tôi tới, tiến lại: “Anh cho hỏa thực mang cơm lại chứ” tôi ngắt lời: “Bảo rồi, bảo rồi, liệu cầu này thế nào? tre bương mong manh lắm?”

– May ra đi được, tuy vậy chắc chắn.

– Nòng tới đầu cầu.

– Cầu đấy, cầu đấy.

– Cẩn thận sẽ chứ, kẻo lại hụt, nguy hiểm. Tôi nhìn cảnh chen nhau mới có một chỗ đứng trên mặt cầu, chả còn nom thấy cái nòng đâu. Chân cũng phải lê thì mới đi được. Hồi hộp nhìn theo. Nó ra được giữa cầu rồi. Bỗng các tre bương chống đỡ cầu kêu răng rắc.

Anh San hét:

– Bỏ xuống chạy.

Như cái thông phong vỡ, vụt một cái anh em chạy xô lên bờ. Tiếng cười ầm ĩ. Anh Tuyên vừa nhảy cỡn vừa tuyên bố : “Suýt nữa bị xô xuống suối, gớm thật!”

– Thôi im đi, này đồng chí Thịnh. (San khẽ lôi cái giây vào để kéo.)

Anh Thịnh và San vừa bò ra ngập ngừng. Cầu lại rắc rắc rồi. Lại lùi vào. Sau một mình Thịnh ra, nắm được đầu giây. Anh cúi xúm lại kéo. Nòng từ từ chuyển rồi tới đất. Tiếng thở ra khoan khoái. Mặt trời đã lên cao gay gắt. Anh em như mất sắc cả. Chúng tôi đều vào nghỉ tại vài quán ở đó. Tính ra mới đi được ba cây số. Anh San và tôi trong lòng như không yên, đều thủng thỉnh đi lên, vừa đi vừa ngó cơm mang đến chưa, anh em đói lả cả rồi. Vừa đi tôi sực nghĩ đến cái xe quẹt của đồng bào thiểu số vẫn dùng để lấy củi .

– May ra cái lối ấy dùng được cho anh San nhỉ?

– Tôi cũng đang nghĩ đến cái lối xe đó, nhất định được. Nếu không, có lẽ chả đến mặt trận đâu.

– Ta quay lại bàn với anh em đi

Chúng tôi đều quay lại nói với anh em ý định như vậy. Đồng chí Tân cướp nhời:

– Anh chưa bảo anh em, nhưng anh em đang nghĩ đến rồi; định nói với anh, thế anh cho thực hành chứ? Tôi đang ngồi nói chuyện với anh San và Tân quanh cái điếu bát thời bên ngoài tiếng cây súng nổ đánh rầm một cái, lá vương vào mái nhà sàn. Anh San cười:

– Thật là Vệ nhà ta đi đâu đổ ầm đến đó.

Một lúc sau xe quẹt đóng xong, thời cơm vừa mang đến. Nguội ngắt anh em xúm lại ăn. Anh Lưu vừa đến đưa giấy. Mới ghế (19) một nồi mang đi ngay, sợ ở đây đói.

Bên ngoài nắng gắt. Trong khi anh em nghỉ tôi cho anh Tân và một đồng chí nữa đi vào xóm làng trong mượn hoặc thuê trâu.

Một lúc sau, San gọi anh em thử để xem sao, kết quả xe đi một cách ngon lành. Núi rừng buổi trưa êm ả lại, chuỗi cười khoái trá ròn tan của anh em. Tư tưởng an nhàn xô đến. Có tiếng bàn tán:

– Chiều nay tươi nhé. Thôi đi đi!

– Ái chà, anh Tân mang trâu về nhà rồi, đi thôi.

Anh Tân về báo cáo chỉ mượn một con thôi, và đã cho đồng chí Đào đi trước mượn một con nữa. Trâu được đóng vào. Đánh một roi nó vội dần quỵ cả chân trước xuống xe mới chuyển lệch kệch loạc quạc trên đường đá. Anh em hớn hở theo sau ruỗi tay ruỗi chân, xương mỏi kêu răng rắc. Nhưng được vài trăm thước, trâu chùn lại thở hổn hển. Rồi lại phải buộc giây hai bên kèm đỡ cho trâu. Đồng chí Tân dắt trâu đi giữa cho nó khỏi tụt xuống hố. Riêng tôi thú thật là cái xe này có thể đi qua các hố tác chiến như thường rất tiện và nhanh, không phải bắc ván. Cỏ bên đường chết đi, đá non vụn lả tả, thân xe lẹt xẹt mòn dần. Nắng quá lắm lúc phải có đòn bẩy mới đi nổi, vất vả tương đối bớt đi chứ không sao tránh khỏi. Tay anh em kéo giây rát phồng cả lên. Và tận hai giờ chiều hôm đó tôi mới tới N.Đ. mà chương trình đã định đến từ sớm nay. N.Đ. đông đúc, buôn bán vui vẻ. Dân chúng xô ra xem. Họ bàn tán xôn xao. Cảnh tượng tám hoặc mười người khiêng một bộ phận che lá kín mít. Người nào cũng quần áo, chân tay lấm láp, xốc xếch, tay chống cái gậy, chân từ từ bước một, khiến một cụ già phải rộ cười.

– Gớm ông cụ nào mà nặng thế kia, những tám người chống gậy cơ đấy, hà hà.

Một anh nông dân chống cán thuổng bảo vợ:

– Các anh ấy khiêng một bộ phận máy bay bu mày ạ.

Người vợ nhấp nháy mắt:

– Ta cũng có máy bay à?

– Sắp sắp.

Anh hàng phở có vẻ thạo hơn:

– Toán công binh này họ đi làm cầu ở đâu đấy?

Bà đi buôn thân mật hơn hỏi:

– Các anh mang cái gì mà nặng thế?

– Mang ống về dẫn nước làm ruộng đấy.

Một anh com-măng-đô cưỡi ngựa đeo sao vàng đứng sang bên, nhìn anh em chúng tôi từ đầu đến chân. Đọc trong đôi mắt màu hạt dẻ, tôi thấy như anh đã tìm thấy cái bí quyết tại sao quân đội Việt Nam đã thắng nổi Pháp. Ở đây các bộ phận khác đi cả rồi. Chỉ còn cánh hỏa thực còn ở lại xếp trả bát đũa, nồi niêu. Anh em mới đến sau quyết rượt đuổi theo. Vượt qua đèo Mon lúc còn sáng, để đến V.C. đích thứ hai, chứ không chịu kém. Được một quãng khỏi phố N.Đ. tôi đi trước gặp hai anh Cù và Điều đang ngồi bên đường. Cái bánh xe lăn một bên. Đồng chí Điều vừa xong cơn sốt rét. Kê vài cái độn lên cỏ nằm. Tôi đến, Điều đang lau mồ hôi và kêu nhức đầu. Tôi hỏi: “Bánh xe dẫn đầu nhất, sao lại tụt đây?” Anh Cù trả lời “số là đã bỏ xa toán đi sau hàng bảy tám cây số, nhưng vì gặp Lưu liên lạc bảo phải lấy lá che kín, không được bon qua phố đông N.Đ. nên lại phải khiêng. Lúc đó ở giữa đồng chả có nhà nào không có đòn dài phải khiêng bằng đòn hai đốt tre làm ngõng lăn lúc trước. Vì vậy nặng quá anh Điều nhăn nhó khóc. Qua phố, anh Điều kêu nặng phải đặt chân nghỉ. Một ông cụ già thấy đòn ngắn quá, bảo đợi để ông cụ lấy cho hai cái đòn khác dài khiêng cho nhẹ nhưng lại bé quá. Hai anh phải nhập lại để khiêng, một quá yếu đã gãy trước. Còn một cái nhưng vẫn phải khiêng. Đi được một quãng, hai cái nó kẹp lại, nghiến vai anh Điều đau quá. Đồng chí Điều lại mếu máo lần nữa. Ra khỏi phố vừa vừa tầm cơn sốt rét, nằm lỳ tại đây đến tận bây giờ khát quá chả có nhà nào xin nước và lo ốm đi sau lạc chết, lại khóc”.

Tôi đành để cho hai anh tháo ra bon theo lối trước. Đi được một quãng tới hàng quán, bánh xe lại dừng lại. Họ vào gặp anh Đào đi mượn được một con trâu mộng nữa đang ăn cỏ. Con trâu này to lắm. Chủ nó là một bà trong làng. Trái với lần hỏi mượn hoặc thuê, lần này mượn dễ quá. Bà vui lòng ngay lại cho cả một người nhà đi theo để đem trâu về. Sau vỡ lẽ ra con trâu mộng nay khỏe lắm. Không ai trị nổi nó, thế là nó phá lên rừng, trâu mất nết, bà chủ chỉ than vậy thôi. Nay gặp bộ đội cần mượn trâu, bà ta trong bụng có ý là nhờ luôn bộ đội trị hộ con trâu này cho nó vào khuôn phép. Bà ta còn dặn nhỏ anh người nhà: “Nếu cần cứ để cho các ông ấy mang đi mấy ngày cũng được. Ăn uống đi với anh em lo gì?"nghe anh Đào kể vậy. Chúng tôi cười ầm lên. “Được cứ cho nó ra đây trâu nào cũng phải vào khuôn phép ngay”. Quả vậy lúc mới đóng trâu mộng này, nó đi băng băng khiến con theo sau cũng phải theo mệt.

– A ha khoái cha chá.

– Cứ thế thì lại tươi hơn cả cái kia.

Trời đổ nắng; gió hây hây lay đồng ngọn lúa xanh. Cánh đồng bát ngát. Lúc này ai cũng có thời giờ ngắm cảnh vật quanh mình, hưởng gió mát. Thoáng một cái đã đến chân đèo M. trâu vẫn còn hăng, xe bắt đầu lên rồi, nhưng lại bắt đầu chậm dần. Trâu dừng lại thở hồng hộc. Tất cả anh em lại phải vào giây kéo để đỡ cho trâu mà cũng chỉ lê được vài chục bước lại phải nghỉ lấy hơi. Lúc đó độ năm giờ chiều mặt trời còn đấy nhưng đường cây lá nhiều quá nên tối, người qua lại ít chim xào xạc về tổ, ngoài tiếng hò hét nào chả còn tiếng cười đùa nữa. Anh em đi lắc la lắc lư vừa kéo giây chăng hai bên dọc đường. Anh Tân chuyên môn giắt trâu đi giữa. Có vài chị phụ nữ đi trên xuống thủng thỉnh. Tối chỗ anh em chăng giây, các chị cứ vô tình len vào giây, hai hàng giây đó. Tiếng cười bị nhịn từ lâu bật ra. Hai chị nhanh chân lui lại đi vòng ra phía ngoài, còn một chị cuống quít vẫn đứng trong giữa, trước mặt anh Tân:

– Ô kìa chị, đi đấy ô kìa!

Anh em phá lên cười. Hai hàng giây lúc này khép lại. Chị ta càng lúng túng. May giữa hai anh Thành và Dần có chỗ hở. Chị liền chui qua chạy lùi lại, nhưng chưa hết chuyện. Một chị thiểu số đi rừng về, cứ cười hềnh hệch:

– Ô kìa con trâu tắng, tâu tắng.

Nói xong lại cười.

Anh em nhại lại:

– Tâu tắng, tâu tắng, tình nhỉ?

– Pi noọng ơi ơi (20)

– Gớm thương sao được!

Lần này chị ta đi khỏi, chả ai cười nữa. Thực ra con trâu mới lên được đèo nhưng cũng mất nhiều thì giờ về nó. Đây là một khuỷu sườn đèo một bên thành đứng cao chót vót, phía dưới là rãnh nước, một bên khe sâu trâu mộng phá ngang, kéo xe lọt xuống cái rãnh đá, còn mình nép vào thành núi ì ra đấy. Đánh thế nào nó cũng không đi. Cho xà beng đẩy đít nó ra cũng chỉ nhích xệu xạo vài bước chân rồi lại ép vào tường. Lôi đến rách mũi cũng không đi. Trâu muốn thi gan với người. Lại đến lượt anh Tân hăng tiết gạt roi và xà beng ra lại nắm chặt lấy giây luồn qua mũi trâu, mặt anh ta gân hẳn lên. Răng nghiến chặt: “Hừ hừ có đi không?” vừa nói anh ta vừa đấm mạnh vào mặt trâu huỳnh huỵch? Mặt nó đỏ tưng bừng. Anh em hôi hộp. Anh Biên cầm chặt khẩu súng sẵn. Một thôi anh Tân ngưng tay nói: “Thôi bây giờ ai vào dắt đi được rồi. Nào xem nào”. Trâu thong thả đi. Anh em cười xòa. Anh Tân có vẻ lắm. “Trâu mộng có vẻ sợ tớ rồi đấy”. Còn con trâu kia thời nép vào bờ đi cùng người anh em. Lúc này phải cho nó đi trước kẻo con trâu mộng hay phá lắm. Đi qua một cầu gỗ ngắn, chúng tôi cứ cho đi bừa. Ngờ đâu gỗ lâu ngày quá, gãy rắc, con trâu tụt cả bốn chân xuống co chân lên co xuống mà chả hơn gì. Phải có người xúm lại lôi lên mới qua. Con trâu mộng đi sau nữa. “Nếu nó cứ bước dài thì không tụt”. Hồi hộp nhìn theo. Trâu cũng lưỡng lự. Chợt nó bước ào đi nhưng loạng choạng vài bước nó qua được. Anh Tân ba hoa. “À con này khôn nó dẫm vào cái sà dọc nên không tụt như con kia”. Đến một chỗ nguy hiểm nữa, phải tháo trâu ra vậy. Đường chỉ còn vỏn vẹn một sống lại gồ ghề ở giữa chỉ đủ người và xe đi thôi. Muốn xe khỏi lăn xuống hố, phải có người đứng dưới kê đòn, một đầu vào đường một đầu lên vai mình, nếu có xe thêm một tí có đòn đỡ rồi. Tôi chưa kịp chỉ ai. Anh Hạnh đã vội tụt xuống với cái xà beng:

– Để cho tôi đỡ cho.

Xe đi qua, sống trạch ở giữa đường, gặp chỗ hơi cao, nên đến một chỗ nó trơn lăn vèo xuống đè vào xà beng. Đồng chí Thành đỡ vẹo cả lưng không đỡ nổi phải buông tay. Xà beng vụt xuống đất rồi lại vút lên lăn kềnh. Đồng chí Hạnh cũng đủ thời gian nhảy sang bên cho bị khỏi chết dí, nhưng cũng không sao tránh được xà beng vụt qua sườn.

– Úi giời ơi, úi giời ơi...

– Y tá đâu?

Anh em xúm lại lôi anh Hạnh lên đang nhăn nhó.

– Thật không nhanh có chết không?

May chỗ phá hoại ấy không sâu lắm, nhưng xe lăn kềnh xuống rồi muốn lên phải đánh dốc. Anh em đều mệt nhoài, trời lại tối hẳn.

– Cho trâu ăn cỏ đi không nó chết.

Anh San có ý kiến “Thôi đi nghỉ đã, sằn rừng nứa các cậu vào lấy thật nhiều nứa ra, làm đuốc đi nhanh lên”. Anh em làm theo. Tiếng chặt nứa kêu san sát. Số còn lại tản mát dần. Người lính hút thuốc lào, người ngồi châm thuốc lá hút. Thấy đồng chí Thành đang cầm thanh nứa quyệt đống phân trâu mới bôi vào chỗ xát chảy máu lúc tụt cầu ở bên chân cho trâu nọ. Tôi hỏi để làm gì?

– “Thưa anh, ở quê tôi cứ lấy phân mới của nó bôi vào vết xát, trâu chóng khỏi lắm. Không có chủ nhà họ chửi cho chết”.

Đồng chí Thành còn chỉ cho tôi xem cái vết lằn ngang dọc rớm máu ở đít trâu.

– Các anh ấy cứ sẵn nứa tươi đánh như pháo, cạnh nứa sắc chẩy cả máu trâu, tôi bảo phải lấy đòn gỗ mãi, các anh ấy không nghe.

Tôi ra chỗ con trâu mộng đang ăn cỏ dàn dạt. Tôi nhẩy lên lưng nó vỗ vài cái. Nó thủng thỉnh đi. Gặp vài chị phụ nữ đi lại. Các chị ấy nói bâng quơ:

– Gớm nhàn hạ nhỉ. Chính phủ nuôi ngày ăn hai bữa cưỡi trâu chơi.

Tôi không muốn trả lời. Đồng chí Thành thấy vậy tiến lại hỏi:

– Anh không nói gì à?

Nửa giờ sau tôi lui về. Bao nhiêu bó đuốc được đốt sáng lên rực cả đường đi. Chúng tôi xúm đông lại, người xà beng, người đầu gối, người cánh tay vần mới lật xấp xe lại được. Bên trên mấy anh hì hục phá đường làm lối lên. Người tháo giây thép lôi riêng cái nòng lên.

– Tiếng hai ba ầm hét lên.

Nào lại lún xuống đất, xà beng nẩy cành cạch mới lên được. Cái xe gỗ không, gần mòn hẳn rồi cho lên dễ dàng lắm. Trong khi anh em lau mồ hôi, anh Tấn ra chỉ xe bảo:

– Tôi đã bảo mà, phải chọn cây gỗ trần mới tốt, xe này gần tiêu rồi, mai nhớ nhớ…

Anh em cười với nhau:

– Đông người chả sợ gì cả làm xong tuốt.

– Gớm ông cụ này ghê thật, mỗi lần ông ta chuyển mình là bỏ cha con cháu.

Tính ra mất hơn một giờ mới lên đóng trâu vào để đi. Nhưng tối trời đóng trâu vào khó quá. Nó chỉ lẩn quanh. Người nọ lừa không được lại người khác.

– Họ, họ họ…

Anh Tân vào. Vào cái lùa được trâu lại. Càng dễ lên râu.

– Tối trâu hay phá ngang, muốn về chuồng mà phải khéo mới được.

Tôi thét: “Cho đi” đoàn người lại đi rầm rập. Anh Tân luôn mồm gắt với anh Nhượng câm điếc.

Tôi bảo mà, trâu đi tối phải có lửa, gai mặc, anh phải đi cạnh đây, soi cho nó đi.

Bó trước, bó sau linh tinh trông đến đẹp mắt. Lúc này nhớ cơm nên tiếng hò bớt dần. Cũng may mà rẽ vào một quãng đường đất không phá hoại, mưa hôm qua vẫn chưa ráo, con đường trơn như mỡ. Trâu hết phá thối rồi, đành phận theo đóm đi giữa hai hàng rào người. Người nào người nấy đầy rẫy sát khí, đòn ngắn, đòn dài trong tay. Đường đi vậy lại càng dễ đi hơn. Xe như lướt trên bùn đi băng băng. Chúng tôi vừa đi vừa chạy mới kịp. Nỗi vui mừng quên cả mệt và đói. Gặp chỗ bùn sâu, bắn vung cả lên người, chân tay ống quần bê bết nhưng vẫn đi. Tàn đuốc rơi lả tả… cứ phải phủi luôn, không thì cháy ra quần áo. Đang cơn vui, mang cơm đến. Nhưng xét ra chả có chỗ nào cao ráo mà cái đà đang đi nhanh. Một số đông anh em đều muốn thôi để đến C.V. ăn một thể cho sạch sẽ đường hoàng, duy có anh Tân cứ nheo nhéo:

– Thôi anh em ăn cơm đã.

Tôi gạt đi:

– Thưa anh, anh em đói lắm.

Tôi phải bảo anh ấy im. Cuộc hành quân vẫn cứ đi với cái đà có lẽ đến sáu bảy cây số một giờ. Tới bờ suối lúc nào không rõ. Lúc đó mới có chín giờ tối. Chỉ còn lội qua cái suối nông là đến C.V. trái hẳn với ý tưởng chung là có lẽ 12 giờ mới tới được. Ai ai đều thấy hớn hở vô cùng. Đến đây một là dùng thuyền qua, hai là cho lội qua. Tôi đang dùng dằng, thời anh em đều muốn lội qua bừa, vừa để rửa chân, thay gột quần áo thân thể. Thế là tất cả ùm xuống. Nước chảy xiết quan chân đi, đóm soi rực cả mặt suối. Tàn “rơi” xuống xèo xèo tắt ngấm. Trâu gặp nước đi bạt mạng. Cái xe nặng thế mà nước có chỗ lật hơi nghiêng đi. Chúng tôi đều phải thò tay ấn xuống.

– Thôi chết rồi, chết cha đồng hồ xuống nước rồi. Nguy, nguy!

Người anh em đang vắt quần áo, thấy vậy cười ầm lên:

– Lại mấy chục rồi. Thôi anh thiếu gì tiền.

– Gớm các cậu tưởng tớ giầu lắm à?

Vừa nói anh San vừa cam sót sa lắc đồng hồ cho ráo nước. Đồng chí Lưu, liên lạc viên đưa tin là trên kia thu xếp nhà cửa đủ cả rồi. Các bộ phận khác đã đến từ sớm. Anh em ngủ cả rồi. Tôi rảo bước về trước với hỏa thực xong qua chỗ ăn nằm bảo dọn cơm sẵn ra. Tôi lên nhà đánh thức đồng chí thư ký dậy làm báo cáo, kể qua kinh nghiệm cho tiểu đoàn rõ để phổ biến cho các hạng “anh cả” sắp đi sau. Làm xong mãi chả thấy ai về. Tôi lại chi Lưu ra xem, thì té ra cái xe quẹt mòn gãy đôi không đi được nữa. Anh em phải lê cái nòng vào gốc cây si. Cho gọi người gác mai làm cái khác. Tất cả kéo về ăn cơm. Cơm nguội ngắt, hỡi ôi! Vài hạt muối, bát canh măng lạo xạo. Tôi cùng ngồi ăn một mâm, có bốn anh em với người nhà của bà chủ cho mượn trâu mộng. Vừa ăn anh ta vừa thủ thỉ với tôi:

– Thôi mai cháu xin ông cho cháu mang trâu về, bà chủ cháu dặn thế. Gớm cháu đi với các ông mệt quá. 11 giờ đêm mới được ăn cơm. Suốt ngày mệt lả. Cơm lại chả có gì mà các ông vẫn khỏe mạnh đều, vẫn vui ghê thật.

Đúng 12 giờ khuya, tôi mới phụt tắt đèn đi ngủ. Sáng hôm sau chúng tôi dậy đã thấy anh người nhà hôm qua dắt trâu mộng về, sau khi đã trả xong tiền bà hàng cơm hơn chục gắp trả chó.

10 – 8 – 1949

SIÊU HẢI

Tiết 17

NGUYỄN CÔNG MỸ

Tiểu Sử.

Sự vươn lên của ánh sáng cách mạng trên hai công tác: kiến thiết và chiến dấu. Chiến đấu để bảo vệ kiến thiết. Kiến thiết để hàn gắn phá hoại. Những anh Vệ quốc ngoài mặt trận chống Pháp, miền hậu tuyến chống giặc dốt. Giặc dốt là một sự kiện đầy ải, từ bọn thống trị không muốn chúng ta vươn lên, thì nhở ở ánh sáng kháng chiến, nhân dân ta ai ai cũng phải biết tiếng mẹ đẻ, viết và đọc. Sau những giờ làm việc là đến buổi học tập. Những người biết chữ không quản giắt người mù chữ trên con đường tiến tới mọi người biết chữ. Ý nghĩa đó được Nguyễn Công Mỹ diễn đạt lại qua “Giáo viên bình dân học vụ".

GIÁO VIÊN BÌNH DÂN HỌC VỤ

(...) Họ xúm nhau lại bàn định, chia nhau đi bốn phương, vào từng ngõ hẻm đường sâu. Người ra bờ bể, kẻ trèo núi cao. Có người nhận việc ở giữa luống cày, có người mang nhiệm vụ vào trong xưởng máy. Họ lầm lì dấn bước với gánh nặng trên vai. Trên đường đi, họ giơ tay hoan hỉ đón chào bạn mới. Đoàn của họ mỗi ngày một đông kể tới vài vạn rồi. Họ còn muốn cho đoàn đông gấp năm gấp mười nữa. Ai hỏi tên họ, họ niềm nở lắc đầu không nói, chỉ cho xem bó nhiệm vụ trên vai. Tự cho mình là chiến sĩ, họ quyết xứng đáng với tên chiến sĩ. Không biết gọi họ là gì, người ta đặt cho họ một cái tên rất hiền lành “Giáo viên bình dân học vụ”. Giáo viên BDHV là tất cả, bất cứ ai đã biết chữ, nếu lòng tha thiết với tổ quốc. Cô giáo viên mười lăm tuổi gọi một giáo viên khác năm mươi tuổi bằng ông nội. Cô giáo viên mặc quần áo lối binh sĩ Hoa Kỳ màu cứt ngựa sẫm, lại có giáo viên quần đùi, chân đất chưa sạch vết bùn. Anh ta buộc vội trâu ngoài sân đình vừa thở vừa chạy vào lớp học, vai vẫn vác cày. Đây là một cô gái xanh lướt, mỏng manh con nuông của một nhà giầu, đây là một người thợ đầu húi ngắn, luôn luôn thổi sáo. Ai cũng vui vẻ với việc, quyến luyến với nghề, lo lắng trước trách nhiệm. Chả thế mà tuần nào họ cũng họp nhau lại để một lần bàn bạc để đến hôm sau cuộc hội họp, người nào người ấy vui vẻ hơn vào việc, quyến luyến hơn với nghề, lo lắng hơn trước trách nhiệm. Có một hôm, một giáo viên bảo học trò thân mến rằng: “Các ông các bà ạ. Bữa này là vừa bắt đầu. Ba hôm nữa là hết giấy. Chúng ta làm thế nào bây giờ.

Bấy nhiêu nét mặt xa xầm xuống. Giáo viên nước mắt chạy quanh. Chẳng muốn nói gì, chẳng chẳng đợi một chốc, nuốt ực nước bọt rồi tiếp:

– Các ông các bà không sợ. Tôi đã có cách. Miễn là các ông các bà đến sớm cho một chút.

Hôm sau giáo viên đội một thúng sách tới đình. Học trò vắng mặt mất một người. Chàng gọi con số còn lại ra sân.

– Từ nay chúng ta học ngoài sân.

Chàng dốc thúng. Thì ra toàn gạch non, những hòn đủ thứ các hình, đủ các cỡ. Bút đấy, mực đấy, viết đi. Những bàn tay ngượng nghịu, nhưng chăm chỉ mài gạch trên gạch thành những móc câu, những quả trứng, với mối hy vọng ngập trời. Bọn thực dân hãy vào sân dân tộc này mà xem họ học tập. Họ bất chấp đói kém, thiếu thốn. Họ muốn sớm trở nên người dân độc lập. Trên đường giải phóng họ mang nào sách, nào bút, nào bảng, nào câu đối sơn đen, nào que tính, nào phấn, nào đất sét nặng, nào cánh cửa gỗ, nào mảnh sành, mảnh gạch. Để tập đọc thông thạo cả. Để bồi bổ tinh thần, để tuyển gan dạ mà(...)

Trích một đoạn đăng trong TIỀN PHONG

NGUYỄN CÔNG MỸ

Phần B

NHÀ VĂN MIỀN NAM

1945–1950

Tiểu Sử.

BÌNH DIỆN VĂN NGHỆ MIỀN NAM

1945 – 1950

a) Hoàn Cảnh Chính Trị và Văn Nghệ

Sau ngày 29–12–46 ở Việt Nam có hai mặt trận kháng chiến chống xâm lăng:

Mặt trận thứ nhất kháng chiến chủ lực ở miền Bắc và miền Trung, còn miền Nam coi như kháng chiến bổ sung.

Nói riêng về mặt trận văn nghệ, chúng tôi cũng chia ra làm hai phần như phân tiùch bình diện chính trị. Dù muốn dù không, đành rằng văn nghệ không là chính trị; nhưng mặc nhiên bối cảnh văn nghệ và chính trị có tương quan song hành với nhau.

Trong tập sách này, chúng tôi nói đến các nhà văn miền Nam 1945–1950 hoặc nói một cách khác, nhà văn kháng chiến bổ sung. Nhưng tinh thần đấu tranh phải được coi như một.

Trở lại mặt trận chính trị Nam Bộ, Pháp chiếm Sài Gòn và các thị trấn vào 23 tháng 9 năm 1945. Phong trào kháng chiến bùng nổ khắp mọi nơi.Ở miền Nam, chính phủ tự trị Nguyễn Văn Thinh chỉ là bù nhìn cho Pháp sai khiến. Sau cũng biết vậy là có tội với lịch sử, nên ông tự tử để cứu vãn danh dự phần nào. Hoàn cảnh chính trị như thế; nhưng bối cảnh văn nghệ cứu vãn được một phần lớn thúc đẩy tinh thần yêu nước trên bình diện thật rộng lớn.

Lập trường ủng hộ kháng chiến của các nhà văn miền Nam tạo được một lượng đáng kể. Nhóm Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Dương Tử Giang và Thẩm Thệ Hà nặng về phần sáng tác. Nhóm Tam Ích, Thiên Giang nặng phần lý luận theo hướng Mác xít tự phát.

Các nhà văn độc lập khác như: Hoàng Tấn, Bình Nguyên Lộc, Anh Huy, Việt Quang, Mai Văn Bộ (Bách Việt), Hợp Phố (nữ), Sơn Khanh, Phi Vân, Vũ Xuân Tự, Quốc Ấn, Nguyễn Bảo Hóa, Trúc Khanh, Hồ Hữu Tường vv...

Nhóm văn nghệ có khuynh hướng về lãng mạn cách mạng (romantisme révolutionnaire) như Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà…

Nhóm sáng tác theo duy vật biện chứng (tự phát) như Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, phê bình và lý luận theo duy vật sử quan là nhóm Chân Trời Mới, hướng về cộng sản khi hoàn cảnh “văn” và “chính” đang trong thời kháng chiến.

Qua các bộ môn, ngành văn phát triển hơn cả. Lối văn nhẹ nhàng lồng trong tác phẩm rung động của Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Dương Tử Giang… Về thơ, như Vũ Anh Khanh, Hoàng Tố Nguyên, Ái Lan…. Sau các nhóm đến các nhà văn độc lập.

Một số nhà thơ không nói đến ở đây; vì trong tập này cũng như các tập trong bộ phê bình văn học của chúng tôi, nặng về bộ môn văn. Và bộ môn thơ chỉ nói điển hình, các nhà thơ không nhắc đến xin hiểu thế mà châm chước cho.

Tiết 1

KHÁI QUÁT VỀ NHÓM LÝ VĂN SÂM

Lý Vân Sâm, Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà và Dương Tử Giang thuộc nhóm nặng phần sáng tác. Hai nhà văn sáng tác, điển hình là Lý Văn Sâm và Vũ Anh Khanh.

Tuy nhiên, Thẩm Thệ Hà và Dương Tử Giang có sáng tác và hai nhà văn sau này còn viết lý luận văn nghệ, mà có thể nói là đặt cơ sở sáng tác cho nhóm về nguyên tắc.

Về thơ, Vũ Anh Khanh còn là nhà thơ điển hình trong số hai nhà thơ nổi tiếng nhất của miền Nam giai đoạn 1945 – 50 thêm vào là Hoàng Tố Nguyên. Chúng tôi phân tích tỷ mỷ ba nhà văn điển hình: Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh và Lý Vân Sâm và nhà văn Dương Tử Giang.

Sau 1950, sáng tác của Vũ Anh Khanh (1), Hoàng Tố Nguyên không khác trước. Trên tuần báo Văn Nghệ (Hà Nội) thỉnh thoảng mới thấy một bài thơ của Hoàng Tố Nguyên được đăng; nhưng không có gì đặc sắc như vừa đề cập ở trên.

Thẩm Thệ Hà thành lập nhà xuất bản LÁ DÂU cùng với Nguyễn Bảo Hóa, nhưng không có tác phẩm nào đặc sắc (tính đến hôm nay). ĐỜI TƯƠI THẮM của Thẩm Thệ Hà tả mối tình văn nghệ, đề cao văn nghệ; nhưng tình tiết sắp đặt lỏng lẻo không rung cảm người đọc và nhất là cốt truyện bố cục chưa vững.

Tiết 2

DƯƠNG TỬ GIANG

(1914 – 1956)

Tên thật Nguyễn Tấn Sĩ, quê Bến Tre. Bạn văn với Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh , Thẩm Thệ Hà thành lập nhóm văn nghệ, dựa trên lập trường dân tộc chống xâm lược 1949.

Tác phẩm TRANH ĐẤU (truyện dài). Có tác phẩm xuất bản trước năm 1945 như Con Gà và Con Chó (tiểu thuyết), MỘT VŨ TRỤ SỤP ĐỔ (truyện ngắn, 1949), CÔ SÁU TÂM THUNG (truyện thơ, 1949) và các bài viết về văn nghệ quốc tế trên báo Thế Giới (tạp chí) cũng như các bài phiếm luận bàn về nhân vật mới trong tiểu thuyết phải có sức khỏe (santé morale danh từ của Dương Tử Giang).

Truyện của ông vì quá say sưa với tinh thần kháng chiến (đôi khi siêu mác xít) nên cực đoan. Chính điểm ấy người đọc tin rằng đó là sáng tác được chỉ huy; chất giả tạo phơi bầy rõ rệt, thiếu chất truyền cảm thực. Hầu hết các nhân vật trong tập truyện ngắn MỘT VŨ TRỤ SỤP ĐỔ xây dựng với kiểu cách như thế. Ở Đồng Sinh Đồng Tử (trang 21), ông muốn người tranh đấu đừng quá tin đàn bà.

Ở Ngày Độc lập, tác giả chưa phân tiùch rõ được tâm tình cởi mở của một tù binh được Pháp trả lại tự do như thế nào là phải là đúng? Và đôi khi ông muốn uốn nắn nhân vật theo chủ quan định hướng của tác giả, thành thiếu nghệ thuật.

Ở Một vũ trụ sụp đổ, tả thái độ một cô gái Bắc vũ nữ tên Nga với cách đối thoại không đúng với miền Bắc, mà tác giả muốn lồng tác phong của họ có địa phương tính, nói về lối sống của một cô gái miền Bắc. Vì thế ngô nghê và giả tạo.

Dương Tử Giang, nhà văn lý luận cơ sở sáng tác cho nhóm và là cây viết cực đoan nhất trong nhóm. Tiểu thuyết của ông không phải là tiểu thuyết có đặc tính truyền cảm độc giả qua nhân vật có cảm quan mà lồng lý luận máy móc vào; nên văn Dương Tử Giang ở TRANH ĐẤU cũng nhữ MỘT VŨ TRỤ SỤP ĐỔ chưa thành công trên địa hạt tiểu thuyết.

Nhưng ông là một cây viết lý luận vững vàng ở hôm qua và tiểu thuyết của ông chỉ là phương tiện văn dĩ tải đạo dẫn đến tiểu thuyết chính trị chưa đạt nghệ thuật cao.

Tiết 3

THẨM THỆ HÀ

(1923 – ....)

Tiểu Sử

Tên thật Tạ Thành Kỉnh. Sinh năm 1923 ở Trảng Bàng (Nam Phần). Sống trong gia đình tiểu tư sản nên chịu nhiều ảnh hưởng giai cấp và sau này phản ánh qua văn thơ. Học hết chương trình ban Trung học, ông để một thời gian nghiên cứu văn học quốc tế trước khi viết văn.

Năm 1942, bắt đầu viết đăng thơ rải rắc trên các báo. Làm thơ ký Thành Kỉnh, ông dùng tên thật ở ban đầu khi làm thơ. Tác phẩm đầu tay của ông là Vó Ngựa Cầu Thu, tiếp đến là Gió Biên Thùy, Người Yêu Nước (tái bản hai lần, Tân Việt Nam, Sài Gòn 1949) vv...

Năm 1953, ông bị động viên, thời gian trong quân ngũ, là chủ bút báo quân đội Quốc gia Phụng Sự. Năm sau, ông được giải ngũ, trở về viết văn và làm giáo sư văn chương các trường Trung học Sài Gòn. Ông còn là tác giả: Việt Nam trên đường cách mệnh tân văn hóa.

Tác phẩm mới xuất bản: Đời Tươi Thắm (Lá Dâu Sài Gòn, 1957).

Khuynh hướng – Đứng trong nhóm Lý Văn Sâm và là cây bút nghị luận, sáng tác trong trường phái lãng mạn cách mệnh. Những tác phẩm có luận đề ấy, Thẩm Thệ Hà phục vụ kháng chiến chống xâm lược ở miền Nam.

Phân tách tác phẩm chính – Nói đến Thẩm Thệ Hà điển hình trong tác phẩm, phải kể đến tác phẩm Người Yêu Nước. Cốt truyện gồm ba nhân vật: Vũ, Bão, Phượng. Vũ là con nhà quan, Bão là người cách mệnh thực thụ, Phượng là người yêu của Vũ. Nhờ Bão, Vũ từ giã triết lý sách vở để đi vào con đường chiến đấu trong hàng ngũ giải phóng dân tộc; khi Pháp đổ bộ vào Việt Nam, 1946 lấy cớ tước khí giới của Nhật. Phượng yêu Vũ, nhờ người yêu nàng cũng lao đầu vào cách mệnh. Qua nhiêu chặng đường chiến đấu, vào tù ra ngục; Phượng bị đi đầy (phát vãng) nhưng thoát khỏi án tử hình nhờ một đại úy Pháp. Kết luận Người Yêu Nước qua lá thư Phượng gửi cho Vũ, dù nàng ở trong trại cải hóa, nhưng không bao giờ cải hóa nổi lòng yêu nước của Phượng và bao giờ tình yêu tổ quốc cũng song hành với tình yêu Vũ đang chiến đấu ở phương trời xa.

Thẩm Thệ Hà hòa đồng tâm hồn người đàn bà bừng tỉnh vào giờ khởi điểm cách mệnh; rồi hướng dẫn họ tranh đấu dành độc lập.

Ông đưa nhân vật Bão làm điển hình cho vai trò lãnh đạo cách mệnh giải phóng ở miền Nam. Tâm trạng chiến sĩ ấy phải biết hy sinh, mặc dầu họ không hẳn là người khác thường, vẫn có tình yêu cá nhân, gia đình, đồng loại, xa quê hương biết vọng tưởng. Đây là một Bão, Bão của Thẩm Thệ Hà diễn tả lòng nhớ thương ấy, qua một đoạn văn linh động:

“… Có những đêm đứng tựa bên sông cửa, lòng tôi tha thiết nhớ quê hương. Chẳng rõ khi hay tin tôi bị bắt gia đình tôi sẽ khổ đến bực nào, những người bạn thân yêu của tôi sẽ lo lắng đến bực nào? Có lẽ họ tưởng tôi đã chết. Có người hẳn đêm đêm cầu nguyện cho tôi. Nhiều khi những ý tưởng rùng rợn đến với tôi, tôi nghĩ biết đâu một khi chết, tôi sẽ không được an nghỉ dưới miếng đất êm đềm của quê nhà, mà tôi phải vùi thây ở một phương trời lạnh lẽo, thân mình dẫy đầy những vết đạn. Tuy nghĩ thế, tôi vẫn không nao núng…” (trang 29, quyển tái bản kỳ 2).

Đoạn văn trên phân tách tâm lý đúng, không phải đã làm cách mệnh là không sợ chết. Sự khác biệt chỉ là biết mình chết nhưng vẫn hy sinh. Tình yêu quê hương của Bão khiến chúng ta nhớ đến một nhà cách mệnh Việt Nam đã từng ca tụng rằng: ở trên đời này tình bạn và tình quê hương là đáng kể nhất. Vũ là bạn Bão. Ảnh hưởng cách mệnh đã đưa tâm hồn Vũ đến xáo trộn. Khởi điểm của thức tỉnh là đọc sách chính trị giai cấp đối lập mà Vũ đang sống trong đó. Vũ là con quan, thì tất nhiên người cha phải bênh vực giai cấp thống trị. Khi thấy con đọc sách tả đối lập; ông Phủ bực rọc và bắt con theo mình bằng cách cho đọc sách chống tả đối lập. Thẩm Thệ Hà ghi lại ở đây một hình ảnh:

“… Ông Phủ, tay cầm một quyển sách thong thả bước vào. Mặt ông không có vẻ giận, cũng không có vẻ vui. Ông kéo ghế ngồi, đặt quyển sách lên bàn bảo Vũ:

– Mẹ con nói độ rày con ham đọc sách, nên cha đã chọn quyển này cho con đọc. Vũ liếc mắt nhìn lên quyển sách thấy hàng tựa MẶT NẠ CÁCH MẠNG...” (trang 34).

Đoạn này, ông đã làm tròn sự kiện nhận xét tâm lý và tận dụng mọi khả năng lột mặt nạ tâm địa ác độc bọn phong kiến.

Một vài đoạn ông viết rất tâm lý như tả tâm trạng một người làm cách mạng (giai cấp tiểu tư sản) phải sống với nhân dân ban đầu bỡ ngỡ, khó chịu:

“… Càng sống chung lộn với hạng bình dân, Vũ cảm thấy cái khó khăn của nhiệm vụ. Họ là những người yên phận, ưa tịnh, nhưng chàng phải kiên nhẫn lắm mới chịu nổi với tánh tình và cách sống của họ. Đừng ai cố bào chữa họ là một người tốt đẹp, đáng ca ngợi. Vũ đã lầm khi bực mình vì những tiếng chửi mắng nhau của họ suốt đêm vì những chuyện nhỏ nhặt như mất một cái quần hay dành nhau một trái ớt. Những chuyện trộm cắp thường xảy ra luôn, những cuộc đánh nhau một cách tàn nhẫn không thương xót. Họ sống như thế, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Họ không nhìn lên trời, không nhìn ra xa và không muốn gì khác hơn kéo lê cuộc đời như thế trong tăm tối…”

Điều động triết lý trong sách và ngoài đời (lý thuyết và hành động) Thẩm Thệ Hà nhắc cho người đọc thấy sự tiếp nhận nền triết lý giáo dục học đường cũng như sách vở khác hẳn nhau. Đoạn này khiến chúng ta nhớ đến đoạn kết ở truyện một người bạn đường của Maxime Gorki. Gorki tả cuộc sống đãng tử của ông hòa đồng trong sinh hoạt dân chúng với người bạn đưa đi cùng trong bốn tháng; khác xa hẳn mớ triết lý của bác học, triết nhân trong sách vở (Mon Campagnon– trong tập Vagabonds)(21) (Ed. Albin Michel). Thì đây, ở Thẩm Thệ Hà ghi lại:

“… Sự thật, không có gì là lạ. Nếu một bài học trong cửa ngục giúp cho anh Bão thành vĩ nhân, nếu những sự thật ngoài đời giúp cho anh vượt khỏi chỗ huyền vi của Mặc Tử đi tìm một tôn giáo khoa học, thì sự diệt hết dục vọng cá nhân của em (Phượng) để bước vào lề xã hội cũng là một sự thường” (Thư Phượng gửi cho Vũ).

Bức thư còn là đoạn kết cuốn truyện, Phượng bị đưa đi phát vãng, gửi thư cho Vũ; tạo cho người đọc buồn thấm thía; nhưng không vì thế tiêu cực. Đoạn văn đặc sắc nhất trong tâm thư ấy, khiến chúng ta cảm phục con người cách mệnh từ chối hôm nay nghĩ đến ngày mai và họ hy sinh thân họ đầu tiên:

“… Đêm đó, đời em bắt đầu sa vào tăm tối. Cánh cửa ngục chắn ngang cuộc đời tự do và cuộc đời tù hãm, ngăn cả tiếng gió lộng, ngăn cả ánh trăng xanh. Em còn đợi gì đây? Một ngày mai, người ta sẽ đưa em đến bãi đất hoang vu, lựa cho em một nơi yên nghỉ tốt và gởi cho em một phát đạn. Thế là hết! Em sẽ yên phận em, mặc cho trận cuồng phong dầy xéo trên mảnh đất thân yêu. Có cái gì chua xót động ở lòng em và trào lên mắt em. Em thấy tâm hồn em cũng đau thương như hồn nước. Một buổi em đang ngồi tĩnh tâm ở góc khám để hồn theo dõi những hoạt động của những người bạn xa. Chẳng hiểu anh Vũ hiện đang làm gì? Anh Bão đã rút quân đội về đâu?...” (trang 65).

So ưu và khuyết trong văn Thẩm Thệ Hà không là bao! Có lẽ nhiều khi nhân vật Thẩm Thệ Hà yêu nước quá nồng nhiệt đến nỗi đi đâu cũng vỗ ngực là đang làm cách mạng. Thái độ của Vũ chứng tỏ điều ấy trong Người Yêu Nước.

Văn Người Yêu Nước khô khan, thiếu hấp dẫn, nhưng đi vào chiều sâu con người. Nếu người đọc không nhận định được rằng cần phải theo dõi tác giả; thì có lẽ sẽ buông ngay từ đầu cuốn. Như vậy, chứng tỏ nghệ thuật viết tiểu thuyết Thẩm Thệ Hà chưa cao. Đôi khi nhân vật tiểu thuyết thiếu tự nhiên, có vẻ sắp đặt theo luận đề. Người Yêu Nước không gần gũi với mình thì lẽ tất nhiên thiếu tác động cảm hóa người đọc; mà chính ý định của tác giả là mong cảm hóa độc giả trong đường lối chính trị qua tiểu thuyết. Ông là nhà văn không giầu tình cảm, có lẽ một phần Thẩm Thệ Hà bị ảnh hưởng trước đã từng viết lý luận. Nói thế, không phải là nhà văn biên khảo hay lý luận không viết được tiểu thuyết hay.

Văn Thẩm Thệ Hà khô khan, nhưng ông cho rằng lối tả thực xã hội cần phải thế. Ông bênh vực sự thiếu nghệ thuật viết tiểu thuyết của mình bằng mấy lới thanh minh ở bài tựa: “Người Yêu Nước”.

"Nếu trong có vài đoạn tả tình, đó chỉ là tính cách lãng mạn cách mạng (Rr)(22). Các danh tác như Stribling, Ostrovski, Boris Gorbatov cũng thế...

Trong lúc cao trào cách mạng đang bốc lên, ông cho rằng nếu tả tình thì e lãng mạn, nên ông giải thích mong đừng hiểu lầm chăng? Sự thật thì nào đâu có thế, một La Mère (Người Mẹ) của Maxime Gorki, một Gorbatov viết Tình Bạn của hai người liên lạc với nhau trong điện thoại biết bao nhiêu là tình tiết sâu đượm, mà tình ấy còn thiêng liêng hơn cả tình yêu thanh xuân. Hoặc Constantin Paoustovski đã dùng lối tả tình cảm con người theo giác quan (đã có) và đồng hóa theo mình (diễn tiến hóa chủ quan định hướng) thì từ sự hướng dẫn ấy mới đem lại kết quả, nghĩa là người đọc thấy rằng tâm lý không xa họ bao nhiêu và cái kết thúc trong tương lai của họ phải như hoàn cảnh tương đồng tác giả hướng dẫn thì mới là nghệ thuật cao đồng hóa truyền cảm. Bất tất, ông phải giải thích như trên (Chuyến xe đêm của Constantin Paoustovski do Trúc Đường dịch).

Kết luận – Thẩm Thệ Hà và Dương Tử Giang là, nhà văn khác hẳn Lý Văn Sâm và Vũ Anh Khanh, nghĩa là ở bình diện tiểu thuyết họ chưa có nghệ thuật cao. Sự phân định rõ rệt trong nhóm có hai phe phản ánh sâu sắc trong văn của bốn tác giả trên. Lý Văn Sâm và Vũ Anh Khanh có lối văn của cây viết kháng chiến chỉ biết yêu nước không nhìn xa; viết những gì sống đượm nồng nàn của dân tộc chống xâm lược. Còn Thẩm Thệ Hà, con người lý luận đặt cơ sở sáng tác và sáng tác giải quyết kết thúc theo cương lĩnh đã đặt ra.

Tuy vậy, Người Yêu Nước của ông hòa đồng cách mệnh và hướng dẫn dân Nam Bộ yêu nước chống xâm lăng vào 1946 khi Pháp tái xâm lược Việt Nam.

Ngưới Yêu Nước chưa hẳn là cuốn tiểu thuyết phong phú tình cảm, đặc sắc; nhưng điều ấy không làm lu mờ được ý định có công của tác giả đề cao và hướng dẫn lòng yêu nước qua tiểu thuyết lãng mạn cách mạng.

Năm 1957, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết Đời Tười Thắm. Cuốn truyện này với bố cục lỏng lẻo, tình tiết nghèo nàn. Một lần nữa minh chứng Thẩm Thệ Hà chỉ là nhà văn có giá trị ở giai đoạn 1945–1950 mà thôi.

Tiết 4

LÝ VĂN SÂM

(1921 – 2000)

Tiểu Sử

Lý Văn Sâm là tên thật dùng trong các tác phẩm văn chương của ông. Sinh năm 1921 ở Tân Uyên vùng Sông Bé, thuộc Biên Hòa (Nam Phần) trong một gia đình trung lưu. Học ở Pétrus Ký (Sài Gòn) sau ở Hồ đắc Hàm (Huế). Thời gian này ông quen biết nhà văn Thanh Tịnh dạy học. Ngay lúc còn trên ghế nhà trường, ông đã tỏ ra là người có khiếu văn chương.

Năm 1947–48, Lý Văn Sâm là một trong hai nhà văn xuất sắc nhất ở miền Nam. Tác phẩm đầu tay của ông là Kòn Trô (Tân Việt). Ông đã có một kỹ thuật riêng biệt và nội dung truyện ngắn chững chạc. Ông viết cho các tuần báo miền Nam và Tiểu Thuyết Thứ Bảy của Vũ Đình Long ở Hà Nội (trước 1945) hoặc Việt Bút ở Sài Gòn. Ông còn viết kịch (VÀNG) diễn trên sân khấu, hoặc những vở khác đặc sắc như Sậu Lệnh, Trùng Dương, Đường Vào Xứ Phật... đăng trên báo Tiếng Chuông. Sau này ông cho xuất bản những truyện ngắn: Nắng Bên Kia Làng, Sương Gió Biên Thùy, Ngoài Mưa Lạnh... và nhiều truyện ngắn như Đời Tàn Trong Ngõ Hẹp đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy (truyện ngắn 1950), Một Con Chó Sủa Hóng Chiều Ba Mươi Tết (Giai phẩm Canh Dần), Một Cốt Truyện Mới (Xuân Vĩnh viễn, 1950).

Chúng tôi có trích đăng Tôi Viết Văn của ông đăng trên báo Xuân Sống Mới (1950, Sài Gòn) để hiểu thêm cuộc đời và văn nghiệp của ông:

"... Tôi vốn có khiếu văn chương từ năm tôi ngồi lớp nhất trường Biên Hòa. Tôi giỏi Việt văn là lẽ cố nhiên, nhưng tôi không có mộng trở nên văn sĩ sau này. Hồi ấy, tôi rất thích quyển Lời Hoa của Trí đức văn đoàn Đông Hồ tiên sinh ở Hà Tiên xuất bản. Tôi thích quyển ấy vì những ngọn gió quê, của những đồng lúa Tân Ba Biên Hòa thổi vào lòng tôi một cảm giác thơm ngọt ngọt và khởi cho tôi hồn văn của tôi một hứng thú mới. Lạ có một điều khi tôi lên học năm thứ nhất trường Lê Bá Cang, tôi không viết văn nữa. Có lẽ vì ông giáo Việt văn Trần Văn Hoàng (không phải là ông Nam-Vân) hồi ấy đã khiến cho giờ học chúng tôi thành ra buồn tẻ nên chúng tôi chán là phải.

Rồi cuộc xung đột giữa ông giáo Vĩ (trường Pétrus Ký) và tôi đã đưa đời học sinh tôi xa Sài Gòn. Tôi định ra Hà Nội học, nhưng rồi tôi dừng chân ở Huế, đặng vào trường Hồ Đắc Hàm.

Từ ấy, cảnh nắng vàng trên sông Hương và sương xanh trên núi Ngự đã đưa cái hồn lãng mạn tôi lên tuyệt vời. Tôi đâm ra yêu làm thơ vì tôi đã lấy nguồn thơ của anh Xuân Lữ (Nguyễn Khắc Lữ hiện ở Xiêm) tác giả tập thơ Tiếng Trống Trường.

Năm sau tôi qua trường Phú Xuân và chỉ thích đá banh ở sân S.E.P.H hơn là học hành. Là vì hồi ấy tôi sợ giờ toán như ngán thuốc bắc. Hồi ấy tôi ao ước học quốc văn với ông Hoài Thanh nhưng ông này lại dạy Pháp văn nên tôi bỏ học.

Một hôm anh Lê Mẫn, giới thiệu tôi với một người đàn ông còm lưng, trong bộ đồ nỉ xám hường và bảo rằng: “Đây là giáo sư Thanh Tịnh”.

Tôi biết Trần Thanh Tịnh từ đó.

(Nếu đến ngày nay có người bảo tôi rằng tôi viết văn có phần giống tác giả “Quê Mẹ” tôi xin nhận là đúng). Nhưng tôi lại không phải là học trò của Thanh Tịnh mà lại là bạn đồng mâm đồng chiếu. Người yêu Thanh Tịnh nhất không phải là tôi mà là anh Lê Mẫn. Trái lại, người mà Thanh Tịnh thương (xin hiểu nghĩa khác) không phải là Lê Mẫn mà lại là tôi. Là vì Thanh Tịnh thường nói: “Cái giỏi không phải là ở chỗ chăm học quốc văn mà ở cái thiên tài của anh. Rồi anh sẽ đi xa…” Chính hồi này tôi bắt đầu nghe lời Thanh Tịnh học viết đúng luật hỏi ngã.

Nhưng tôi vẫn không làm vừa lòng Thanh Tịnh vì tôi rất lười biếng. Qua năm sau, một thiên tài được nhiều người biết ở Huế lại là anh Trương văn Hai (Khổng Dương) tự lực xuất vốn in quyển thơ Ly Tao ở Huế và viết nhiều truyện ngắn cho các báo ở Hà Nội.

Tôi về Nam ít lâu, ham đọc sách hơn là viết. Cái thú bỏ nhà của tôi rất hợp với anh Lê Văn Đức (Huyền Đức) mà không hợp với tiếng gọi trở về gia đình của Thống chế Pétain.

Mãi đến lúc tôi thấy ba tôi cai quản lò than “Cái Thác Nước” ở Trị An, tôi rất thiếu bạn bè. Quanh tôi chỉ có rừng và thác. Trước mặt tôi, bút giấy là bạn. Tự nhiên tôi cần phải viết để quên buồn, chứ không phải để gởi đăng báo. Truyện thứ nhất hồi ấy là truyện Kòn Trô trong ấy tôi tả nỗi xa đời của một nhân vật bị đời xa. Viết rồi cất đó, để đọc chơi. Một hôm tôi cao hứng liền gởi bài ấy lại, nhưng không gởi đi báo nào cả. Bài thứ nhất nhắc tôi gởi đi Tiểu Thuyết Thứ Bẩy là bài Cây Nhị Sông Phố và bài thứ hai là Cái Ống Tiền. Đến khi nhận được một số báo, tôi mới biết rằng bài ấy sẽ được đăng. Tôi liền gởi tiếp bài Kòn Trô.

Tuần lễ sau tôi nhận được thư khuyến khích của anh Vũ Bằng. Không bao lâu chúng tôi trở nên đôi bạn thân , chỉ yêu quí nhau bằng thơ chứ không gặp mặt nhau lần nào hết.

Từ ấy, tôi ham viết, viết chơi chứ không bị sanh kế thúc bách như bây giờ”.

Tác phẩm chính – Kòn Trô (Tân Việt), Ngoài Mưa Lạnh (Sống Chung 1950), Sương Gió Biên Thùy (Tân Việt), Sau dẫy Trường Sơn (truyện dài), Lắng bên kia làng (truyện ngắn), Nga và Thuần (truyện dài – Phạm Văn Sơn Sài Gòn 1950) vv...

Hoàn cảnh xã hội ảnh hưởng đến tác phẩm –Cũng như Vũ Anh Khanh , Lý Văn Sâm đặt bối cảnh nhân vật trong một khung cảnh chính trị tương tự ở miền Nam Bộ. Vào giữa giai đoạn ấy đang bột phát tinh thần chống Pháp, bổ sung sự kiện tranh thủ độc lập cùng với Bắc bộ và Trung bộ.

Hầu hết các văn phẩm của ông mang đề tài kháng chiến chống Pháp, Nhật; bằng cách lôi cái xấu xa bỉ ổi của mặt trái đô thị (bas–fonds) và gián tiếp đề cao Giải phóng quân.

Ông viết nhiều truyện ngắn hơn truyện dài. Có thể nói rằng ông có hai truyện dài độc nhất đã ấn hành. Sau Dẫy Trường Sơn và Nga và Thuần. Truyện ngắn của ông đi sâu vào tâm lý hơn của Vũ Anh Khanh. Đánh địch, ông còn đánh vào tâm não con người qua nhát cuốc tâm lý thật sâu để rồi người đọc tác phẩm của ông nhìn thấy rõ hình tượng của con người khói lửa Nam bộ trong giai đoạn ấy.

Phân tách tác phẩm chính – Lý Văn Sâm thiên về ngành văn, những truyện ngắn của ông có sắc thái riệng biệt, một hình ảnh nhẹ nhàng bao trùm. Nếu so sánh truyện dài, truyện ngắn của Lý Văn Sâm SAU DẪY TRƯỜNG SƠN với NẮNG BÊN KIA LÀNG thì KÒN TRÔ, truyện ngắn đặc sắc hơn.

Chúng ta bắt đầu phân tách tập truyện ngắn đầu tay của ông : Kòn Trô (1949). Kòn Trô gồm những truyện ngắn: Thâm U và Cao cả (Thay lời tựa), Kòn Trô, Thần Ngư động, Xác Mu Mi trên núi đá, Răng Sa Mát, Voi đội đèn, Ngăn rạch bắt sấu, Mũi Tổ. Hai truyện đặc sắc nhất là Kòn Trô và Mũi Tổ. Sau Lan Khai, nhà văn thiên về truyện đường rừng, Thế Lữ với Vàng Và Máu; bây giờ chúng ta thấy có Lý Văn Sâm đi sâu vào việc khai thác tâm lý hình tượng sống người miền rừng Nam Bộ.

Kòn Trô là một truyện đường rừng, tác giả viết trong khi lên cộng tác với ông cụ thân sinh ở lò than Trị An. Tác giả chịu ảnh hưởng của núi rừng, hiu quạnh không bạn bè, nên viết lại cuộc đời của một tướng cướp bị đời quên lãng. Tác giả muốn nhấn mạnh : tình yêu rất dễ phá sự nghiệp. Một Từ Hải của Nguyễn Du vì cô Kiều mà bó tay về với triều đình, một Kòn Trô của Lý Văn Sâm bị một nàng thiếu nữ đẹp nghiêng sắc nghiêng thành đạp đổ sự nghiệp oai hùng vào một buổi hẹn hò năm sau: Tâm lý cô Kiều nào muốn giết Từ Hải, thì tâm lý Phụng có nỡ giết Kòn Trô đâu ? Phụng đi qua thác Mu Mi bị lạc. Gặp một tướng cướp ở khu rừng này, nàng bị sa tay vào đất đai của họ. Tướng cướp đối đãi với Phụng rất tử tế. Phụng định tâm giết tướng cướp, nhưng không thành. Tướng cướp hỏi tại sau nàng lại muốn giết Kòn Trô thì nàng giải thích tự muốn thoát vòng vây. Rồi tướng cướp thả người đàn bà đẹp ấy. Tình đầu chớm nở hẹn nhau đến mùa xuân năm sau. Ba năm sau Phụng có chồng lại đi qua thác ấy. Chồng nàng kể cho nàng nghe, Kòn Trô không còn ở đây nữa bị bắt vì một cô gái đẹp. Kòn Trô hứa với nàng gặp lại vào năm sau, vô tình cô ấy kể cho bạn nghe và hai cô bạn báo tin cho ông đồn Châu Mạ. Kòn Trô sa lưới.

Chúng ta nghe Lý Văn Sâm tả đoạn Phụng sa vào trại Kòn Trô và hình dung của một tướng cướp trẻ tuổi hiên ngang của một góc trời :

“… Nàng vừa hỏi vừa đưa mắt nhìn người đàn ông từ đầu đến chân. Gã còn trẻ lắm. Mặt tròn, mắt sáng, đôi môi lúc nào cũng dành sẵn một nụ cười. Màu da ngăm ngăm đen, láng như đồng tỏ rằng gã có nhiều sức mạnh. Gã mặt theo kiểu những người đi săn: đầu đội nón vành lớn, chân đi ủng da đen. Trông gã oai nghi hùng dũng lắm..." ( trang 18 – 19).

Đoạn tả cảnh về xử thế của tay tướng cướp trẻ tuổi, thông minh; Lý Văn Sâm cho độc giả phải suy nghĩ, tỏ thái độ sau khi đọc “như thế mới là tướng cướp:”

"...Phụng xem Kòn Trô không dữ tợn như người ta tưởng, nên lòng cũng bớt lo. Lại nghe chàng nói năng lịch thiệp thì nàng không tin rằng con người ấy là một kẻ đã là tướng cướp của, giết người.

Thấy Phụng ra chìu tư lự , Kòn Trô nói với nàng:

– Bà hãy yên lòng đừng nghĩ xa xuôi gì hết. Tùy bà muốn đi lúc nào cũng được, hay bà ở đây tôi xin sẵn sàng tiếp đãi bà như một quý khách. Bây giờ xin mời bà ra trại ngoài dùng bữa sáng với tôi rồi tôi sẽ đưa bà đi viếng những vùng quanh đây. Trong trại tôi có rất nhiều ngựa tốt.

Phụng nghe ruột đói như cào, liền mạnh dạn bước theo Kòn Trô ra trại ngoài " (trang 20).

Tả đoạn một chàng trai trẻ dẫn một nàng đang tuổi thanh xuân dạo quanh vùng rừng, và chàng kể cho nàng nghe cảnh hùng vĩ bản doanh. Nàng lắng tai nghe say đắm. Lý Văn Sâm tỏ ra rất thành thạo tả một tay tướng cướp lý tưởng trong giao đoạn tranh tối tranh sáng ấy :

“… Hai người xuống ngựa, trèo lên đồi. Lên tới đỉnh Phụng mệt ngất tựa mình vào một thân cây. Kòn Trô lấy nón quạt mát cho Phụng.

Ve sầu ra rả trên các ngọn cây cao. Tiếng chim chóc vui ca trong nắng hạ, Phụng chóa mắt dòm khắp bốn phía. Hơn sau chục cái nhà sàn giống nhau vây tròn lấy trái núi.

Kòn Trô nói với Phụng:

– Bọn thủ hạ của tôi hơn một trăm người đều sống chung với nhau trong những căn trại ấy. Họ toàn là giống mọi Châu Mạ (Tcau Mạ) gan dạ và đanh thép.

Tôi dùng họ rất được việc mà bọ rất trung thành với tôi. Tôi bảo chết, họ chết. Tôi bảo sống, họ sống. Họ thương tôi và kính thương như cha.

Bà nghĩ lòng khắng khít hơn lòng thương của những kẻ vô gia cư, không cha, không mẹ, thân thích và cuộc đời gần giống in như nhau. Không cần phải cắt máu ăn thề mà họ ăn ở với nhau niềm chung thủy. Ấy cũng bởi sự chung đụng trường niên nó gây cho cái giây đoàn thể bền bỉ, không ai có thể cắt được. Ở đây, không có sự phản bội, không có sự man trá, không có sự ghen tị nó làm cho người ta phải cực lòng lo nghĩ vì nhau. Tâm hồn họ đã hòa hợp cùng cây cỏ hoang dại… ( trang 21).

Chúng ta cảm thông một sự kiện của thái độ bọn cướp. Không phải là bọn cướp vô lương tri, mà là bọn cướp tổ chức có hệ thống, nội quy, hành động thống nhất. Giữa giai đoạn nước bị thống trị, đã có kẻ bất mãn ra đi, bỏ làng mạc, bỏ phố phường, bỏ quê hương, để mưu tính cuộc đảo chính chống cường quyền thực dân. Nhưng đâu phải chăng thành công cả, được làm vua, thua làm giặc, hùng cứ một phương thì đã là kẻ bất đắc chí trong một hạn định nào đó của cao độ:

“… Bà coi. Bọn chúng tôi trồng khoai, cấy lúa, gieo bắp, gây riêng một thế giới phóng khoáng, xa hẳn gió bụi chốn kinh kỳ. Chỉ vì một năm gạo thừa lúa kém, chúng tôi phải ép lòng đón giật của và cướp kho lương của ông đồn tại đây. Từ đó, tôi chỉ bạo động trong một năm ấy thôi, rồi thì, cái ác tùng thiện, trở về chốn cũ, cầm lại cái cầy, quơ lại cái cuốc, sống một cuộc đời lương thiện như những kẻ nông dân. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại bị bao vây, nhưng vì không thuộc đường lối nên trăm người vào đây, khó mà trở về cho đủ. Cuộc đời tôi, từ đó càng ngày càng nặng tội, càng lem luốc, càng ngày càng xa nhân loại. Người đời cho bọn tôi là một lũ quỉ sống, uống máu người không tanh…(trang 22–23).

Qua ít ngày đôi trẻ thân mật, giai đoạn chớm yêu nẩy nở, thì phút ra đi lại là phút khiến lòng người buồn thảm. Lý Văn Sâm tả cuộc biệt ly ấy rất đẹp:

“… Có cuộc tống biệt nào mà không làm bằng nước mắt và có cảnh chia rẽ nào lại không có ly bôi. Cô uống chén rượu này gọi là chén rượu kỷ niệm buồn chia tay này vậy… (trang 25).

Và chính giây phút tình yêu của Kòn Trô đã tiết lộ sự chết đến sau một cách vô tình bởi lời hứa hẹn. Giây phút Kòn Trô buồn, giây phút Phụng sầu man mác; thì vẫn là pha cuối cùng của xen từ biệt:

“… Phụng làm thinh. Lòng nàng hiu hiu một cảm hoài nhè nhẹ. Nàng thấy mình chỉ thương hại Kòn Trô thôi. Tuy nhiên nàng cũng an ủi chàng:

– Mùa hè năm sau, em sẽ tìm về đây thăm anh. Một năm có là bao…

... Kòn Trô cảm giác như mình ngồi trên ngựa không vững nữa. Trời sáng mau quá. Kòn Trô không giữ được cảm động, ngùi ngùi ngâm lên, như một người say rượu..."

Và còn đó một cử chỉ âu yếm nhất của đôi trẻ yêu nhau. Tình yêu ấy đẹp như bài thơ hay. Lý Văn Sâm u hoài tặng thêm người đọc một cảm giác nữa, vẫn muôn vàn sầu nhớ:

“… Phụng vẫn cúi mặt, im lặng. Những loạt lá trổ đổ xuống ào ào phá tan sự im lặng giữa hai người.

Bỗng Phụng ngẩng mặt lên chăm chú nhìn Kòn Trô. Thiếu niên (23) cảm giác như trái tim mình ngưng đập. Rút một chiếc khăn tay ở túi ra, rồi hái một đóa trang rừng gói vào trong, Phụng mỉm cười nhét vào tay Kòn Trô để làm trọn một cử chỉ xã giao.

– Đây. Em chỉ có cái này làm kỷ niệm. Anh hãy giữ lấy nó đừng làm mất, em bắt thường đó.

Kòn Trô đưa hoa lên mũi. Nước hoa tẩm trong chiếc khăn tay thoảng một mùi hương nhè nhẹ, thơm như mái tóc của một giai nhân. Lúc ấy đúng vào mùa hoa chai nở. Những cánh hoa li ti điểm trắng rừng xanh, lờ mờ như có một lớp tuyết phủ. Mặt trời đỏ chói, trồi lên sau ngọn Bạch hổ sơn, rực rỡ như một vừng hào quang tỏa quanh đầu đức Phật.

Phụng ngước mặt nhìn trái núi. Ngọn Bạch hổ sơn hình như cũng đang nhìn nàng. Phụng nói:

“Suốt đường về, mắt em sẽ không rời ngọn núi tri kỷ này…”

Đoạn kết đưa người đọc đến với thái độ rút kinh nghiệm; mà từ cổ đến kim vẫn chẳng khác nhau là bao! Là tướng cướp còn có khi mềm lòng, vô tình thổ lộ yêu đương, quên cả mục đích, để rồi sa vào lưới kẻ thù. Lý Văn Sâm còn cho người đọc thưởng thức một cảm giác đẹp nữa, trước khi dẫn đến sầu thảm.

Đoạn tả tình cảm dĩ vãng sống động khi Thể Phụng qua thác Mu Mi với chồng:

“… Rồi chợt nhớ ra điều gì, nàng giật mình chớp lia đôi mắt ướt. Lờ mờ trong dĩ vãng xa xăm, nàng mang máng sống lại cảnh một đêm sương của mùa hạ cũ. Hình ảnh một chàng trai trẻ đã đưa nàng qua những tấm rừng dày về thác Mu Mi, bỗng hiện về trong trí nhớ. Niềm cảm xúc reo động trong quả tim non, sâu sa và thấm thía vô cùng. Có ai ngược về lối cũ của thời gian mà không thấy lòng mình bối rối rung động, khi dòng tư tưởng ngưng lại ở một quá vãng quá khứ đầy kỷ niệm…”.

Kỷ niệm là vật vô hình, linh thiêng vô biên hóa. Dù xã hội đổi thay, hoàn vũ thay đổi: nếu con người còn mang kỷ niệm thì kỷ niệm còn sống sâu đượm mãi trong thâm tâm theo năm tháng, kỷ niệm còn tồn lại theo tháng năm dài. Đoạn kỷ niệm của Kòn Trô khi chết còn úp tấm khăn của người đàn bà tặng (Thể Phụng) lên mặt trước khi chết, Lý-Văn-Sâm đã không bỏ quên:

“... Kòn Trô quả thật không thẹn với tên. Thật là một người anh hùng dũng mãnh. Tuy khắp người bị thương, nó cũng còn sức ngồi trở mặt ra phía đuôi ngựa, thúc chân một cái, con tuấn mã nhảy khỏi vòng vây. Con ngựa phi nước lớn. Nó ngồi trên mình con thú tinh khôn nhắm bắn ngã luôn mấy người lính đồn rồi kiệt sức, rơi nhào xuống ngựa. Người ta xúm lại quanh nó. Nó nằm ngửa trên mặt lá ủ, mắt mở trừng trừng. Lúc người ta sắp khiêng nó đi thì nó xin nán lại vài phút. Đến khi nghe tiếng kèn xe hơi của ai vọng lên ở xa xa, nó mỉm cười mấp máy đôi môi. Nó đưa một chiếc khăn tay đàn bà cho ông đồn và ra biểu hiệu đắp dùm mặt nó. Đem “Kòn Trô” về đến đồn thì nó chết...”(trang 33).

Kết quả của cái chết là do ở truy nguyên lụy tình ái. Nhớ một Hồ Tôn Hiến và Kiều; một Từ Hải của Lý Văn Sâm là nhớ một Thể Phụng, con một quan Châu:

“… Vì quá nặng lòng trìu mến nàng, nó còn hẹn với nàng rằng nó sẽ theo và tiễn chân nàng một lần chót trên đoạn đường về. Cũng bởi mạng nó đã cùng nên mới khiến cô nữ sinh kia đem khoe chuyện ấy với hai bạn học cùng lớp. Hai người kia lên báo tin cho ông đồn Châu Mạ hay…” (trang 37).

Nữ sinh bảo với bạn và người bạn đó là vợ của người đang kể chuyện bây giờ. Chồng nàng không biết nữ sinh đó chính là Thể Phụng. Và chính cách diễn tả tâm lý của Lý Văn Sâm vững, bố cục chặt chẽ đem lại cho người đọc một xen hồi hộp. Đoạn kết về cô nữ sinh kia nghĩ thế nào về chuyện ngày xưa ấy:

“… Thiếu phụ ngước mắt lên. Núi Bạch Hổ đứng cũng trong một cõi mịt mù của khói ngàn xanh xám. Một miếng mấy trắng quấn qua đầu đỉnh non xa như một bức khăn tang. Hình ảnh trái núi kia, trải bao nhiêu năm cách biệt, vẫn còn nguyên vẹn như tấm lòng không thay đổi của một người tri kỷ.

Thiếu phụ chùi mắt nói với chồng:

Nắng hạ gay gắt quá làm em chói mắt, khó chịu. Mình coi đây. Nước mắt em cứ ràn rụa mãi thế này …”(trang 34).

Nghệ thuật viết của Lý Văn Sâm ở chỗ tả cảnh thiếu phụ khóc mối tình xa xưa bằng giọng văn vô vàn thiết tha và tinh tế. Người chồng làm thế nào mà hiểu được vì nắng hạ mà vợ đã khóc một đời chồng lý tưởng của tuổi thanh xuân. Hầu hết tập truyện KÒN TRÔ là chuyện đường rừng, điển hình nhất là KÒN TRÔ. Bây giờ phân tiùch tập truyện ngắn nhiều mầu sắc xã hội, rất sâu tâm lý. Đó là tập NGOÀI MƯA LẠNH.

Ngoài Mưa Lạnh (1950) gồm những truyện: Ngoài mưa lạnh, Vực thẳm, Tàn một mùa ve, Ngàn sau sông Địch, Nửa mảnh ngân tiền, Đờn Chìn Kha La, Một cốt truyện mới, Thèm một ngọn đèn, Oan Gia, Mưa Sài Gòn, Ngày ra đì. Truyện hay nhất tập cuốn là truyện tiêu đề cuốn sách (Ngoài Mưa Lạnh), đến Ngàn sau sông Dịch và Thèm một ngọn đèn.

Ngoài Mưa Lạnh, tác giả tả một đôi vợ chồng làm văn nghệ. Chồng ngâm thơ, đọc báo cho vợ nghe tin một người chết ở Đường Hai Mươi(24). Lâm, nhà văn bảo vợ: Thố tử hồ bi thì vợ cho là những chuyện không đâu, việc gì hoài nước mắt khóc người dửng dưng.

Hai vợ chồng đem đề mục đó thảo luận mãi. Khi đêm khuya có tiếng người đi qua. Lâm và vợ lắng tai nghe. Người gọi cửa là một kẻ bị đạn lạc gõ cửa nhà hàng xóm. Và người bị đạn ấy cũng chẳng gõ cửa nhà Lâm. Nhưng chính sự kiện ấy, đưa đến ý nghĩ buồn trong thâm tâm Lâm. Lâm thức suốt đêm trước trang giấy trắng. Cốt truyện rất giản dị. Nhưng ông đưa ra được nhiều ý mới. Là kẻ ăn cắp, nếu đối với những kẻ học mọt sách luật thì sẽ khép án bị tù theo điều khoản nào? (luật cứng dắn–constitution rigide). Nhưng đối với thẩm phán có tâm hồn là thẩm phán có tư tưởng tiến bộ, cách mệnh linh động hóa vấn đề, xét việc không bị đóng trong khung nhất định, tránh được chỉ biết mình, không quan liêu tính – (bureaucratie) thì lại khép án khác (có thể là luật mềm dẻo–constitution souple). Chúng ta cùng đọc: “… Nếu kẻ khốn nạn ấy là một kẻ trộm thì cũng không có gì đáng ghét. Giữa lúc ta no cơm ấm áo ngồi đây, ta rất lấy làm yên ổn. Ngày mai ta thức dậy, ta đã có gạo rồi. Nếu ta không có gạo ta sẽ vay hàng xóm hoặc ta sẽ bán đi một cái áo, một cái quần để qua cơn túng ngặt. Còn kẻ bạc mạng kia biết đâu đã nhịn đói trong bao nhiêu ngày giữa một cơn kịch bệnh không người săn sóc thuốc thang. Đêm ấy giữa lúc đồng bào gã yên việc sau khi đã no cơm, no cháo, no sắc đẹp, và kim tiền thì gã vì sự đòi hỏi thúc bách của dạ dầy đến nỗi phải trả nợ đời trong tiếng súng…(trang 11).

Ở Lý Văn Sâm, nói riêng bao giờ cũng kết tội cá nhân cho xã hội trách nhiệm. Điều ấy là thái độ tiến bộ của nhà văn. Đành rằng không thể ngồi không mà đi ăn cắp rồi đổ tội cho xã hội – đi làm mà không có việc – đi làm mà không đủ ăn – bị bóc lột thặng dư – trong lúc thúc bách đòi hỏi – nói chung – mà mình không được hoặc bị được giải quyết theo hoàn cảnh cấp thời. Cho nên nếu cứ áp dụng luật A là thế này, B là thế kia; không tùy hoàn cảnh biến hóa thì sự kiện, hậu quả lịch sử tiến bộ sẽ lạc hậu dần đi. Thí dụ, một cái cửa bao giờ cũng phải là hình chữ nhật ngắn 1 thước 5, dài 2 thước thì chẳng bao giờ có khuôn cửa hình cánh cung (arche), hoặc hình tròn hình vuông cả. Một cái nhà bao giờ cũng phải theo khuôn khổ nhất định có mái dốc mới là nhà thì làm gì có mái bằng. Tất cả sự chống lại hoặc thắng lại sự kiện cũ là cải tiến. Với kiến trúc sư dựng nhà không mái là có óc tiến bộ. Và bây giờ trở về với vai trò thẩm phán xử án cũng phải tùy thời cải biến luật là có tư tưởng tiến bộ. Và như vậy sống để còn có nghĩa phục vụ cái đẹp (Nhân sinh phục vụ nghệ thuật–Vie pour Art).

Ngoài Mưa Lạnh, truyện ngắn nhiều mầu sắc tiến bộ linh động hóa vấn đề cần phải thay đổi.

Đến Ngàn sau sông Dịch, Lý Văn Sâm tả một gia đình nghèo túng tiếp bạn đồng hành thất cơ lỡ vận. Trọng và vợ con thường thường hay giở tập ảnh có chân dung một người bạn rồi hỏi “ Đây bác Cương của bây đây…”. Không những Trọng, vợ Trọng mà các con Trọng không thể quên chân dung người bạn ấy. Thế rồi một buổi Cương đến nhà Trọng ở. Ban đầu còn đằm thắm, tình bạn tha thiết, nhưng từ nửa tháng về sau, vì quá nghèo; nên Trọng phải cho vợ đưa tiễn người bạn bằng bài diễn văn mà Cương cho là hỗn láo. Buổi trưa hôm ấy, Trọng đi làm về nhưng không dám về nhà, đứng bên bờ lau chờ bóng bạn khuất nẻo sau bãi lau thưa.

Sự diễn tiến tâm lý, tình cảm theo đúng giác quan đi đôi với thực tế, nghĩa là cuộc sống eo hẹp nên xử sự với nhau thêm nhẹ bớt phần thân, rồi đi đến táng tận lương tâm. Lý Văn Sâm nhận xét tỉ mỷ, diễn đạt sâu sắc, ông rất thành công trong loại tân truyện tả chân mới (néo–réalisme). Nhập đề, ông tả sự mong chờ của người bạn (Trọng) đối với người bạn tri âm (Cương):

“…Trong những buổi mát trời sau bữa cơm chiều, Trọng thường giở cuốn sách dán nhiều hình chỉ cho các con thấy chân dung của một người đàn ông rồi bảo :

– Đây, bác Cương của bây đây.

Ba đứa trẻ không biết bác Cương là người thế nào đối với chúng, nhưng chúng cứ nghe ba chúng nhắc nhở tới hoài thì cũng đâm yêu người đàn ông có đôi mắt sáng trong cuốn sách dán nhiều hình của ba chúng…”(trang 43).

Đến những phút vợ Trọng phát cáu vì lẽ lúc nào chồng và con cũng nhắc đến bác Cương, cũng có phút vợ Trọng phải thừa nhận con người trong ảnh có một dung mạo hiên ngang. Chúng ta đọc:

“…Tay này không phải vừa, đôi mắt trông sáng quắc như ông tướng hát bội. Và chồng sung sướng về vợ mình thừa nhận có một người bạn khác thường. Trọng cao hứng liên tưởng đến quá vãng :

“…Mình nói đúng. Cương quả là tay chọc trời khuấy nước, lại có tài đóng những vai anh hùng nghĩa khí trong những vở kịch.

Tôi còn nhớ trong một vai Kinh Kha. Tôi lãnh vai Thái Tử Đan. Sân khấu bầy một cảnh sông nước mênh mông. Ấy là bến Dịch Giang. Tôi đứng giữa một đám tân khách, ráng hết gân cổ ngâm:

“Nước sông Dịch cho dù không lạnh

Cũng rét lòng ta đến não nùng…” (Trúc Khanh)

Đám tân khách và tôi đều mặc toàn áo trắng. Trong vai Kinh Kha, anh Cương đã làm cho khán giả cảm động. Người tráng sĩ hắt chén rượu xuống sông Dịch sang Tần… (Trang 46–47).

Và người chồng bao giờ cũng mong mỏi người bạn ấy sẽ về ở với mình. Tâm lý rất đúng, vọng một người bạn ở xa thì có thể chia ngọt sẻ bùi, thề nguyện sống chết có nhau:

“… Mình ơi! Giá bây giờ anh Cương có về thăm tôi và ở luôn đây thì vui biết mấy. Chúng ta sẽ diễn lại cho mình xem cảnh Thái tử Đan tiễn Kinh Kha qua sông Dịch Thuỷ…” (trang 48).

Và cuối cùng, tiếng vọng của Trọng đã đưa đến ý muốn từng mong đợi trong tiềm thức. Có người gõ cửa:

“… Đêm ấy là một đêm cuối mùa mưa. Trọng đang cắn bút để tìm một tứ mới cho bài thơ sắp thành hình bỗng nghe có tiếng đập cửa cấp bách. Trọng vội vàng đứng lên, che bớt ánh đèn rồi cẩn thận hỏi:

– Ai đó?

Tiếng bên ngoài:

– Tôi đây, Trọng.

Nghe tiếng kêu đúng tên mình, Trọng toan mở cửa thì thấy vợ chàng khoát tay ra hiệu bảo đừng. Trọng đang lưỡng lự thì tiếng nói bên ngoài lại tiếp:

– Trọng ơi! Cương đây, mở cửa mau lên…(trang 50)”.

Kết quả của một sự mơ ước đã toại nguyện thì tình cảm con người đối xử với nhau không còn tốt đẹp nữa. Mặt trái của tình thương yêu ấy, khi đã chung đụng rồi thì:

“…Vợ Trọng bắt đầu thấy khó chịu. Chị đã nói cảnh khổ của mình cho hàng xóm nghe. Và sau cùng, nhân một đêm tâm sự, vợ Trọng thỏ thẻ bên tai chồng:

– Mình ơi. Em không phải là con đàn bà kém lịch sự. Nhưng anh nghĩ mà coi, nhà không đủ ăn, lại chật hẹp… (trang 51)”

Khi người đàn bà tức bực thì rất ít chịu đựng. Thường thường đàn bà nông nổi được phán xét qua ca dao có câu: Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu. Khi đã không nói được uất ức của mình cho chồng con nghe và chưa hả thì sang nhà hàng xóm giãi bày. Ông đã nhận xét rất tế nhị. Rồi đi đến kết quả cuối cùng của sự yêu mến bạn là Trọng đành lánh mặt:

"Không biết vợ chàng đã dàn xếp ra sao mà hồi gần trưa Trọng đứng rình ở bên sông, thấy bóng Cương lủi thủi xuống đò...".

Và tâm trạng đau khổ của Cương:

“… Anh Trọng. Cương muốn nán lại chờ Trọng nói ít lời từ biệt. Nhưng Cương liệu không thể nào ở lại được nên đành mang lỗi với Trọng vậy. Vợ Trọng hỗn quá…”.

Nhưng Cương chỉ sống vì Trọng thôi. Đàn bà kể gì (trang 52).

Cương còn dành lại phong thư cho con Trọng: những người cháu quý mến Cương. Cương ra đi vì lệnh ông không bằng công bà. Lá thư để lại vô cùng cảm động:

“… Cháu Nhân, Chú rất đau lòng khi phải từ giã cháu, Đây chú hiết tất cả gia tài của chú dành cho cháu ăn bánh.

Trưa nay, khi Nhân về thì chú đã đi xa rồi. Quả đất tròn thì rồi chú cháu mình rồi sẽ gặp nhau…

Cháu Nghĩa và cháu Tín,

Đây chú biếu hai cháu quyển vần quốc ngữ. Hai cháu rán qua vần ngược nhé. Sợ khi chú đi rồi, hai cháu sẽ bỏ học, nên chú phải mua cho hai cháu cuốn vần. Thôi chú đìa chú đìa (trang 53).

Lý Văn Sâm đưa người đọc cùng thưởng thức đoạn buồn như ngắm chiều xuống trên bến sông cô liêu. Chẳng qua tất cả cũng chỉ vì nghèo:

“… Chiều nào Trọng cũng dẫn bầy con ra đứng bờ sông để chờ mong một người. Nhưng khách bến đò toàn khách lạ. Trọng nhìn mây khói cất lên ở chân trời thở dài…”(trang 53).

Thèm một ngọn đèn, cũng là cảnh sống bi đát của người văn nghệ mà xưa kia Nguyễn Vỹ đã ta thán: Thi sĩ Việt Nam khổ như chó. Lời thơ không quá đáng, người văn nghệ xây đắp một phần lớn cho xã hội tiến bộ, cho cách mệnh, cho hòa bình, cho độc lập, tự do nhưng là người chịu đau khổ riêng nhiều nhất. Thậm chí sốt sắng bênh vực quyền lợi cho giai cấp khác; nhưng chính giai tầng mình bị bóc lột, rẻ rúng thì để mặc hoành hành…

Trong các nhà văn miền Nam, Vũ Anh Khanh thường tả lý tưởng vô vàn tốt đẹp của nhà văn nghệ, nghĩa là cái đẹp ở văn nghệ là lẽ dĩ nhiên rồi (thượng tầng kiến thiết). Còn Lý Văn Sâm thiên về cảnh khổ não, chật vật của văn nghệ (hạ tầng cơ sở).

Trong Đời tàn trong ngõ hẹp, Lý Văn Sâm nêu lên một thực trạng của kiếp tơ tằm như thế nào? Chết vì không có tiền mua thuốc khi ốm đau, tiền bài có, nhưng chủ báo chưa chịu thanh toán. Thì đến Thèm một ngọn đèn Lý Văn Sâm giãi bày hoàn cảnh đời sống văn nghệ qua nhiều khia cạnh sống thực người văn nghệ.

Huyền, từ giã khám đường vì lý tưởng độc lập chiến đấu khi được giải phóng lại lo nghĩ về hoàn cảnh trắng tay bản thân. Nghèo khổ để rồi phải gạt nước mắt cho vợ về quê sống, còn Huyền lang thang trên trên vỉa hè đô thị. Huyền hứa với vợ con trong một thời gian ngắn đi làm sẽ cố gắng thuê một gian nhà lá ở ngoại ô; sau đó đón vợ con lên. Mười bốn tháng trời sống nhà bạn, không đủ tiền để mua lấy một ngọn đèn (cả nghĩa bóng và nghĩa đen).

Chúng ta đọc đoạn kết của truyện. Đây là trong muôn vàn kiếp sống người văn nghệ; như Maxime Gorki, đại văn hào Nga, cho rằng họ đã hoàn thành một nửa cuộc cách mệnh thành công:

“… Trong một bức thư gần đây, vợ chàng đã viết: “Mình ơi! Mình ráng kiếm một cái nhà riêng cho mẹ con xuống ở. Mỗi lần đi thăm mình, tốn kém tiền xe lắm mà có được ở lại đêm nào để nói tâm sự với mình đâu! Chợ búa bây giờ ế lắm. Em bán buôn một ngày một thua lỗ. Thằng Hùng đau yếu phải chạy thuốc từng ngày. Ngực em bây giờ đau lắm. Em sợ tránh không khỏi chứng ho như chị em độ trước.

Mình tệ quá! Làm gì mình không sắm nổi một ngọn đèn. Em đã mua cho mình một cây đèn nhỏ, thắp ít hao dầu, đỡ tốn cho mình. Chừng em xuống em sẽ đem xuống cho.

Huyền nghe lòng đau buốt. Vợ chàng không hiểu nghĩa bóng của câu “anh ao ước một ngọn đèn” trong thư chồng đã viết cho vợ.

Chồng thương thân, lẩm nhẩm một mình:

– Mười bốn tháng rồi, mình chưa sắm nổi một ngọn đèn…” (trang 91).

Sau dẫy Trường sơn truyện dài, một truyện dài độc nhất ở hôm qua và hôm nay của Lý Văn Sâm không chừng? Giai đoạn 1945–1950, Lý Văn Sâm viết truyện dài không xuất sắc bằng truyện ngắn, hãy cùng tóm lược cốt truyện để hiểu bố cục, đạo diễn tâm lý nhân vật của tác giả.

Hai vợ chồng có đứa con trai 16 tuổi là Quý. Sống trong giai đoạn trước đại chiến thứ hai ở lãnh thổ Việt, Nhật và Đồng Minh giao tranh; nên hai vợ chồng Phú có ý định rời sang Lào, miền Paksé (Sau dẫy Trường Sơn). Từ Sài Gòn đến Kratie, Cao Miên rồi đến Paksé. Quí có người bạn gái Ánh Mai (người Lào ở Việt) cùng tuổi rất tương đồng.

Phú có người bạn là Tùy ở Paksé nên lên đó nhờ và đồng thời cũng là có phương tiện tuyển mộ nhân công (Phú làm cho Nhật) , Quý luôn luôn viết thư cho Ánh Mai.

Sống ở Paksé ít lâu, Phú có một người khách trú đến ngủ nhờ rồi chết ở đó. Theo tiếng đồn đại, Tùy biết là Phú được người xấu số trao cho một bản đồ giấu vàng. Tùy rủ Phú đến một nơi nguy hiểm và đẩy Phú xuống hố sâu. Mẹ Quý buồn vì con qua đời và cũng qua đời. Một hôm, Quý nhận được thư, Quý phải về Paksé vì Nhật sắp tiêu diệt bọn cùng cánh với họ để tránh tiết lộ bí mật. Trong thư dặn đến nơi trú ẩn thì sẽ bắt gặp người thân. Quý gặp Phú bất ngờ. Sau bố Phú kể cho nghe tại sao Phú không chết và Tùy đã nhầm tưởng bản đồ kia là kho vàng nên trốn biệt tích. Kho ấy chỉ là kho súng của một người mua khí giới chôn dấu, trước khi ông chết cho Phú ý muốn cảnh tỉnh Phú vào con đường tranh đấu chống đế quốc. Sau Tùy chết. Quý nhận được thư của Mai báo tin. Và cả tin cha mẹ Quý qua đời, hiện nay nàng đang ở trong một cơ quan cứu thương, mong một ngày kia người yêu sẽ là chiến sĩ, để chính nàng được săn sóc. Cốt truyện bố cục không lỏng lẻo và có mục đích chống đế quốc; nhưng tình tiết sắp đặt không ăn khớp với nhau. Tỷ dụ những lá thư của Quý (16 tuổi) ở Paksé gửi cho Mai viết như một chính trị gia lỗi lạc, tài ba, hay một sử gia thuộc lịch sử thế giới viết. Chúng ta nghe:

“… Giống người Thái vào đất Thục, sanh sản nhiều thêm rồi xuôi giòng sông Mé–nam tràn xuống cõi bình nguyên lập nên nước Syam, đóng đô ở Ayuthia, sau rời Bangkok.

Một số người Thái khác lại theo những giòng sống Mã, sông Gấm, sông Thao, sông Bờ đem nhau vào sau lưng dẫy Trường sơn lập quốc và đặt hiệu là La Xang tức là Vạn Tượng (Vientaine) ngày nay.

Tới thế kỷ XVII trong nước bị nội loạn kế nước Xiêm bị tiêu diệt.

Kinh đô Lan Xang bị người Xiêm tàn phá. Hoàng thành tàn đổ. Gần mười ngày nóc nhà bị đốt cháy. Dân chúng lầm than. Nhưng kẻ ái quốc bị gông cùm đày ải. Đàn bà thì bị làm món đồ chơi cho kẻ thắng trận…”(trang 44).

Cho đến hết trang 45 (bàn về chính trị quốc tế Đồng minh) khối Đại đông Á qua đến trang 46; vẫn một giọng của người lão luyện về chính trị và thuộc sử, khảo cổ và lịch sử thế giới. Ở tuổi của Quí không thể thế được, và xét rộng ra; nếu là trường hợp Quí vượt khỏi cuộc đời thường, liệt vào ngoại hạng, sao tác giả không giới thiệu từ đầu. Đó là khuyết điểm. Khuyết điểm kế tiếp là Quí (một đứa trẻ bình thường) viết thư cho người yêu không bao giờ làm như vậy, ít bộc lộ sử tính, chính trị tính; mà chỉ nói tâm tình thì mới đúng. Hầu hết những lá thư có tính cách khoe kiến trúc trong lá thư tình của cậu bé 16 tuổi ở những trang 37, 38, 39, 40, 41, 42…

Khuyết điểm nữa còn là một cố tật khó tránh trong truyện dài. Không phải riêng Lý Văn Sâm mắc lỗi; đến cả nhà văn sáng giá về truyện dài như Khái Hưng ở Đẹp cũng mắc tật cho Lan vô tư hiểu đời như một triết nhân sâu sắc (25). Cốt truyện này mang tính cách mở rộng kiến thức cho người đọc; nhưng không đúng chỗ cho sự phát ngôn qua nhân vật Quí. Ở Lý Văn Sâm truyện dài không phân tích tâm lý vững và truyền cảm như truyện ngắn, có lẽ rằng hơi truyện ngắn mới là sở trường của ông chăng?

Kết luận – Sở dĩ qua phân tích Lý Văn Sâm và Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà vào chi tiết hơn trong nhóm; vì họ là nhà văn điển hình.

Lý Văn Sâm, nhà văn của truyện ngắn xã hội và tâm tình vô cùng đặc sắc. Ông còn tiến bộ rất nhiều trong thể truyện ngắn tâm lý, là nhà văn có tài, phong phú tình cảm, văn chau chuốt, hào hoa phong nhã qua diễn tả ở Kòn Trô và xã hội tính bộc lộ trong Ngoài Mưa Lạnh và trang nhã, buồn nhè nhẹ trong Nắng bên kia làng.

Sở trường Lý Văn Sâm không là truyện dài. Truyện dài hay, đòi hỏi nhiều công phu và chính những người viết truyện dài hay là ở tiền chiến như Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Đình Lạp… còn mắc nhiều khuyết điểm không nhỏ (26).

Tiết 5

VŨ ANH KHANH

(1926 – 1956)

Tiểu Sử và Tác Phẩm.

Vũ Anh Khanh tên thật là Vũ Văn Khánh (26) sinh năm 1926 ở Phan Thiết. Vào Nam hoạt động văn nghệ với Lý Văn Sâm, Thẩm Thệ Hà và Dương Tử Giang.

Tác phẩm chính đã xuất bản: Bên Kia Sông (truyện ngắn), Đầm Ô Rô (truyện ngắn), Chiến sĩ Hành (thơ trường thiên), Sông Máu (truyện ngắn 1946), Ngũ Tử Tư (truyện ngắn 1950), Nửa Bồ Xương Khô (truyện dài tập I và II, 1950)v.v…Cuốn này bị cấm lưu hành.

Hoàn Cảnh Xã Hội Ảnh Hưởng Đến Tác Phẩm.

Tình trạng chính trị miền Nam, khác hẳn miền Bắc và Trung. Chính phủ trị tự trị Nguyễn văn Thinh chỉ là bù nhìn ở thành. Còn hoạt động kháng chiến rất tự do ở thành, ở thôn quê, rừng núi. Bảo vệ lấy tính mệnh để cùng chiến đấu chống xâm lược. Cho nên tất cả đề tài viết đều hướng về kháng chiến.

Những tác phẩm của Vũ Anh Khanh phần nhiều (có thể là hầu hết) là truyện ngắn; mà bất cứ truyện ngắn nào cũng bắt nguồn ở đề tài kháng chiến và lột mặt trái xấu xa đô hội bị ngoại bang chiếm đóng. Vũ Anh Khanh khác Quốc Ấn ở điểm: đề tài của Vũ Anh Khanh thoát, còn đề tài của Quốc Ấn đôi khi giả tạo và nghệ thuật non tay. Đọc truyện của Quốc Ấn truyền cảm ít, trái với Vũ Anh Khanh, dồi dào.

Truyện dài Nửa Bồ Xương Khô (2 tập) của Vũ Anh Khanh có nhiều tác dụng trong quần chúng, khiến chính quyền lúc ấy phải hạ lệnh cấm. Cũng như Nguyễn Bảo Hóa bị cấm quyển sử Nam Bộ Chiến Sử hay Thiếu Sơn bị cấm lưu hành tàng trữ cuốn Hai Cuộc cách mệnh 1789 và 1945 (Pháp và Việt Nam) Nhìn vào tác dụng Nửa Bồ Xương Khô, chúng ta nhận thấy nghệ thuật văn không có gì đáng kể so với truyện ngắn. Tác dụng chính trị ở truyện dài tất nhiên có ảnh hưởng lớn.

Vũ Anh Khanh còn là nhà thơ. Trường thiên thơ CHIẾN SĨ HÀNH hoặc một THA LA đăng trong tuyển tập thi ca THƠ MÙA GIẢI PHÓNG (1949) xác nhận thêm vai trò thơ rất quan trọng trong đời văn Vũ Anh Khanh. Còn là thi sĩ có bút pháp vững vàng, tứ thơ mới, nội dung mang nhiều hình tượng; có thể nói rằng hai nhà thơ đáng kể nhất của miền Nam lúc bấy giờ là Vũ Anh Khanh và Hoàng Tố Nguyên… Trong khi ấy, các thi sĩ khác như: Trúc Khanh, Bân Bân, Tố Phong, Thẩm Thệ Hà, Khổng Dương... có làm thơ; nhưng thích dùng từ sáo mòn, cổ; dùng rượu tiễn, gươm chuốt, trong cuộc tiễn đưa nào mà chả có ly bôi – Không hợp với hoàn cảnh hiện tại bom đạn chiến tranh là hình tượng mới.

Phân Tách Tác Phẩm Chính.

Trước hết, chúng tôi mở xẻ tập SÔNG MÁU (1950). Sông Máu gồm: Sông Máu, Trên Thái Bình Dương, Sài Gòn ơi, Tiếng Dịch Sông Ô, Cây đàn câm, Hai lá thư chưa gửi, Mai Phi, Cầu chìm. Trong tập này chuyện đặc sắc nhất Sông Máu, Cầu chìm và Trên Thái Bình Dương. Tập truyện ngắn này nói chung về nghệ thuật, giữa các truyện không chênh lệch là bao, tác giả viết đều tay.

Trong Sông Máu, nhân vật chính cô lái đò và khách qua giang. Huyền, cô lái xinh tươi có mẹ già. Gặp khách trẻ tuổi vào một buổi chiều trên bến đò Phố Phủ. Khách ưa ngâm thơ và khách còn là chiến sĩ. Gặp duyên trên bến đò, cô lái yêu thơ, còn chiến sĩ yêu cô lái. Thế rồi hai người yêu nhau. Chàng trai còn vương thêm bệnh yêu tổ quốc nên bắt buộc dẹp tình yêu nhỏ bé để lên đường. Có một đêm, mẹ của cô lái âu yếm nhìn con mình, nhìn khách thắm đượm duyên, cất tiếng hỏi:

“… Ở khoang trước, mẹ Huyền trở mình bà còn thấy ánh đèn leo lét sáng bà bảo:

– Hai con chưa đi ngủ ư? Khuya rồi đấy nhỉ?

Huyền dạ một tiếng rồi tắt đèn. Trong bóng tối lờ mờ, hai mái đầu xanh son trẻ dựa vào nhau im lặng.

– Anh ngâm thơ Huyền nghe nhé.

Huyền gật đầu, ông khách giọng trầm ngâm:

Phong tiêu tiêu hề, dịch thủy hàn

Tráng sĩ nhất hề, bất phục hoàn.

– Buồn lắm anh ơi! Anh ngâm làm gì những vần thơ ấy cho lòng em đau đớn”.

Tả cảnh trao duyên rất đẹp, nhưng có một điều các nhà văn miền Nam trong thời kỳ đó mắc phải bệnh hay dùng điển cố và khuyết điểm này khiến độc giả mất phần hứng thú, với chuyện nửa cổ, nửa kim.

Tả đoạn chia ly. Một buổi mai còn sương sớm, khách lên đường, cô lái đò ở lại bến sông. Ông viết với giọng say sưa, quyến rũ:

“… Sáng hôm sau, trời còn lờ mờ sương, Huyền đã vội nhổ sào, chống đò sang ngang tiễn đưa ông khách về phố Phủ. Đến bến, Huyền bịn rịn cầm tay khách, mắt mờ lệ trắng nhìn trời, lâm râm khấn:

– Lạy Giời cho chóng bình yên mà trở về với thiếp.

Ông khách vội quay đi, quả quyết giựt tay lại rồi bước nhanh lên như trốn chạy.

Huyền nghẹn ngào đứng im nhìn theo. Mẹ Huyền lẩy bẩy đi lại gần Huyền để tay lên vai Huyền, hỏi nhỏ:

– Nó đi bao giờ thì nó về?

Huyền chùi nước mắt nhìn mẹ.

– Không về nữa mẹ ơi!

Nói xong thì Huyền khóc, những giọt nước mắt làm xao xuyến luôn tấm lòng già. Mẹ Huyền chợt hiểu càng sụt sùi…”

Khách bị xử tử, Vũ Anh Khanh đưa tới kết luận sầu thảm để kích thích lòng yêu nước của đồng bào đang chống lại ách thống trị. Vũ Anh Khanh nhấn mạnh "Vì hôm nay có cả cụ lớn Tuần Vũ và qua Công sứ đại thần về chủ tọa". Vũ Anh Khanh không đưa chủ quan của ông vào, nhưng chính sự khách quan trong chủ quan định hướng cũng đủ kích thích độc giả yêu nước. Vũ Anh Khanh như chịu ảnh hưởng Nguyễn Tuân, một Nguyễn Tuân tiền chiến trong tập truyện Vang bóng một thời (27) có hề nguyền rủa bọn thống trị đâu? Vẫn khách quan nhận định, nhưng lối viết tế nhị châm biếm, mai mỉa ấy thì người đọc hiểu tác giả khích động bằng giọng văn căm hờn đưa đến lật đổ chế độ.

Người khách yêu nước bị xử tử. Cô lái đò buồn man mác. Huyền vẫn đưa khách sang sông. Rồi một đêm Huyền mơ thấy khách về gọi Huyền để sang đò. Thì bên kia phố Phủ, gần bãi pháp trường có bóng một người xách đầu mình tới bến. Huyền giợn người… Đoạn văn này Vũ Anh Khanh đã truyền cảm độc giả:

“… Một đêm mưa lớn, Huyền ra cột lại sợi giây neo cho chắc thuyền. Bỗng Huyền giật mình, giữa một đêm mưa khuya bão mà có người gọi đò:

– Huyền ơi, cho anh sang đò.

Bên kia bờ phố Phủ, ngày ở bãi pháp trường thấy lờ mờ một bóng người mặc áo chàm xanh, một tay xách đầu mình, một tay ngoắc nàng.

Huyền giợn cả người, đứng bơ vơ nhìn giòng sông cuộn sóng, tự nhiên Huyền đưa tay lên giụi mắt. Lạ quá! Nước sông khi không đổi sắc đỏ hồng như máu một sắc máu quen thuộc của một người…”

Đoạn kết, cô lái đò bỏ khoang thuyền, bỏ khách sang sông, đi mất. Không biết cô lái đi đâu? Đi trả thù cho người yêu đã bị bọn thống trị xử tử hay bỏ trốn để quên cảnh xưa? Kết luận ở thể hoài nghi, một Vũ Anh Khanh có lập ý cao viết truyện như Anatole France, Hoffmann, Edgar Poë, Khái Hưng…:

“… Thời gian qua…

Ba năm rồi, ly loạn, con thuyền đưa khách vẫn neo chỗ cũ nhưng không ai biết Huyền bỏ đi đâu?

Huyền hẳn không về phố Phủ mà chắc là đi qua phía cánh đồng dâu tằm, tìm đường về bến Ké lần vào dẫy núi Tà–Khoun chằng chịt rễ cây già.

Con sông tỉnh Quảng giờ hết trong mà lúc nào dòng nước cũng đỏ ngàu ngàu. Người Phố Phủ đó ngẩn ngơ không hiểu vì sao?...”

Đến truyện Trên Thái Bình Dương lối viết theo dự tượng, đoán ở hậu bán thế kỷ hai mươi (1960) sẽ có trận thế giới chiến tranh thứ Ba. Khói lửa bao trùm từ Âu sang Á; Tây Âu đến Đông Âu, Bắc đến Nam Cực. Phía bên Pháp có những dũng sĩ Việt, bên Việt có những dũng sĩ Pháp.

Truyện kể dưới đây xảy ra trên Thái Bình Dương. Cottier và Vương Dung được lệnh lái thủy phi đoàn ĐOÀN KẾT thám thính tàu nghịch. Cottier lái chiếc phi cơ đậu trên tiềm thủy đỉnh, sau khi đã giao tranh với địch.

Cottier và Vương Dung ôm nhau nhìn bờ cõi Việt Nam chờ tàu tiếp viện lương thực. Nhưng tới khi họ gần chết đói, Cottier nhớ đến Catherine, Vương Dung nghĩ đến người tình của anh. Đoạn tả mối tình giữa Dung và Tấn, Dung kể cho bạn nghe:

“… Khi còn đi học, tôi đã yêu thương một cô gái nhỏ hiền lành làm thư ký cho mẹ tôi để biên sổ sách và bán hàng. Nàng mồ côi cha mẹ, tôi con nhà giàu, nàng ngây thơ tin tưởng ở nơi tôi bởi những lời hò hẹn vu vơ không có gì đảm bảo.

Khi ra trường, sẵn có khiếu văn chương, tôi đeo đuổi nghề văn. Tiếng tăm tôi lừng lẫy trong nước một thời. Tôi lén lút đem nàng về ở tại tại một gian nhà ngoại ô. Nàng khuyến khích tôi viết, nàng chăm nom sức khỏe cho tôi để đến một ngày, tôi nghe cha mẹ mà phản nàng.

Người vợ mới của tôi đẹp hơn nàng, học giỏi hơn nàng về nhất là giàu hơn nàng nhưng lại thua nàng ở chỗ không phải yêu tôi mà lấy tôi.

Hôm tôi nói thật tất cả cho nàng hay và tặng nàng một số tiền lớn, nàng im lặng ngồi nghe và im lặng đem sách vở, quần áo tôi mà xếp vào va ly tiễn tôi đi lấy vợ.

Nàng có một vẻ lạnh lùng gần như không cần gì cả, nhưng tôi biết nàng đau khổ vô cùng. Chúng tôi xa nhau, một hôm tôi nhận được do nhà giây thép, số tiền của tôi tặng nàng và một lá thư vỏn vẹn mấy chữ: “Tình yêu của người con gái này không thể trả bằng tiền. Tôi xin gởi trả lại cho ông để ông tặng lại người khác”.

Thế rồi năm 1945 trận chiến tranh huynh đệ, giữa hai nước Việt– Pháp bùng nổ. Tôi bỏ văn theo võ, sống với anh em chiến sĩ trong những ngày liều lĩnh nhất của quê hương. Vợ tôi đi lấy chồng khác, còn nàng, tôi không biết nàng sống ở phương trời nào?

Cottier bỗng rú mừng:

– Dung ơi có tàu đằng xa kìa.

Hai người chăm chú nhìn Dung hốt hoảng:

– Tàu địch đúng rồi tàu địch! Chúng mình chết mất! Một loạt súng bắn tới, chiếc thủy phi đoàn trúng đạn chìm xuống từ từ. Dung và Cottier nhẩy xuống biển bập bềnh theo lượng sóng.

– Cottier liệu có lội được không?

– Yếu sức quá! Vĩnh biệt Catherine!

Chàng ngay chân mặc dòng nước cuốn đi, Dung trườn tới kéo bạn nhưng mắt chàng cũng hoa lên. Một viên đạn trúng ngay vào đùi. Dung hét to..."(trang 22,23).

Diễn tả sự trung thành một người đàn bà Việt Nam giàu lòng hy sinh. Chính điều đó nói lên đặc tính người đàn bà ta để thế giới nhận định về luân lý cổ truyền và nếp sống trầm mặc của người Á Đông sẵn căn bản đạo đức vững vàng, bao giờ cũng sẵn lòng tha thứ kẻ không biết giác ngộ hôm nay; sau chính nghĩa sẽ cải tà vi thiện ở mai hậu.

Còn Dung tưởng mình đã chết. Nhưng Dung đã gặp lại Tần, người vợ ngày xưa ấy nay trở thành y tá. Sau khi được mổ xong, Dung tưởng gặp Tần trong ảo mộng. Dung hỏi Tần để tang ai, người thiếu phụ trả lời để tang Dung bằng mắt. Bồi hồi cảm động:

“… Em có giận anh không?

Tần không trả lời, nàng nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời cao và xanh, gió dịu hiền thổi rung rinh những cành hoa lựu đỏ tươi như màu máu thắm. Đôi chim sẻ miùa đang mớm mồi cho nhau trên cành bàng.

Im lặng.

Bỗng xa xa một điệu khúc tuyệt vời….”

Đến Cầu Chìm, trình bày cuộc đấu tranh giữa tình yêu cá nhân và tình yêu đất nước. Chế Cầu, người Chàm là họa sĩ. Khi nhà Trần đem quân vào đánh phá thành Đồ Bàn giết vua Chàm và bắt nàng Mỹ Ê về đất Việt thì Chế Cầu được lệnh nhận nhiệm vụ hạ sát vua nhà Trần.

Ra đến Thăng Long sống bằng nghề vẽ. Họ yêu nhau. Chế Cầu quên tình đất nước mà say đắm nguyệt hoa. Bỗng một phút tỉnh ngộ, nhờ lời thề. Chế Cầu sách gươm vào để giết vua Trần, nhưng khi vừa giết được võ quan hầu vua thì sa lưới: Và đây là đoạn kết:

“… Những ngày cuối cùng trong ngục, Chế Cầu được phép tự trích máu của mình pha màu để vẽ một bức tranh. Chàng dùng hết tài lực, đem hết tâm trí tạo một tác phẩm cuối cùng của mình để gửi lại người yêu tạ tội chàng đã giết cha nàng…”

Ông muốn cảnh tỉnh thanh niên Việt giữa thời loạn khi tổ quốc lâm nguy, giặc cướp nước mình thì chớ bao giờ quên bổn phận. Đó cũng là hình thức kích thích lòng yêu nước để thanh niên khỏi sa vào đường bội phản. Bội phản tổ quốc bao giờ cũng đắc tội hơn hết.

Đầm Ô Rô (1949) tập truyện ngắn gồm những chuyện: Miếng đỉnh chung, Hối tắc, Đầm Ô Rô, Ma Thiên Lãnh, Khổ nhục kế, Tóc Thề...

Trong tập truyện ngắn này, ông chia ra làm hai đề tài: kháng chiến và trong thành. Sự hy sinh ở ngoài chiến địa, sự sa đọa trong thành; tuy hai là một đều lên án một đối tượng và đề cao một đối tượng chính nghĩa.

Miếng đỉnh chung cũng thuộc vào loại đề tài ấy. Gồm ba nhân vật: Thơ, Hoàng và Phổ. Thơ là vợ Hoàng. Phổ là người tình cũ của Thơ đi kháng chiến. Hoàng sống với Thơ ở thành, nhưng Thơ rất khinh miếng đỉnh chung. Nhưng một buổi Hoàng đưa cho vợ xem lá thư của Phổ. Phổ nhờ Hoàng chăm nom Thơ vì chàng sắp chết. Từ đó Thơ cảm động, ngờ oan chồng. Thì ra Hoàng tốt cũng như Phổ.

Truyện trên viết thoát, tuy nhiên một vài chỗ sắp đặt chưa vững (đoạn Thơ nghi chồng chạy theo miếng đỉnh chung hơi lộn xộn). Và chính tiêu đề chuyện cũng không đặt đúng trọng tâm. Cốt truyện không là thế, chắc chắn rằng khi ông viết câu chuyện này mục đích đả kích nhân vật Hoàng. Nhưng cuối cùng ông cho Hoàng thành người yêu nước. Chính thế, câu truyện lủng củng, sắp đặt luộm thuộm.

Hớt tóc, truyện xảy ra trong phòng đánh tài sỉu trong thành. Huyền bị thua bạc rồi ra sa ngã, bán rẻ nhan sắc để có tiền đánh bạc. Tả đoạn Huyền thua bạc, say sưa nhìn người khác đánh thèm thuồng. Quả Vũ Anh Khanh đã vững tay nắm được tâm lý nhân vật. (đoạn nói về những cặp đùi đàn ông láu cá):

“… Trời bức lắm. Mặc đầu trên trần nhà có quạt máy, Huyền vẫn thấy nóng lạ thường. Hơi nóng của những người đàn ông đứng sát vào người Huyền làm nàng khó chịu. Nàng khẽ sửa lại cách đứng cho bớt mỏi chân và sực nhớ một cảm giác lạ tự nhiên làm cho nàng đỏ mặt, nàng áp mình vào bàn để tránh những cặp đùi láu cá vẩn vơ cọ mãi vào đùi nàng.

… Hết tiền nên Huyền không đánh nữa, tuy vậy nàng vẫn đứng yên một chỗ để xem người khác đánh cho đỡ nghiện…”(trang 17).

Thế rồi, một ông khách đứng bên Huyền được bạc. Sau đó ông khách ra về, khiến Huyền nhìn theo. Huyền chạy ra, khi khách hỏi đến. Và hai người cùng đi trên đường khuya. Khách mời Huyền đi ăn cháo, tuy đói nhưng Huyền không dám nhận. Rồi ý nghĩ không đẹp, Huyền giằng tay khách để chạy. Nhưng khách đáp lại rất tâm lý: sẽ hoàn lại số tiền nàng thua. Huyền im lặng. Vũ Anh Khanh nắm vững về tâm lý cũng như về nhân vật của ông lần đầu tiên định bước vào sa ngã:

“… Đường về khuya gần giờ giới nghiêm nên vắng bóng người qua lại. Một cảnh tượng lạnh lẽo, hiu quạnh cho hai kẻ lạ lùng cùng đi sát vào nhau.

Chúng mình đi như một cặp vợ chồng.

Nghe khách nói thế Huyền bỗng rùng mình lo sợ. Lần đầu tiên trong đời người con gái, nàng đã đi cặp với một người đàn ông xa lạ lúc đêm khuya, giữa một thành phố lắm điều giả trá này. Một ý nghĩ chua xót đến trong đầu, tự nhiên Huyền chùn chân chậm bước và muốn chạy trở lại. Khách kéo tay nàng kinh ngạc:

– Kìa Huyền tính đi đâu?

Giọng nói ấm áp, dịu dàng, có vẻ tử tế của khách làm cho nàng hơi yên lòng. Nàng trả lời trong hơi thở gấp:

– Em…em sợ…ông buông tay em ra.

Trong bóng tối, Huyền thấy ông khách nhếch mép cười thương hại. Nàng thấy tủi nhục nghẹn ngào:

– Em hiểu ông muốn gì rồi. Nhưng ông lầm vì em không phải làm nghề này? (trang 19).

Mạt sát sự sa đọa con người dân tỉnh thành bị trụy lạc cám dỗ, bị tiền chi phối lương tri; tiếp theo, thắt nút:

“… Hai người đi vào nhà ngủ Tàu. Ánh đèn xanh làm cho Huyền thấy ngượng. Lần đầu tiên, vì tiền nàng bước vào ngưỡng cửa này. Thế là hết. Nàng bẽn lẽn cúi đầu để tránh những cặp mắt tò mò của mấy người bồi phòng cứ chăm bẳm nhìn nàng. Khách nói một thôi tiếng Tàu với bồi, rồi họ mỉm cười ý nhị, đưa hai người vào một căn phòng rộng đẹp.

Huyền bằng lòng gian phòng này không?

Huyền đứng im, khách âu yếm:

– Em cởi áo cho mát.

Một cái gì chặn lên cổ. Huyền thấy nghẹn lời. Nàng nhìn quanh phòng, nhìn khách, nhìn bàn ghế, nhìn bốn vách tường vôi im lặng, nhìn chiếc giường lót nệm trắng (màu trắng của trinh bạch). Một ý nghĩ chua xót mỉa mai chốc nữa mảnh vải trắng sẽ hoen ố, cũng như đời con gái của nàng…sẽ bỗng dưng… Huyền tối sầm mặt lại rồi không cầm được lòng nữa, nàng gục đầu vò vách khóc nức nỡ…(trang 20).

Mối thắt nút ấy có hai tác dụng: một:) hấp dẫn người đọc; hai: làm nổi bật tâm trạng một nhân vật của tác giả người khác thường. Tác giả muốn diễn tả tâm trạng giắt người tình đến đích (rủ được thiếu nữ đến phòng ngủ) thì tất nhiên không thể nào vượt được mục đích (ý nghĩa giao hợp). Nhưng đối với nhân vật có ý thức của Vũ Anh Khanh là chiến sĩ kháng chiến nên đoạn cởi nút của ông lý tưởng, ở chỗ:

“… Giờ tội lỗi. Đèn phòng ngoài đã tắt. Khách với tay sửa lại cái chao đèn bằng lụa xanh cho khỏi chói mắt Huyền. Nàng nằm yên, mở mắt thao láo nhìn khách chờ đợi.

Khách im lặng, chàng đã châm hai điếu thuốc rồi, chàng lấy thêm một điếu nữa, thỉnh thoảng cúi đầu xuống thành giường, mãi mãi chàng mới chậm rãi nói sau tiếng thở dài:

– Anh xin lỗi Huyền tự nãy giờ anh đã đóng kịch với Huyền và đã cố ý dùng những câu không được nhã để cho Huyền phải tủi lòng.

Khách uống một ngụm nước, buồn rầu nói tiếp:

– Đêm đêm, anh đã gặp, từ những sòng bạc công khai đi ra những chàng trai điếm đàng và những con gái trẻ đẹp. Và đêm đêm, trong những gian phòng kín đáo giữa châu thành có những người con gái sượng sùng neo thuyền đậu lại một bến Tầm Dương cùng kẻ đàn ông xa lạ đánh bản đàn lỗi nhịp, xót xa đau. Những người con gái trẻ, dại khờ sau khi thua, bạc đã liều lĩnh nghĩ rằng: “Mình bậy bạ một đêm ai mà biết được! Ấy thế rồi một lần, rồi hai lần họ thành ra một bầy đĩ thập thành, để cho đời mình lăn mãi xuống dốc trụy lạc, không bao giờ trở lại được nữa! Trong số ấy có những bà phong lưu, đài các, những người trẻ tuổi cao sang, những cô gái quê mùa, nhưng chị bán hàng rong chợ búa…? (trang 21–22)”.

Kết thúc câu chuyện, anh chàng đó không ngủ với Huyền, vì lẽ chàng là một trong những kẻ mới về thành, lại sắp nhận công tác (kháng chiến). Trình bầy cảnh sa đọa của thành thị như vậy, Vũ Anh Khanh đã thành công: lột mặt nạ bỉ ổi bọn thực dân đọa lạc tinh thần người dân thành thị bằng tiền, tổ chức sòng bạc, khuyến khích mãi dâm. Có như thế thì người dân mới không bao giờ nghĩ đến chống đối chúng. Nhưng kết luận:

“… Nàng nghiêng mình âu yếm nhìn khách đang ngáy ròn đều trên bốn chiếc ghế lỏng chỏng ở một góc phòng…”(trang 24)

Đoạn này có nhược điểm; đành rằng người lính kháng chiến lý kia tưởng đã cứu vớt một người ra khỏi trụy lạc, nhưng tác dụng vẫn chỉ là cứu một người; còn bao nhiêu người khác vẫn sa vào vòng trụy lạc. Chữa nhà cháy chỉ cần mang một đồ vật ra khỏi nhà lửa, thì hẳn là tác dụng không đáng kể là bao! Và tác dụng một người giác ngộ hẳn không phải là không hay; nhưng ý định của Vũ Anh Khanh là trình bày một xã hội đi xuống; chẳng cần phải tạo ra một nhân vật kịch cỡm như vị khách đó, vì thiết tưởng rằng cách cấu kết nhân vật lý tưởng, hóa ra một nhân vật lý tưởng đứt giây trên trời rơi xuống. Giá mà khách không được bạc thì liệu tư tưởng cứu Huyền có hay không?

Đầm Ô Rô tiêu đề một truyện ngắn đặt cho cuốn truyện. Nhân vật chính: Hai chị em Quý và Nhân và hai thanh niên chống đế quốc. Trong khi họ đi tìm con gà mái bị lạc, Quý và Nhân bắt gặp hai chiến sĩ có một người bị thương. Một chiến sĩ nhận rằng họ đã chót bắt gà mái của gia đình Quý mổ làm thịt cho bạn ăn. Quý cảm động thương xót. Cả hai về nhà nói dối mẹ không tìm thấy gà, dấu diếm giúp đỡ chiến sĩ nồng hậu. Một chiến sĩ bị thương quá nặng chết, một chiến sĩ khác lưu lại trong giây lát để nhận sự tiễn đưa của một thiếu nữ ràng buộc với quê hương. Và tình yêu của họ bộc phát quá sớm; và phút lên đường chiến sĩ không thể nán dừng. Vũ Anh Khanh tả truyện này rất cảm động và thành công trong việc phân tích tâm lý nhân vật cũng như kết cấu:

“… Quê hương này còn ly loạn, biết bao giờ tôi, và cô, em Nhân lại gặp nhau? Bây giờ tôi phải lên đường lo cho trong sứ mạng. Ngày mai, ngày mốt, dù hay, hay là dở, dù có thế nào tôi vẫn nhớ buổi tiễn đưa não lòng này;

Quý cố cầm nước mắt gượng cười:

– Chúc đầu năm nay may mắn.

– Chúc cô và em Nhân đầu năm nay may mắn.

Ông khách cúi đầu nhìn nấm hở bùi ngùi

– Chưa chắc tôi trở lại đây lần thứ hai thăm cô và em Nhân, thăm mộ bạn tôi nhờ cô, em Nhân.

Chàng nghẹn lời, bóp chặt tay Quý một lần nữa rồi vội vã đi mau như muốn tránh một lần làm yếu chí người đi.

Bóng ông khách đã khuất mờ trong sương, Quý có cảm tưởng rằng người ấy một ra đi còn có bao giờ trở lại.

Nàng hắt hiu nhìn vào trong xóm vắng và thẫn thờ nghĩ đến ngày mai tang tóc lạnh lùng.

Rồi không thể cầm được lòng, Quý ngồi bịch xuống đất, gục đầu khóc…(trang 36)

Bên kia sông gồm những truyện ngắn: Ly bôi, Ngày xưa, Đèn Sài Gòn. Một đêm Trăng, Tráng khách, Cười mưa tan, Bát canh rau má, Người khách viễn phương, Chiều hôm qua, Thư của mẹ tôi...Những truyện ngắn này đều khai thác bối cảnh đề cao kháng chiến.

Đọc Ly bôi, nhân vật chính Năm Đen làm chúng ta nhớ lại truyện anh chàng Cai Xanh với hộp thuốc lào của Nguyễn Tuân trong Vang Bóng Một Thời. Vũ Anh Khanh chịu ảnh hưởng Nguyễn Tuân rất sâu sắc. Ngũ Tử Tư, gồm những truyện ngắn: Con trâu giấy, Theo khói nhang rằm, Nhạc Thần, Phổ Xiếu Hùng lìn xì, Qua sông, Thần vòng. Một truyện đặc sắc là Theo khói nhang rằm. Tác giả tả mâu thuẫn giữa anh vợ và em rể, để rồi vì lập trường chính trị em rể bị giết. Thuận là em rể, một chiến sĩ vào tù ra tù vì chiến đấu cho độc lập. Nhưng hai người anh là tay sai cho phe thống trị nên lừa đem giết người em rể. Và mỗi lần có nhang khói là bóng ma lẻng về thăm vợ. Tác giả tả rất tế nhị, không siêu thực như Liêu trai hoặc mê hoặc đồng bào qua bóng dáng ma mãnh. Tác giả phải dùng một hình thức: nửa thực, nửa mộng; diễn tả để che mắt bọn đại diện thống trị kiểm duyệt. Chúng tôi cho trích dẫn đoạn văn vô cùng đặc sắc mà Vũ Anh Khanh tả hồn ma nói chuyện với nhau, một hồn sắp được về thăm gia đình:

“… Tiếng gà gáy bắt đầu đua nhau gáy điểm canh. Hồn Thuận nói với bạn:

Gần sáng rồi, ta phải về. Anh chịu khó tạt qua nhà vợ tôi để xem mặt cháu.

Dọc đường trăng sáng, hai bóng ma thẫn thờ nhìn những đưa bé ăn mày nằm ngủ cạnh vỉa hè, dưới manh chiếu rách, hồn vẩn vơ buồn nhẹ.

Gió khuya hiu hắt lạnh hơi sương. Trên từng cao giữa vời, con chim đêm hấp háy bay đi tìm mồi. Hồn Thuận đi sát vào bạn thủ thỉ:

– Cháu dễ thương lắm anh ạ. Tôi mong nó sau này nó giống tôi. Trong lá tâm thư viết bằng máu tôi dặn vợ tôi sau này ráng dạy con làm sao để nó đừng ham tiền tài, danh vọng. Những thứ ấy chỉ hạ thấp nhân cách con người xuống thôi.

– Chị ấy hiện giờ làm gì?

Nghe bạn hỏi, Thuận bỗng dưng thấy xót xa:

– Vợ tôi lâm vào cảnh túng. Giá nói đi làm công nhật cho một hãng nào đây cũng được. Nhưng nhà tôi nó sợ, nó ngại.

Vả lại thiên hạ thấy thế làm sao chẳng đồn rằng vợ tôi là gái nạ dòng không này thì nọ. Hai anh vợ tôi thì ruồng rẫy đứa em gái chót làm vợ một người thù, hơn nữa họ ghét thằng con tôi. Đối với cử chỉ hai anh mình, lòng tự ái của bà mẹ biết thương con tôi như vợ tôi, nó không bao giờ nhờ vả, thăm viết dầu là anh ruột.

Trước cảnh gà cùng chuồng thù nhau, mẹ vợ tôi khóc mãi, người thương con gái cháu ngoại, nhưng lại nể hai con trai. Làm thế nào?

Hồn Thuận reo lên, đưa tay chỉ một gian nhà lá leo lét ánh đèn vui vẻ.

– Nhà vợ tôi đấy, mời anh vào chơi.

Dừng chân trên nhịp cầu tre chân khỉ bắc ngang lạch con đầy bèo tím, hồn Thuận thở dài nhìn lại cảnh xưa.

Bởi đây đìu hiu, nghèo nàn quá! Cách vài trăm thước, đám nhà lá bị đốt còn đang lên mùi lá khét như mùi đất ẩm gặp cơn mưa ngày. Những con ễnh ương kêu dưới ruộng nghe vừa buồn vừa lạnh.

Vào nhà, hồn Thuận rón rén lại hôn lên tay vợ, đưa tay xoa trán con. Thằng bé kháu khỉnh nằm nghiêng rút đầu vào vú mẹ.

Hồn ma thứ hai tằn mằn đứng nhìn tấm ảnh bán thân của mình để trên bàn thờ. Qua làng khói nhang ngun ngút, hồn ma mỉm cười với ảnh bạn.

Vợ Thuận trở mình, chiếc giường tre cót két rung. Giọng nàng ảo não vang giữa bầu trời khuya vắng. Thằng bé nín, nàng ẵm con lại bàn thờ chồng thay lại tuần nhang rồi nức nở khóc một mình” ( trang 49).

Đọc truyện trên của Vũ Anh Khanh, cảm động vì hồn một nhà văn về thăm nhà; trước cảnh đói kém thiếu thốn của vợ U Linh(28). Và Vũ Anh Khanh không bao giờ quên cứu cánh của tổ quốc là độc lập, nên chẳng bao giờ quên phương tiện chính: đề cao cách mệnh, chiến sĩ.

Sự rung động sâu sa như tác giả kể chuyện lại (truyện thực) căm thù thương xót cho hai đối tượng, tác dụng sâu rộng được Vũ Anh Khanh khai thác triệt để, đề cao chính nghĩa dân tộc kháng chiến 1945. Chiến Sĩ Hành, tập thơ trường thiên của Vũ Anh Khanh, đề cao người chiến yêu nước, tương tự đề tài viết trong tiểu thuyết. Kỹ thuật thơ Vũ Anh Khanh cao, nội dung truyền cảm, chính nghĩa sẵn có; cho nên Vũ Anh Khanh và Hoàng Tố Nguyên là nhà thơ điển hình bậc nhất ở miền Nam thời đó.

Tuy nhiên Chiến Sĩ Hành chưa hẳn làm Vũ Anh Khanh nổi bật, mà khả năng thơ Vũ Anh Khanh nổi bật lại là Tha La (Thơ Mùa Giải Phóng, 1949).

Đường ra biên ải kém xa so với Tha La (một thi bản đẹp gần như toàn diện).

Lời thơ bình dị trong một nội dung phong phú: rừng xanh, xóm đạo, già trẻ gái trai bừng bừng khuyến khích kẻ lên đường trả nợ núi sông.

Kết Luận.

Vũ Anh Khanh còn là nhà thơ có tài. Nhưng về văn thì Vũ Anh Khanh không trội bằng Lý Văn Sâm. Bình diện văn miền Nam trong giai đoạn ấy, Vũ Anh Khanh cũng là nhà văn có tài, sau Lý Văn Sâm. Vũ Anh Khanh gây được một âm hưởng rộng lớn, thức tỉnh lòng yêu nước người dân Việt sau trăm năm bị Tây thống trị. Về thơ, Vũ Anh Khanh có phần trội hơn (nói chung). Thơ mang một hình tượng mới, lồng trong kỹ thuật vững vàng, không sao chép, không dùng điển cố như các nhà thơ cùng thời.

THA LA

– Đây Tha La xóm đạo

Có trái ngọt cây lành

Tôi về thăm một dạo

Giữa mùa nắng vàng hanh

Ngậm ngùi Tha La bảo:

– Đây rừng xanh, rừng xanh

Bụi đùn quanh ngõ vắng

Khói đùn quanh nóc tranh

Gió đùn quanh mây trắng

Và lửa loạn xây thành.

Viễn khách ơi! Hãy ngừng chân cho hỏi

Nắng hạ vàng hoa gạo rưng rưng

Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng

Có trái ngọt, cây lành im bóng lá

Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ

Ngày êm đềm lòng viễn khách bơ vơ!

Về chi đây, khách hỡi, có ai chờ?

Ai đưa đón?

– Xin thưa,

Tôi lạc bước.

Không là duyên, không là bèo kiếp trước

Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!

Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu

Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió

Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng

Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng

Tha La hỏi: – Khách buồn nơi đây vắng!

– Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng

– Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn

Khách nhẹ cười nghe gió nổi từng cơn

Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít

Bỗng đâu đây vắng véo von tiếng địch

– Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!

Bao người đi thề chẳng trở lại nhà

Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn

Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán

Buồn trưa trưa, ngây ngất buồn xưa xưa

Lòng viễn khách bỗng tê tái lạnh

Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh

– Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!

Đây mênh mông xóm đạo với rừng già

Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách

Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch

Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng

Đang đón mây xa, khách bỗng ngại ngần

– Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?

Cụ ngạo nghễ cười rung rinh râu trắng

Nhẹ bảo chàng: Em chẳng biết gì ư?

Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù

Người nước Việt ra đi vì nước Việt

Tha La vắng vì Tha La đã biết

Thương giống nòi, au đất lầm than

Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng

Ngày hiu quạnh. Ờ…Ơ… Hơ… tiếng hát

Buồn như gió lướt, lành đài đôi khúc nhạc

Tiếng hát rằng: Tha La giận mùa thu

Tha La hận quốc thù

Tha la hờn quốc biến

Tha La buồn tiếng kiếm

Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh.

Ờ… Ơ… Hơ. Có một đám chiên lành

Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy

Quỳ cạnh Chúa đám chiên lành run rẩy

– Lạy Đức Thánh Cha

Lạy Đức Thánh Mẹ

Lạy Đức Thánh Thần

Chúng con xin về cõi tục để làm dân

Rồi. . . cởi áo trả tu

Rồi. . . xếp kinh cầu nguyện

Rồi. . . nhẹ bước trở về trần

Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!

Người hãy ngừng chân

Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé

Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ

Trời Tha La vân vũ đám mây tang

Vui gì đâu mà tâm sự

Buồn làm chi cho bẽ bàng

Ờ… ơ… hơ… ơ…hơ…tiếng hát

Rung lành lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc

Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi!

Tha La thương người viễn khách đi thôi!

Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đó

Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ

Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay

Giờ khách đi! Tha La nhắn câu này:

Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé

Hãy về thăm xóm đạo

Có trái ngọt cây lành

Tha La dưng ngàn hoa gạo

Và suối mát rừng xanh

Xem đám chiên hiền thương áo trắng

Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh

Trích Thơ Mùa Giải Phóng

VŨ ANH KHANH

Tiết 6

KẾT LUẬN VỀ NHÓM LÝ VĂN SÂM

Trước khi kết luận về nhóm Lý Văn Sâm, xin nhắc lại một lần nữa, sở dĩ viết Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà kỹ lưỡng hơn cả, vì những nhà văn này điển hình cho nhóm. Cũng như Tự Lực văn đoàn, nói về văn điển hình là Nhất Linh, Khái Hưng. Về thơ: Thế Lữ, Xuân Diệu… hoặc Hàn Thuyên; văn là: Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Đức Quỳnh, Trương-Tửu-Nguyễn-Bách Khoa. Chúng tôi không thể phê bình tất cả các nhà văn kỹ lưỡng trong cùng một lúc. Và như thế, theo chúng tôi, khó mà tóm tổng quát vấn đề nhìn viễn cảnh đâu là chính yếu nhất. Nói thế, không có nghĩa đả kích lối viết phê bình của ông Vũ Ngọc Phan (Nhà văn học hiện đại).

Nhóm Lý Văn Sâm, gây được tiếng vang trong giai đoạn kháng chiến bổ sung khi Pháp định tâm cướp đất miền Nam, làm bàn đạp phủ lên xứ sở Việt Nam chúng ta thêm lần Tây thuộc thứ hai.

Hình tượng thời thế trong văn chương, tâm trạng người yêu nước trong giai đoạn ấy, điển hình về văn là: Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà. Và các nhà văn độc lập khác cũng tạo được độ cao cực thịnh (kể theo miền) trong lịch sử văn nghệ Nam Bộ nói riêng của văn nghệ Việt Nam, nói chung.

Tiết 1

KHÁI QUÁT VỀ NHÓM CHÂN TRỜI MỚI

Nhóm này gồm ba cây bút có trình độ, liên kết chặt chẽ với nhau: Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc. Chủ trương nhóm không là sáng tác mà là biên khảo chính trị.

Chẳng khác nào một nhóm Hàn Thuyên trong giai đoạn kháng chiến bổ sung ở miền Nam. Quan niệm sáng tác tân tả chân: phê bình là duy vật sử quan. Sự khai triển duy vật sử quan tùy theo tri thức tiếp nhận của ba nhà văn ấy. Cũng đề cao lối tự phê (auto-critique) lột xác như Jdanov; cho nên Tam Ích đả phá Nhất Linh, Khái Hưng theo quan niệm biện chứng duy vật sử quan.

Hãy cùng đọc:

“… Về nghệ thuật tiểu thuyết, không phải mỗi lúc lại có thể có được một Khái Hưng hay một Nhất Linh. Phải bao nhiêu năm mới kiếm được những văn sĩ ấy. Chỉ tiếc một điều là phần nội dung nghệ phẩm của họ không hợp trào lưu và đứng trên phương diện ý thức hệ, thì nghệ sĩ này đã đối lập với nghệ sĩ kia…”(Văn nghệ và Phê bình, Nam Việt xuất bản 1949).

Chúng tôi trả lời câu hỏi này ở đoạn kết nói về Khái Hưng(28) và tiểu mục về Nhất Linh. Đôi Bạn là cuốn tiểu thuyết như thế nào? Đả đảo phong kiến hướng dẫn cách mệnh, vậy ở giai đoạn tiền chiến lại là yêu nước. Yêu nước trong giai đoạn ấy là đuổi Pháp ra khỏi biên giới nước Việt tạo lập một quốc gia độc lập. Ý thức hệ quốc gia không cần bàn tới trong khi Pháp còn trên đất nước, đuổi xong Pháp, người ta sẽ liên hiệp để cải biến quốc gia theo một hình thức nào thích nghi, với diễn biến lịch sử dân chúng đòi hỏi.

Chẳng hạn thành lập cộng hòa hay quân chủ lập hiến, tùy ý. Sự đả kích của Tam Ích mà ông cho rằng ý thức hệ đối lập với nhau, chỉ vì ông cho rằng nó khác với Mác xít mà thời ấy ông, nói riêng, nhóm Chân Trời Mới, nói chung, tin rằng thích nghi để canh tân lịch sử theo đà tiến hóa mới.

Nay nhóm ấy đã từ chối lập luận Mác xít để phê bình văn chương Việt Nam mà trưởng nhóm (chef de file) cho rằng trước đây chỉ là giai đoạn thử thách, nghiên cứu, học hỏi mà thôi. Cũng không lấy gì làm lạ về thái độ chuyển biến này. Một Jean Paul Sartre từ chối tham gia Hội Pháp Nga thân hữu (Alliance franco-russe) sau 1935, một Henri Lefèbvre trung ương ủy viên kiểm soát chính trị đảng Cộng sản Pháp, kể lại thành tích 30 năm đảng viên của ông trong bài L’exclu s’inclut đăng trên báo Les Temps modernes của Jean Paul Sartre, tháng bảy 1958.

Cũng chính lý do Nga đàn áp nhược tiểu quốc: Ba Lan, Hung, vào năm 1956, sai lạc hẳn lý thuyết mà Henri Lefèbvre đã tán dương (Tác giả những cuốn Marx (Que sais je), L'existentialisme (Sagittaire, 1946) Critique de la vie quotidienne, Pour connaitre la pensée de Karl Marx (Bordas) viết tựa cuốn sách dịch của Politzer La liberté humaine (nguyên bản của Schelling). Và chính Politzer, đại lý thuyết gia đảng Cộng Sản Pháp, tác giả cuốn sách triết học Principes fondamentaux de la philosophie” tôn Henri Lefèbvre bậc thầy.

Hay minh chứng trong đời sống các nhà làm nghệ thuật Pháp, một André Gide, tác giả Retour de l’URSS sau để viết lại Retouche le retour de l’URSS(29). Một Charles Plisnier (Belgique) đã từng Sois remercié Staline trong cuốn Faux passeport (Corrêa), một Panaðt Istrati nhà văn Lỗ Mã Ni (Roumanie) viết văn bằng tiếng Pháp đã thất vọng tìm một nhân bản mới trong Vers l’autre flamme. Còn bao nhiêu trường hợp tương đồng như thế nữa…

Cũng chẳng riêng gì một Chân Trời Mới về sau; trước kia còn có một Hàn Thuyên. Cùng một ý nghĩa(30).

Tiết 2

TAM ÍCH

Tiểu sử.

Tên thật Lê Nguyên Tiệp. Sinh năm 1918 ở Thanh Hóa, chính quán ở Quảng Ngãi. Tác phẩm đã xuất bản: Văn nghệ và Phê bình (Nam Việt, 1949), Nghệ Thuật và Nhân Sinh (1949) viết chung với Thê Húc và loại sách (Tìm hiểu biện chứng pháp), (dịch POLITZER, Tủ sách Chân Trời Mới) gồm Tam Ích, Thê Húc và Thiên Giang chủ trương.

Phân tích tác phẩm chính.

Trong tập sách này chỉ phê bình về văn nghệ và không chủ ý phê bình học thuyết chính trị. Cho nên những cuốn Tìm hiểu biện chứng pháp không nói đến cả Nghệ thuật và Nhân sinh cũng không nhắc tới; mặc dầu quan niệm tiếp nhận chủ nghĩa Mác của nhóm này có phần cực đoan(31) Thứ nhất, phản đề bằng cách phủ nhận sự nghiệp quá vãng các nhà văn tiền chiến. Cùng đọc một vài dòng ông trang tặng các nghệ sĩ lột xác; thì nào có khác gì cuộc môi giới trước khi bước vào chỉnh huấn. “… Trang tặng tất cả những nghệ sĩ tiền cách mạng đã phủ nhận xu hướng nghệ thuật cũ của mình...” Như vậy theo ông, thì Khái Hưng cũng như Nguyễn Tuân không nên có quá vãng; mà ông cho là không hợp thời. Hẳn rằng trong lúc các nhà văn tiền chiến sáng tác chống phong kiến và hướng dẫn cách mệnh, thì ông Tam Ích và nhóm Chân Trời Mới ngồi chờ hoàn cảnh nào đúng ý thức hệ mới tham gia. Và điều đó, chúng ta thấy rằng nhờ có kháng chiến bùng nổ, thì các nhà văn lý luận như Tam Ích mới có cơ hội nói về ý thức hệ Mác.

Phê bình Khái Hưng ông viết:

“… Cái thế giới của Khái Hưng tạo ra những gì? Mỗi nhân vật của Khái Hưng chỉ là một thế giới biệt lập, người này cảm thông riêng với người kia, nói chuyện riêng của một số người riêng. Cái thế giới ấy đã tạo ra được một số thanh niên lãng mạn vậy thôi. Có ai muốn xây dựng một cuộc đời lý tưởng, một xã hội lý tưởng hẳn là phải xây dựng trên một hạng người khác chứ không thể xây bằng một cậu Ngọc, một cô Tuyết, một ông giáo Chương hay một họa sĩ như Nam. Phát nguyên của nghệ thuật Khái Hưng là ở một thế giới riêng, chứ cứu cánh lại cũng ở đó. Ở chỗ khúc quanh của lịch sử, thế giới của Khái Hưng phải đổ, có gì là lạ...

“… Chỉ có thế giới nào làm lịch sử mới sống. Maxime Gorki chết lâu rồi, thế giới của Gorki tạo ra trong cuốn “Người Mẹ” vẫn là một thế giới linh động và sống lâu…”(trang 34).

Phê bình Khái Hưng của Tam Ích hỏng trên nguyên tắc, vì:

– Phê bình một chiều theo biện chứng pháp tiếp nhận cầu may của Mác.

– Phê bình một tác phẩm nào không chịu đặt tác phẩm ấy song hành với hoàn cảnh ấy.

– Thiếu điều kiện so sánh tác phẩm với hoàn cảnh xã hội.

Chúng tôi sẽ phân tích từng điểm ba tiểu mục trên, mà ông Tam Ích đặt cơ sở nhận định về sự nghiệp Khái Hưng.

I) Phê bình một chiều theo biện chứng pháp tiếp nhận cầu may của Mác.

– Tại sao chúng tôi lại gọi là phê bình theo biện chứng cầu may của Mác (đã bàn khái quát ở trên). Là phê bình sự kiện hôm qua bằng con mắt hôm nay chỉ là một thái độ phản đề xuống dốc nhất, tức là đả kích quàng xiên, gián tiếp bắt mọi người thừa nhận giá trị đưa ra. Nếu tạm theo phương pháp phê bình của ông, thì không một tác phẩm cổ điển nào mà không thiếu điều kiện tương đồng với ý thức hệ của ông Tam Ích quan niệm cả.

II) Phê bình một tác phẩm nào không chịu đặt tác phẩm ấy song hành với hoàn cảnh song hành. – Như ở trên đã biết sự tai hại đốt giai đoạn (bruÂler les étapes). Một khi đốt giai đoạn, thì tất cả những giá trị có, chỉ là giá trị giai đoạn, tự mình làm rồi lại phá đi rồi làm lại chỗ phá đi khi cần. Tỷ dụ hôm nay đề cao Vũ Trọng Phụng, hẳn không phải Vũ Trọng Phụng viết theo chủ nghĩa hiện thực, ngay từ khi viết sách; nhưng ở tác phẩm Vũ Trọng Phụng có điều kiện tương đồng có thể khai thác thích ứng với phương tiện của duy vật sử quan ở giai đoạn ấy.

Còn những tác phẩm khác hay chăng nữa, không thích ứng và thấy có ảnh hưởng bao trùm đối nghịch là đập phá và gán cho tác phẩm ấy không giá trị. Trường hợp này trả lời cho Đẹp của Khái Hưng mà ông Tam Ích thấy rằng không đúng với lập trường của ông – bởi Nam là một họa sĩ tiểu tư sản.

III) Thiếu điều kiện so sánh tác phẩm với hoàn cảnh xã hội. – Mạt sát, lên án Khái Hưng nghĩa là lên án chung cả một Tự Lực văn đoàn; nghĩa là chế độ cấu kết văn hóa của Tự lực văn đoàn chẳng khác mấy với chế độ tín nhiệm một vị bộ trưởng của một chế độ nội các thủ tướng.

Đề cao Maxime Gorki rồi đem so sánh với Khái Hưng, cho Khái Hưng là một tiểu thuyết gia có cũng không hại gì hoặc có đôi khi còn có hại; rồi lại đặt câu hỏi tại sao Khái Hưng lại không viết lại Người Mẹ Việt Nam của M.Gorki Việt Nam?

Đó là một lối ngụy biện, so sánh của biện chứng pháp. Chẳng hạn khi định nghĩa một vấn đề gì, không bao giờ thảo luận về vấn đề liên hệ đến vấn đề ấy, mà tìm tỷ dụ khác đối tượng, rồi kết luận đối tượng ấy không đúng, vì nó sai với sự kiện tỷ dụ so sánh kia. Chúng ta nên nhớ rằng trong giai đoạn Pháp chiếm đóng Việt Nam, hệ thống công an, lưỡi lê, súng tận răng, mà Tự Lực văn đoàn còn có một Đôi Bạn lên án quan liêu, đề cao cách mệnh, là một sự kiện cần nhận chân giá trị.

Chúng ta nên nhớ rằng Người Mẹ của M.Gorki viết đề cao kháng chiến, đạp đổ Nga hoàng sau thành công vĩ đại, vì lực lượng chính trị cách mệnh kháng chiến Nga đặt ở ngoại quốc. Và khi Gorki viết cuốn Người Mẹ ấy, không phải Khái Hưng, Nhất Linh, Tự Lực văn đoàn ở trong xứ viết Đôi bạn, Tiêu Sơn Tráng Sĩ… mà M.Gorki viết ở Capri trước khi họp ở Luân đôn vào 1907. Như vậy thử hỏi rằng sự kiện tìm vật so sánh là một điều kiện quan hệ. Không thể nào tìm một sự vật so sánh với sự vật khác mà hai cái không ăn nhập với nhau. Chẳng hạn, chê người đẹp hơn con rệp đẹp… Cho nên khi chúng ta thấy ông đề cao Ehrenbourg ở những trang 36, hoặc Howard Fast; vì họ là nhà văn nòng cốt có lợi cho ý thức hệ mà ông đang theo đuổi.

Kết luận.

– Vẫn một lập luận như trên, ông phê bình Nguyễn Khắc Hiếu, Hồ Hữu Tường, Xuân Diệu và ca tụng Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân lột xác… Chúng tôi chỉ đồng ý rằng phê bình một nhà văn thơ nào phải đặt ở bối cảnh chính trị song hành…

Sau 1954, ông Tam Ích có sự chuyển biến quan niệm khi viết nhận định văn học (các bài viết phê bình thơ Vũ Hoàng Chương trên báo “Nguồn Sống Mới” 1954); chúng tôi muốn nói đến sự chối bỏ duy vật sử quan phê bình văn chương. Bằng chứng, có thể căn cứ vào câu trả lời của chính ông trong bài Nhà văn Tam Ích theo thuyết hiện hữu? (Nhân Loại, bán nguyệt san bộ mới số 1, ra ngày 22–8–1958 do ông Ngọc Linh thuật lại:

"Riêng anh Tam Ích, anh hứa sẽ viết những bài viết về văn hóa, nói chung, về văn nghệ, nói riêng; để bầy tỏ ý kiến một cách phong phú hơn. Con người trước kia thường viết về chính trị (vào thời 1946, 1947. 1948) và về phê bình văn nghệ từ 1948, hình như ít nhiều thay đổi về chi tiết, về thái độ tri thức của mình”.

Và chính Tam Ích trả lời thái độ về mình; chúng tôi không phê bình, cũng không nhận định rằng hiện tại ông đứng trong lập trường nào? Và chỉ làm một việc ghi lại các giai đoạn tư tưởng diễn biến của ông Tam Ích mà thôi:

“TAM ÍCH: – Xưa kia tôi chưa từng áp dụng triệt để phương pháp duy vật biện chứng trong những bài phê bình văn học của tôi. Tôi là người ham học, ham tìm hiểu; tôi nghiên cứu thuyết ấy cũng như tôi đọc kỹ bộ Nho Giáo của Trần Trọng Kim chẳng hạn… Nói rằng xưa kia tôi đã thử thách thì đúng hơn…”

Tiết 3

THÊ HÚC (32)

Tác phẩm của Thê Húc viết chung với Thiên Giang Dân Chủ và Dân Chủ, Tìm Hiểu Biện Chứng Pháp (dịch Politzer), Nghệ Thuật và Nhân Sinh (viết chung) và cuốn duy nhất của ông là cuốn truyện dịch quốc tế Tia Nắng, Tủ sách (Chân Trời Mới, Nam Việt ấn hành 1949).

Sự kiện thâm nhập văn nghệ giữa quốc gia này với quốc gia kia (Interpénétration des littératures) là một sự kiện cần thiết. Nước Pháp có thể gọi là nước đã thể hiện phong phú vào bậc nhất những tác phẩm chọn lọc của ngoại quốc, đủ loại văn học và kỹ thuật được in ra. Ở nước ta trình độ hưởng thụ, tiếp nhận, dịch thuật còn trong thời kỳ phôi phai nên chưa phổ biến được tác phẩm dịch nhiều (nói chung).

Tia Nắng thu góp văn phẩm quốc tế hoặc hồi ký những nhà văn nổi tiếng; Carlos Monternegro (Cuba), Jtanislaw Palinski (Ba Lan), Lev Nikoulin (Nga)vv... Cuốn ấy gồm những truyện được Việt hóa qua các nhan đề: Thu về chim hạc sang ngang, Bạch phu nhân, Ông thầy bói, Đoàn xe lửa nổi loạn, Đức thánh hàng hải.

Trước khi nhận định về quan niệm dịch thuật, thường ra hay mắc phải tật cho rằng hễ nói đến nhà văn Nga, Ba Lan, là nghĩ ngay đến vấn đề mất lập trường chính trị. Thực ra không hẳn thế, rất nhiều nhà văn Nga, Ba Lan có tinh thần quốc gia xã hội chứ không hoàn toàn là Mác xít. Tỷ dụ Maxime Gorki, nhà văn đúng nghĩa, khi thành công cách mạng ở Nga, ông lại phản đối Lénine và chính vì thế Lénine cho ông xuất dương sang Capri (Ý Đại Lợi)… hoặc Lỗ Tấn, Ba Kim, Lâm Ngữ Đường(34) từng dùng duy vật biện chứng phục vụ Mác xít một thời gian rồi trước hoặc sau đã có một thời phục vụ văn nghệ theo tinh thần dân tộc. Như một Ả. Q. Chính Truyện, một Lạc Thú Ở Đời (Importance of living) là một tỷ dụ. Thê Húc dịch truyện còn là một thái độ sáng tác. Vì ông phải chọn lựa sáng tác thích thú nhất thì động tác ấy cũng phải mất công lao hòa đồng sáng tạo diễn dịch sang Việt ngữ. Những truyện trong tập Tia Nắng hầu hết là chọn lọc như Ve kẹo đường của Carlos Monternegro mang một triết lý nhân sinh đầy thú vị. Phê bình Thê Húc, Hoàng Hạ Huệ viết (35):

"... Cả ý nghĩa lâm ly của Ve kẹo đường chẳng những là bức tranh truyền thần của cả một xã hội trần truồng mà còn là một tài liệu đã đánh giá cả một giá trị nghệ thuật của cả hai nhà văn Carlos Monternegro và Thê Húc...”(trang 72).

Thê Húc việt hóa một cách rất thoải mái, người đọc cảm thông được với nhân vật chính một cách gần gũi, một cảm tưởng rất Việt Nam, nghĩa là từ cách chuyển nhân vật chính của xứ sở Cuba sang thái độ, hành động, hình tượng như nhân vật Việt Nam.

Thê Húc đã làm một việc rất có ích, bổ sung nền văn học nước nhà thêm phần phong phú, cũng như Thiên Giang dịch cuốn La fille du capitaine (Giữa chốn ba quân) của Pouckhine. Và Thê Húc (Phạm Văn Hạnh) còn là thi sĩ tiền chiến trong Xuân Thu Nhã Tập (tác giả tập Giọt Sương Hoa).

Tiết 4

THIÊN GIANG (1911–197?)

Tên thật Trần Kim Bảng. Sinh năm 1911, ở Đà Nẵng, anh ruột nữ văn sĩ Hợp Phố. Tác phẩm đã xuất bản: Văn Chương và Xã Hội( viết chung), Nghệ Thuật và Nhân Sinh (viết chung), Tìm Hiểu Biện Chứng Pháp (viết chung), Dân Chủ Và Dân Chủ (viết chung), Lao Tù( NXB Việt Nam), Giữa chốn ba quân (Đông Phong), dịch Lịch Sử Thế giới (chung với Nguyễn Hiến Lê, NXB Nguyễn Hiến Lê)…

Thiên Giang viết ba loại: biên khảo, dịch thuật, sáng tác. Về biên khảo và dịch thuật, trong lập trường duy vật sử quan, chúng tôi phê bình ông Tam Ích và bao trùm chung cho Thê Húc, Thiên Giang. Tập truyện LAO TÙ hiện nay là sáng tác độc nhất của Thiên Giang cũng như nhóm Chân Trời Mới.

LAO TÙ gồm : Mẹ Con, Tình Người Chuột, Miếng Thịt Heo và Ông Bạn Già, Dưới Nắng Hè, Nguyện Vọng Cuối Cùng, Người Bạn Đường Của Tôi, Trong chỗ quạnh hiu.

Hai truyện đặc sắc nhất là Mẹ Con và Tình Người Chuột. Tập này hoàn toàn khai thác đề tài lao tù, gần như là hồi ký tác giả, cũng như đồng đội chiến đấu. Ngay ở đầu, ông viết :

“… Thế mà có những người thản nhiên đi vào nhà tù, đầu họ đã biết chỗ đó một ngày ngàn thu và đã vào đó rồi, lắm khi họ muốn làm một con muỗi để hưởng đôi chúc tự do.

Họ đi vào đó một lần

Họ đi vào đó hai lần

Và bao nhiêu lần nữa

Và có khi họ ở trọn đó một đời…”

Trong đời người, nhất là người bị tù vì yêu nước, khát tự do, độc lập, thật đáng kính! Ở nước ta thời khi thực dân thống trị, biết bao nhiêu thanh niên bị tù đày. Ở đây, Lao Tù, hồi ký của thanh niên ở trường hợp ấy. Có những bà mẹ một con, con một mẹ, bỏ gia đình theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc lâm nguy ra đi, không ham sống đời bình thường. Và tình mẹ con không bao giờ xa cách, dù hoàn cảnh khe khắt dến đâu chăng nữa? Thiên Giang giới thiệu với chúng ta một pha cảm động của mẹ con gặp nhau trong nhà tù. Phút thiêng liêng ấy chỉ được kéo dài mười lăm phút:

“... Đây là muối mè, đây là cá kho, đây là thịt nguội, đây là chè… Mẹ đem những vật này cho con. Và đây là những món quà cuối cùng của mẹ. Con mạnh giỏi không?

Vì ước mong con mình mạnh giỏi ở chỗ nước độc ma thiêng, bà quên con bà ở tình trạng nào?

Tên lính giục:

– Gần hết giờ.

Giờ khắc cay nghiệt quá, nó sấn tới để bứt tình mẫu tử của người ta.

– Còn lại hai phút nữa thôi.

Tên lính cho hay một cách lạnh lùng.

Bà mẹ già cởi chiếc áo nâu ngoài, cởi cả chiếc áo cụt và cởi luôn chiếc áo cánh, bà trao áo cánh cho con, bảo :

– Con giữ chiếc áo này, khi nào nhớ đến mẹ con bận để lấy hơi. Mẹ đến thăm lần này để chết…”(trang 31–32).

Tình thương cao độ của một trong muôn vàn người mẹ có những đứa con ra đi không bao giờ trở lại, được ông diễn tả lại rất linh động và chính là sự kiện của đoạn đường ai có qua cầu mới hay. Và đây là tâm trạng người con trai gặp mẹ:

"... Mặt trời đổ nắng chói lòa. Tiến ngồi trong trại đan, vừa chuốt nan vừa nhìn lên cây xoài. Một con chim vừa bắt được con sâu, nhẩy lần về tổ.

Mặt Tiến trầm ngâm, người ta đoán được chàng nghĩ tới bà mẹ già. Nhưng chàng mỉm cười tự hào: Sau khi ta bị bắt, nhà cửa tan tành, cha mẹ anh em phải bỏ quê hương đi tìm sinh kế ở một xứ xa, ta không sợ mẹ ta sẽ vượt nghìn trùng để đến đây.

– Im và làm việc.

Ông xếp tới, người lính canh trại cho hay.

Tức thì mọi người đều chăm chú vào việc mình làm, mặc kệ thời gian trôi, lôi cuốn nó theo tất cả việc đời...”

Tình Người Chuột, người đọc nhớ đến một truyện của John Steinbeck Of mice and men. Thật là một câu truyện hòa đồng giữa người và vật. Ở Steinbeck, đó chỉ là giải quyết nỗi lòng chán chường của nhà văn sống trong xã hội tư bản chán tình người, để rồi rút niềm ẩn ức viết áng văn bất hủ về Người và Chuột. Thì Thiên Giang chung đề tài ấy; nhưng hoàn cảnh sống đã trải qua một tài liệu thực kết bằng máu và xương, kinh nghiệm sống thực viết hồi ký nhớ chuột. Vào tù, tác giả sống cô độc trong hầm nhỏ (cellule) thì chỉ còn chuột đến thăm. Lá thư viết rất linh động, bất hủ của tác phẩm nhỏ bé nhưng giá trị. Từ mối căm thù đổi thành một tình thân giữa chuột và người, Thiên Giang hẳn là nhà văn giàu nhân loại tính xây bằng lớp vữa để sinh vật này cảm thông nổi với sinh vật kia.

Và tình yêu mến ấy, Thiên Giang tả lại hay như thế nào?:

“... Bạn có nhớ không? Chính lúc tôi cầu xin một chút yên tĩnh, để mà sống thì bạn đã đang tâm dầy xé thêm cái thân hình dở sống, dở chết của tôi. Bạn và bà con đã ngấu nghiến một cách ngon lành những miếng máu đọng trên lưng trên đầu, trên bụng, trên tay chân của tôi, và hôm nay tôi còn rùng mình khi nhớ đến bộ răng bé nhọn của bạn đã gậm những miếng thịt thười lười trên thân thể tôi…… Có ngờ đâu sau cái đêm ấy chúng ta lại có thể trở nên đôi bạn chí thân…”(trang 10).

Sống trong tù phải nuôi hy vọng gần gũi nhất đối với mình là phải mượn hình ảnh người đi trước đau khổ, để tự an ủi.

Sự kiện tâm lý xác đáng này được Thiên Giang nhớ đến Bakounine: (35)

“… Ngày xưa nhà cách mạng Bakounine bị giam chín năm, không thấy một người, không biết có ánh sáng, trọn ngày chỉ nghe những tiếng giầy của tên lính gác làm khuây. Thì ngày nay tôi có vợ chồng bạn, đôi sinh vật xinh xắn, mắt sáng đuôi dài, lông mượt, bộ tịch lanh lẹ…”

(...)… Và có một buổi, người tù được trả lại tự do trong một phút bất ngờ mà thâm tâm chỉ dàm nghĩ rằng đó là đi lĩnh cơm, cho nên không tiễn biệt được đôi bạn chung đời...”

Thiên Giang ghi lại hình tượng nhớ mong luyến tiếc của sự quen lệ đến bữa cơm mà vắng bạn đời, hẳn chuột buồn lắm. Mà cả đến tình người nhớ chuột cũng không kém. Đoạn văn ấy đẹp như bài thơ hay:

“… Chúng ta gặp nhau mùa xuân, nắng ấm trời trong… – Phút chia tay lại làm cho chúng ta, nhứt là tôi chín gan nẫu ruột, cái cảnh phân ly của ta còn đau đớn hơn cảnh phân ly của đôi vợ chồng son trẻ, chưa vui xum họp đã sầu chia phôi…”

Từ đó đến đây, mười lăm năm qua, mỗi độ đông tàn, xuân đến là mỗi lần tôi lại tan nát cõi lòng. Nhưng bạn ơi, việc đời là thế, biết ăn nói làm sao bây giờ?

Hôm nay, trong lúc người ta đua nhau may áo lông cừu gửi ra mặt trận cho những kẻ chịu đau khổ để tạo nên cảnh yêu vui, thì tôi lại nghĩ đến cái tình giữa bạn và tôi.

Hơn mười lăm năm qua, sự đời vẫn không có gì thay đổi, loài người chúng tôi vẫn tiếp tục giết tróc lẫn nhau…” (trang 47).

Lao Tù chỉ cần hai truyện ấy đủ tạo thành hội xuân loại văn tân tả chân ở giai đoạn văn nghệ bổ sung kháng chiến rồi.

Về dịch thuật, Giữa Chốn Ba Quân của Pouckhine, tác giả mạt sát, lên án bọn quan lại của thời phong kiến Nga Hoàng rất điển hình.

Nếu Pouckhine đã thành công trong chính tác và sự diễn đạt qua Việt ngữ của Thiên Giang đã tỏ rất thận trọng khi dịch thuật, bình văn. Bình luận về Pouckhine trong Giữa Chốn Ba Quân (La fille du Capitaine), Thiên Giang nhận xét cho là cải cách, vì sự thỏa hiệp của nhà văn đối với Nga Hoàng, nên không dám nghĩ đến cách mạng toàn diện.

Về sáng tác, Thiên Giang là nhà văn chủ lực trong nhóm Chân Trời Mới với lối văn định hướng, diễn đạt thể văn tân tả chân; tuy ông chưa thành công lắm trong địa hạt tiểu thuyết – nhưng trong giai đoạn ấy ông là một nhà văn đáng kể.

Truyện ngắn Thiên Giang mang hình tượng thời thế, nhân vật có tinh thần tranh đấu, song về nghệ thuật viết thì nhiều truyện chưa hấp dẫn; nghệ thuật chưa cao. Văn khô khan ở các truyện ngắn trong Lao Tù (trừ hai truyện kể trên) không khác gì vở kịch thiếu biến động kịch khiến nên buồn nản.

Thiên Giang đi vào loại tiểu thuyết tả thực ấy và nếu trau dồi nghệ thuật lên cao hơn, tất ông trở thành nhà văn xã hội chính trị nổi tiếng của bình diện văn học kháng chiến Nam Bộ thập niên 1950.

Tiết 5

KẾT LUẬN VỀ NHÓM TAM ÍCH

Sau nhóm Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà và các nhà văn độc lập, nhóm Tam Ích kháng chiến bổ sung góp một Thiên Giang, một Thê Húc, những nhà văn có nhiều khả năng văn nghệ và tài năng.

Ngoài Tam Ích ra, hẳn Tam Ích không là một Trương Tửu hoặc một Nguyễn Đức Quỳnh còn sáng tác mà Tam Ích chỉ là nhà chính trị chuyên lý luận biện chứng pháp tiếp nhận Chủ nghĩa Mác cầu may. Nhưng phải nhận rằng Chân Trời Mới góp công vào văn học kháng chiến bổ sung đáng kể.

Nếu một Voronsky-Trương-Tửu của Hàn Thuyên coi như một thí nghiệm văn hóa, một Tam Ích đã bị coi như là nhóm trí thức kháng chiến xa lông (résistance au laboratoire). Hẳn rằng sự chuyển hướng nhóm này đã bắt đầu bằng Thiên Giang quay sang giáo dục thuần túy. Phê bình nhóm Tam Ích qua duy vật biện chứng, chúng tôi chỉ căn cứ ở giai đoạn đó, không liên lạc gì về tư tưởng biểu hiện diễn tiến hôm nay. Và chúng tôi đã nói sự diễn tiến nhóm ấy ở phần khái quát và mỗi tiết nói về mỗi cây bút.

Phần thứ Ba

NHÀ VĂN ĐỘC LẬP ĐIỂN HÌNH

Tiết 1 : – KHÁI QUÁT VỀ NHÀ VĂN, THƠ ĐỘC LẬP ĐIỂN HÌNH

Tiết 2 : – HOÀNG TẤN

Tiết 3 : – BÌNH NGUYÊN LỘC

Tiết 4 : – HOÀNG TỐ NGUYÊN.

Tiết 1

KHÁI QUÁT VỀ NHÀ VĂN, THƠ ĐỘC LẬP ĐIỂN HÌNH

Các nhà văn độc lập, là nhà văn không đứng trong nhóm nào cùng thảo luận, sáng tác và có sinh hoạt văn nghệ chung.

Ngoài các nhóm Lý Văn Sâm và Chân Trời Mới còn có các nhà văn độc lập như: Hợp Phố (nữ), Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Quốc Ấn, Vũ Xuân Tự, Liên Chớp, Việt Tha, Bùi Nam Tử, Võ Hoàng Khanh, Phạm Thu Cảnh… Về biên khảo, bình diện văn nghệ miền Nam, nói riêng, thật vô cùng nghèo nàn. Quay đi quay lại cũng vẫn chỉ có một Thiếu Sơn, một Nguyễn Bảo Hóa, một Tam Ích, một Triều Sơn...(36)

Riêng Thiếu Sơn tiền chiến, chúng tôi đã viết ở Nhà Văn Tiền Chiến, 1930-1945. Thiếu Sơn hậu chiến không có gì đáng nói, vì xét rằng ông đã phát triển khả năng tận cùng ở giai đoạn trước rồi.

Các nhà văn độc lập điển hình như Hoàng Tấn thiên về đấu tranh xã hội, Bình Nguyên Lộc lãng mạn cách mạng…

Về thơ, đề cập đến hai nhà thơ điển hình là Hoàng Tố Nguyên và Vũ Anh Khanh .

Tiết 2

HOÀNG TẤN

Tiểu sử.

Hoàng Tấn tên thật Hoàng Đức Tấn, sinh 1920 ở Hà Nội. Tác giả tập bút ký CỨU LẤY QUÊ HƯƠNG (Nam Việt, 1949) và tác giả nhiều bài thơ như Giang san khói lửa v.v... đăng trong tuyển tập thi ca THƠ MÙA GIẢI PHÓNG (1949).

Phân tích tác phẩm chính.

Hoàng Tấn, bạn văn đồng thời với Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Trúc Khanh… Nhưng sở dĩ chúng tôi liệt ông vào nhà văn độc lập, vì lẽ ông không sinh hoạt với nhóm trên, mặc dầu đối với nhà văn trong nhóm ông là bạn thân. Có những đêm Lý Văn Sâm đã viết văn ở thảo ốc Hoàng Tấn (Thèm Một Ngọn Đèn).

Nói chung, tác phẩm là sáng tác riêng, cũng không trao lại cho nhóm đọc; có nghĩa là không có sinh hoạt văn nghệ chung.

Cứu Lấy Quê Hương tả tâm trạng một thanh niên yêu nước phải bỏ bưng về thành chữa bệnh. Ông diễn tả tâm lý nhân vật vững vàng, có nhiều đoạn đấu tranh tư tưởng an phận, hưởng thụ, quên đấu tranh rất sôi nổi trong nội tâm dằn vặt. Thi trong truyện xưng hô bằng tôi. Vợ chồng anh Điển là nhân vật phụ.

Thi nằm ở nhà vợ chồng Điển điều trị. Điển cũng là thi sĩ. Vài trò thi sĩ trong thời đại hiện hữu như một kiếp sống khổ ải nhất. Hoàng Tấn phác họa:

“… Ôi! Nếu thi sĩ ở nước ta có thể gọi được là một nghề? Điển còn có một nghề mọn rất phổ thông bất cứ ở thời nào. Nếu gặp lúc công việc trôi chảy, thì có thể nuôi đủ một gia đình sung túc gồm có: cha, mẹ, bốn người em bé, vợ và một đứa con gái nhỏ… (trang 7).

Điển hình cho cuộc sống một thi sĩ vào giai đoạn 1949, Hoàng Tấn còn lạc quan nhiều, chính ra thực trạng và cuộc đời còn đốn mạt túng bấn hơn nhiều; mà Lý Văn Sâm đã viết trong “Đời Tàn Trong Ngõ Hẹp”(đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bẩy 1949). Khi Thi trở về thành, nhìn lại nơi ở cũ, ông nói lên một ý tưởng chua chát của một người phải nhìn lại quãng đời ngày xưa; hiện đang sống lại qua ngoại cảnh liên tưởng. Ông viết rất thành khẩn về một tâm trạng đau đớn.

“… Khi về tới đầu đường Bạch Đằng – chỗ ở cũ của tôi – tôi có một cảm tưởng kỳ dị rợn lòng. Tất cả bày ra trước mắt tôi một cảnh tang thương. Nhiều giẫy nhà đã rủ nhau về cát bụi. Ngổn ngang gạch và ngói, từng nếp tường xiêu, ngôi nhà của tôi còn sừng sững thi gan cùng khói lửa, in trên nền trời sám ngắt… “(trang 15)

Và khi Thi vào đến ngưỡng cửa nhà – không luyến tiếc đồ đạc mất; nhưng chỉ buồn vì mất bản thảo và di cảo của các bạn văn. Ông diễn tả tha thiết, khiến người đọc liên tưởng đến một bảo tàng viện VICTOR HUGO ở Pháp, chứa sách và bản thảo của văn hào. Người đọc lại nhớ đến công trình thu góp văn hóa của tất cả dân Pháp:

“… Đồ đạc thì chả kể làm chi sau hồi loạn lạc, chỉ ngẩn ngơ tiếc nhưng tập bản thảo, những chồng sách quý, nhất là di cảo của những bạn làng văn quen biết sớm mệnh chung…” (trang 16).

Cuối cùng, đến bản thảo của ông, mà một người con gái yêu thơ đến tột độ, thêu thơ đến rỏ máu cả năm đầu ngón tay. Kỷ niệm ấy được diễn tả lại thật cảm động và ở đây chỉ tán tụng thái độ yêu văn thơ người ấy:

“… Mất thực rồi ư? Mất thực rồi tập SUÔI GIÒNG SÔNG NHUỆ. Đó là một tập thơ lịch sử dầy năm mươi trang, thêu bằng chỉ vàng, đều đề bằng tơ đỏ trên giấy lụa toàn tơ Hòa Mạc, thêu năm ngày năm đêm bởi bàn tay của Hiền, người thân mến. Hiền đã sả hình hài ra mà thêu, hối hả nức nở mà thêu, thêu quên ngủ, thêu bỏ ăn. Thêu đến rỏ máu cả năm đầu ngón tay. Mỗi chữ tức là một giọt nước mắt, mỗi giòng là một giòng máu. Mỗi trang thấp thoáng ít nhiều hình hài của kẻ thêu thơ…” (trang 17).

Rồi Thi sang ở nhà vợ chồng Thịnh. Sự săn sóc của vợ Thịnh đối với Thi trong khi đang ốm; khiến Thịnh bực bội:

“… Tôi thở ra à họ lại ghen tuông với nhau gì đây? Tôi ngồi dậy, lập cập quơ chân kiếm chiếc guốc văng tận gầm giường. Tiếng chị Thịnh bỗng vọng ra dữ dội.

Anh Thi, xin mời anh vào trong nhà này, xin mời anh…

Đấy anh vào đây. Nói lạy giời chứng cho lòng tôi. Tôi thấy anh mệt không ai săn sóc, tôi nấu giùm anh nồi cháo có thế thôi mà…” (trang 33).

Đó là sự ghen tuông đưa đến mục đích:

“… Sở dĩ tôi phải nấn ná mãi nguyên do, nói ra mà xấu hổ, chỉ vì một người đàn bà. Thật thế, muôn vạn trùng dương mình có thể vượt được. Đèo núi gập ghềnh mình có thể qua được, vậy mà tôi lại hèn nhát để đến nỗi đền giọt nước mắt người đàn bà trói chặt chỉ tay. Người đàn bà đó anh thừa hiểu là vợ tôi. Bao nhiêu phen tôi định rũ áo ra đi là bấy nhiêu phen bị nó dày vò đay nghiến…” (trang 39)

Và không biết tìm cớ gì hơn vu oan vợ mình thông dâm với bạn, để đủ can đảm lên đường cứu nước; thì quả là một thái độ rất hỏng của tác giả đã chép sự thật ở ngoài đời, thiếu chủ quan định kiến, Hoàng Tấn đặt sai đối tượng và như thế sẽ đưa đến mục đích sai. Một người lính chiến đấu có thực tâm yêu nước không thể dày vò bằng một thái độ đê mạt như vậy được!

Dàn bài cốt truyện, tác giả có mục đích tuyên truyền cho người đọc một ý niệm yêu nước. Bố cục tổng quát vững, nhưng từng đoạn hỏng. Ở Hoàng Tấn còn có một thái độ hỏng nữa, đó là bội thực sự hiểu biết. Sự hiểu biết thu góp được ở ngoài đời cứ vội vã tuôn ra và không đúng chỗ:

“… Gia đình của Điển đối với tôi nồng hậu quả, nhưng tôi có thể đóng vai quý khách mang tiếng là một kẻ Tề nhân mãi sao?

(...) Tôi liên tưởng đến thuở An Lộc Sơn mang quân yểm bách Tràng An, khiến vua Minh hoàng phải chạy vào Thục. Quân An lộc Sơn trùng điệp thắt vòng vây làm cho Đỗ Phủ bị nghẽn trong thủ đô thoát ra không kịp… Tứ phương đùn lên những áng mây đỏ, chuyển hẳn lại khung cảnh của trời cao chót vót như hình những giải núi Yên…”

Điển cố ấy nên tránh dùng trong sáng tác. Nếu không căn cứ vào thực tế hôm nay so sánh, thì người đọc làm thế nào mà hiểu được ông muốn nói gì? Thái độ bội thực sự hiểu biết ở đây không còn là cách dùng để so sánh nữa.

Kết luận.

Văn Hoàng Tấn tương đối hấp dẫn. Nội dung Cứu Lấy Quê Hương tiến bộ, có chính nghĩa. Đoạn kết vẫn là khích lệ người yêu nước lên đường chống trả xâm lăng đe dọa – Tây thuộc lần thứ hai. Sẽ tạo được kỹ thuật cao hơn tránh được điển cố dùng gò ép và không đúng chỗ vào tiểu thuyết khi thực hiện sự không cần thiết.

Tiết 3

BÌNH NGUYÊN LỘC (1914 – 1985)

Tên thật Tô văn Tuấn. Sinh năm 1914 ở Tân Uyên Biên Hòa. Cùng quê hương với nhà văn Lý văn Sâm. Tác phẩm đã xuất bản Nhốt Gió (truyện ngắn, Thời Thế 1950 xuất bản).

Ông viết cho nhiều báo văn nghệ ở Sài gòn và là tác giả rất nhiều truyện ngắn, như: Bà sao giữa giời… chẳng hạn.

Nhốt Gió gồm mười ba truyện: Nhốt gió, Chó điên, Lò chén chòm sao, Bàn tay năm ngón, Qua lối cũ, Gái bách xê, Đất không chết, Hai buổi giúm cù, Trụ thứ mười, Vướng bận, Thèm người, Còn yêu, Không trốn nữa. Truyện hay nhất là Lò chén chòm sao và Thèm người … Còn truyện như Cái bách xê trào phúng hoạt kê ít chất nghệ thuật, nhạt nhẽo.

Đọc truyện Bình Nguyên Lộc luôn nhận ra rằng ông thích đem triết lý nhân sinh đời sống, từng cử chỉ nho nhỏ đưa vào hình tượng văn nghệ. Cái lý thú đọc nhất đọc văn ông là nhẹ nhàng, bình dị, truyện phiêu lưu rất bình tĩnh giải quyết vấn đề gai góc (Thèm người). Cái tế nhị và buồn thấm thía sau khi đọc xong Lò chén chòm sao. Nếu Bùi Hiển tiền chiến viết rặt cái gì thuộc về quê mình thì hôm nay Bình Nguyên Lộc cũng vậy. Ông chỉ viết cái gì gần gũi ở quê hương hoặc truyện chứng kiến rõ rệt.

Lò chén chòm sao tả chú Hoa kiều Minh hương, có một phút thấy thương mẹ và nghe lời mẹ để nặn chén, vẽ hoa cho chén bát đẹp hơn lên. Lần ấy trong đời, hắn thấy yêu quê hương là nơi mà hắn sinh ra. Thật tuyệt diệu khi ông diễn tả tâm trạng được người Minh Hương yêu quê mẹ như thế nào?

So tác phẩm đầu tay đến nay, chúng ta thấy ông chuyển dịch tâm lý nhân vật bề mặt đến bề sâu nhân vật và nội dung hướng về giai cấp nghèo. Chẳng hạn như xóm Đề Pô đăng dở dang trên tuần báo Nguồn Sống Mới (1954), diễn tả cuộc sống bên người dân đô thị sống chui rúc trong các kho hàng hoặc lề xã hội rất cảm động.

Bình Nguyên Lộc có một hơi văn độc đáo về truyện ngắn. Ông không là nhà văn tranh đấu như Lý Văn Sâm hoặc Vũ Anh Khanh, cũng không phải là nhà văn xã hội đứng trong trường lãng mạn cách mạng trong giai đoạn miền Nam kháng chiến bổ sung.

Nhưng Bình Nguyên Lộc là nhà văn thích đem những thái độ sóng nho nhỏ hàng ngày để cải tiến lại cho đời đẹp hơn lên.

Với lối văn dung dị, tế nhị, nhất là kỹ thuật viết bình thản, dù nhân vật phản diện, Bình Nguyên Lộc cũng không bao giờ nỡ lên án tệ hại mà chỉ châm biếm nhè nhẹ mà thôi.

Tiết 4

HOÀNG TỐ NGUYÊN (1929–1975)

Tên thật là Lê Hoàng Mưu, quê quán ở Gò Công (Nam Bộ). Về bình diện thi ca miền Nam 1945–1950 chỉ có hai nhà thơ điển hình nhất là Vũ Anh Khanh và Hoàng Tố Nguyên. Họ bao trùm cho các nhà thơ khác như: Ái Lan, Tố Phong, Trúc Khanh, Khổng Dương vv…

Ái Lan, một nữ thi sĩ có nhiều triển vọng loại thơ tranh đấu như Thu bất hủ; cũng như Trúc Khanh có trong loại thơ tâm tình lành mạnh, một thứ Nguyễn Bính non tay trong kháng chiến miền Nam.

Hoàng Tố Nguyên trội hơn hết, sau Vũ Anh Khanh. Tác giả nhiều bài thơ đăng rải rác trên báo, mặc dầu chưa in một tác phẩm nào… Những bài như: Vọng hướng sao rơi, Xuân về say ý nhạc… đăng trong tuyển tập thi ca Thơ Mùa Giải Phóng (5.1949).

Thơ Hoàng Tố Nguyên đi vào thực tiễn cách mạng, kỹ thuật cao, truyền cảm người đọc như Tha La của Vũ Anh Khanh. Như Vũ Anh Khanh, Hoàng Tố Nguyên nổi tiếng vì thơ có hình tượng sống mới, tiết tấu âm thanh mới, không dùng sáo ngữ, hoặc điển cố, như bài thơ Sa Cơ của Thẩm Thệ Hà hoặc Hoàng Tấn với Giang san khói lửa mù bay…

Xuân về say ý nhạc là bài thơ của một đồng đội chiến đấu chống xâm lăng Tây thuộc lần thứ hai; mà tác giả là Hoàng Tố Nguyên, nhà thơ xuất sắc.

Về bình diện văn nghệ Nam bộ 1945 –1950, hẳn không thể quên văn Lý Văn Sâm, thơ Vũ Anh Khanh, thơ Hoàng Tố Nguyên... là những người góp vào nền văn học cực thịnh của Nam Bộ.

XUÂN VỀ SAY Ý NHẠC

Anh đi miền Sông Hậu

Tôi về khám thị thành

Đêm đêm, nhìn Bắc đẩu

Nôn nao lòng nhớ anh.

Trời nơi anh sáng chứ?

Hoa đời nở ý xanh?

Máu sông sầu cuồn cuộn,

Có vương tình trăng thanh?

Gió muôn trùng… gió lộng.

Vẫn vang khúc viễn hành?

Bạn bè còn đủ cả

Hay cuối bãi đầu ghềnh?

Tương tàn bao thảm cảnh

Có hiện vào mắt anh?

Xuân về say ý nhạc

Có cạn chén tâm tình?

Ngựa Hồ thương Gió Bắc

Có vẹn lời sắt đanh?

Hay men Tần dễ bén

Mà say khúc hậu đình?

Mà quên thề cổ biệt,

Mà nguôi hận bất bình?

Nơi đây sầu phong tỏa

Hương đời cạn ý xanh

Mây giăng mờ tám hướng

Nắng loãng bụi kinh thành

Có lắm phường cẩu nhãn

Còn mơ chuyện Đế Đình.

Gái trai cười phấn lụa

Cao hát khúc Ân tình

(Còn mong gì tuyết trắng

Mà dâng hồn thơ xanh)

Sầu đông cay độc ẩm

Hồn đau nghẹn bất bình

Đêm đêm nằm đếm tóc

Nghĩ thẹn kiếp phù sinh.

Xuân về say ý nhạc

Đôi câu gọi chút tình

Trăng liềm chênh chếch đổ

Về phương nào đó anh?

(1949)

Trích trong “ Mùa Giải Phóng”

HOÀNG TỐ NGUYÊN.

Phần thứ Tư

SƠ LƯỢC CÁC NHÀ VĂN ĐỘC LẬP

Tiết 1: – QUỐC ẤN

Tiết 2: – SƠN KHANH

Tiết 3: – VŨ XUÂN TỰ

Tiết 4: – HỢP PHỐ

Tiết 5: – PHI VÂN

Tiết 6: – NGUYỄN BẢO HOÁ.

TIỂU MỤC:

1. QUỐC ẤN.

– Tên thật là Nguyễn Ngọc Nhơn. Viết rất nhiều truyện ngắn đăng rải rác trên các tuần báo Sài Gòn vào những năm 1949-1950.

Tác phẩm đã xuất bản: SOS (truyện ngắn) (Tiếng Chuông 1949) VĨ TUYẾN XI (truyện ngắn) (Nam Việt 1949), ĐÁP LỜI SÔNG NÚI (1949 truyện ngắn) v.v... Truyện của Quốc Ấn mang triết lý nhân sinh thi vị và bổ ích như truyện MƯA (Vĩ tuyến XI). Trong đó ông đưa ra hai nhân vật: Phan và Xuyến. Phan là học trò nghèo. Xuyến con nhà giàu. Phan ôm mộng học giỏi sau này thi đỗ làm công chức cao cấp, có thể ngồi đầu phòng một bộ; Phan yêu Xuyến vì chỉ muốn sau này nhờ thanh thế nhà nàng, Phan có thể bước lên đường danh vọng dễ dàng.

Buổi thi Tú tài, Phan sửa soạn đến trường. Thì buổi ráp bắt đầu, tất cả người trong phố phải ra bãi cỏ. Cho đến 10 giờ kém 5, Phan được trả lại tự do thì đã lỡ kỳ thi. Rồi anh đến nhà một người bạn viết báo, Phan suy tưởng kỹ lưỡng hơn, nào cuộc đời chỉ cần tiền bạc là đoạt được hạnh phúc mong muốn. Phan đau đớn nghĩ đến thái độ im lặng của Xuyến.

Một buổi Xuyến và Phan gặp nhau lần cuối, sau đó Phan bỏ nhà ra đi. Mục đích Phan cho Xuyến nhận định về sự nghĩa lý sống, được giác ngộ anh không còn ham giàu có.

Hoàn cảnh Xuyến khác hẳn, nàng tham gia cách mạng. Sau bị bại lộ, phải rời đất nước, lúc đó Phan mới hiểu người yêu hơn.

Hầu hết truyện của Quốc Ấn mang một hình tượng mới của nếp sống thời đại. Văn dung dị, nội dung lãng mạn cách mạng phát triển trong hầu hết trong tác phẩm. Quốc Ấn là nhà văn có nhiều triển vọng ở loại văn phân tiùch tâm lý. Lối văn viết thiếu hấp dẫn người đọc, có lẽ ông viết chưa đều tay. VĨ TUYẾN XI bị chính quyền hồi ấy kiểm duyệt bỏ nhiều; nên giá trị bị giảm một phần lớn nhất là những đoạn văn chuyển ý.

2. SƠN KHANH.

Tên thật Nguyễn văn Lộc. Tác phẩm đã xuất bản: Giai Cấp (Sống Chung 1949), Tàn Binh (1949) và nhiều truyện ngắn hoặc thơ đăng rải rác trên báo và trong tuyển tập thi ca Thơ Mùa Giải Phóng... Chủ trương NXB Sống Chung.

Truyện dài của Sơn Khanh tiến bộ, từ hình thức đến nội dung, hướng về mặt cải tiến xã hội. Giai Cấp, truyện dài, tả cuộc sống bọn thư lại công chức, mạt sát công chức thực dân và đưa mẫu một công chức trẻ tuổi sống chung với giới này làm mẫu mực và kết thúc là không thể thỏa hiệp. Tập truyện dài còn mang nhiệm vụ là đả phá mảnh bằng chỉ làm khổ tâm não thanh niên. Theo ông, muốn đánh giá con người có khả năng hay không thì mảnh bằng chưa là đủ.

Thơ Sơn Khanh không mấy đặc sắc. Tuy nhiên có một bài thơ khá hay như Mơ một trời hồng, lên án bọn cường quyền xâm lược. Nói chung, nội dung thơ tiến bộ, nhưng kỹ thuật và hồn thơ chưa dồi dào, thiếu truyền cảm, rời rạc.(36)

3. VŨ XUÂN TỰ.

Tên thật dùng làm bút hiệu trong tác phẩm đã xuất bản hoặc phóng sự đăng báo. Sinh năm 1913 ở Hà Nội. Viết cho các báo Trung Bắc Tân Văn, Trung Bắc Chủ Nhật (1941). Tác phẩm đã in: Túi bạc Sài Gòn (Trung Bắc Tấn Văn xuất bản), Muộn chồng…

Vào Sài Gòn viết cho Nam Kỳ tuần báo, sau 1948 viết cho các báo Tiếng Dội, Thần Chung... Năm 1949 cho xuất bản cuốn phóng sự Tài Xỉu.

Vũ Xuân Tự viết phóng sự châm biếm chua cay, sâu độc, ghi lại được nếp sống thời đại qua mẩu phóng sự nho nhỏ, nên không tạo được hơi dài phóng sự, nên Vũ Xuân Tự ít được biết đến.

4. HỢP PHỐ.

Tên thật Trần Thị Hợp Phố, sinh ngày 7/7/1923 ở Đà Nẵng. Em ruột nhà văn Thiên Giang. Tác phẩm đã xuất bản: Chị Dung (Nam Việt) và truyện ngắn đăng trên các báo. Hợp Phố hướng về giáo dục nhiều hơn, đi vào con đường giáo dục xã hội qua truyện nhỏ. Nhưng chưa có gì trội. Tuy không đặc sắc lắm; song tập truyện Chị Dung phân tích tâm lý tế nhị, văn phong nhẹ nhàng. Qua đời ở Sài Gòn năm 2001.(37)

5. PHI VÂN.

Tên thật Lâm Thế Nhơn, sinh năm 1917 ở Cà Mau. Tác phẩm đã xuất bản: Đồng Quê (Tân Việt 1949) sau tái bản nhiều lần và truyện đầu tiên: Trên bãi cát vàng.

Phóng sự có màu sắc bản địa Nam Bộ, nhiều hình tượng điển hình địa phương từng miền, nên đã được dịch sang tiếng Trung Hoa. Đọc tác phẩm Phi Vân, người đọc có thể hiểu tổng quát cuộc sống nông thôn miền Nam. Đồng Quê được giải nhất văn chương Hội Khuyến Học Cần Thơ 1943. Tác phẩm ấy, ở hôm nay, không thể so sánh với tác phẩm đương thời kháng chiến 1945-1950. Văn Phi Vân ghi chép theo ngôn ngữ nói, chủ ý thô thiển; chính tác giả cũng tự trạng điều đó trong sách (Lời nói đầu).

Bức tranh Nam Bộ bao gồm phong tục, tập quán địa phương được Phi Vân chép lại khá đầy đủ. Đồng Quê được gọi là tập ảnh tài liệu giá trị của nhà phóng sự phong tục đồng quê nổi tiếng, tài năng, giá trị là Phi Vân.

6. NGUYỄN BẢO HÓA – (1925 – 1990)

Tên thật Nguyễn Văn Đình. Sinh 1925 ở Bến Tre. Tác giả tập truyện dã sử Ải Chi Lăng, Bóng Giai Nhân và cuốn biên khảo sử học : Nam bộ Chiến Sử 1859 – 1868, Lửa Sống 1949) v.v... Truyện dã sử không đặc sắc, nhưng về mặt ghi chép tài liệu sử học ông là nhà khảo sử giá trị, có lập trường của dân nhược tiểu.

Nam Bộ Chiến Sử, một sử liệu quý giá nói về uyên nguyên mất nước, bình luận xác đáng về một giai đoạn lịch sử tối tăm dân tộc (Tây thuộc Việt Nam ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX). Lối viết sử với lập trường tiến bộ, văn sáng gọn, là nhà chép sử vào thời đoạn ấy. Sau, ông viết tiểu thuyết dưới bút hiệu Tiêu Kim Thủy (Tiếp và Bội), Tô Nguyệt Đình (tiểu thuyết dã sử) và khảo luận viết về Phạm Hồng Thái... Nguyễn Bảo Hóa chỉ thể thành công trong loại viết sách biên khảo. Về tiểu thuyết chưa đặc sắc nghệ thuật, bố cục, quan sát, dàn cảnh, tình tiết, diễn đạt tâm trạng nhân vật cho thành một cuốn truyện hay.

PHẦN KẾT THÚC

Trước kia, một Hồ Biểu Chánh không thể độc lực gây nổi phong trào văn nghệ, một sự kiện nào đáng kể đánh dấu mức tiến bộ văn học Nam Bộ. Ấy là chúng tôi chưa phân tiùch đến ảnh hưởng tai hại lối văn mỵ dân, thô tục của cả một trào lưu đầu độc, như loại tiểu thuyết hồng hạ cấp, (rose) của Pháp. Chúng tôi gọi là romantisme du voyou (tiểu thuyết ba xu).

Ngoài những nhà văn điển hình trong nhóm Lý Văn Sâm như: Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Dương Tử Giang... Nhóm Chân Trời Mới: Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc và các nhà văn độc lập điển hình, Bình Nguyên Lộc xu hướng văn tâm tình tiến bộ, Hoàng Tấn bút ký tranh đấu, thơ Hoàng Tố Nguyên thơ. Còn lại chỉ viết sơ lược với các nhà văn, thơ khác.

Tổng luận bình diện văn nghệ từng miền; thì Nam Bộ đã đánh dấu được một bước đi rất mạnh trong lịch sử văn nghệ giai đoạn 1945 – 1950. Với nhà văn miền Nam, nhất là lỗi chính tả, cần phải trau dồi. Vì âm thanh nặng dễ nhầm lẫn tai hại về chính tả. Những nhà văn đã cố gắng nhất cho sự kiện này như Lý Văn Sâm , Thẩm Thệ Hà... cũng chưa tránh nổi.

Giai đoạn cực thịnh nhất của lịch sử văn nghệ Nam Bộ (nói riêng) là ở những năm 1945 – 1950 của thế kỷ XX.

Sài Gòn 22 tháng 12 năm 1956


CÒN TIẾP ...



VVM.04.3.2023

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com