Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      




BÀI THƠ GHẸO THỊ LỘ KHÔNG PHẢI LÀ CỦA NGUYỄN TRÃI



A i cũng biết bài thơ gọi là ‘Ghẹo Thị Lộ’ tương truyền là của Nguyễn Trãi:

  Ả ở đâu bán chiếu gon,
Hỏi xem chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu nay được bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa được mấy con? 

Và bài thơ trả lời tương truyền là của thiếu nữ Thị Lộ:

Em ở Hồ Tây bán chiếu gon,
Việc chi ông hỏi hết hay còn,
Xuân thu nay được trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, có chi con!

Bài thơ suông sẻ, không có chữ khó do ngày xưa gọi cách khác nay cách khác, cũng không có cấu trúc câu văn làm khổ người đọc hiện nay. Chỉ có một từ khó là gon trong từ chiếu gon. Tự điển Huình Tịnh của không có từ gon, tuy rằng có tới 53 mục từ chiếu như sau:

Chiếu cạp | Chiếu bông | Chiếu du | Chiếu chẽ | Chiếu chỉ | Ban chiếu chỉ | Chiếu | Chiếu thơ | Chiếu dụ | Chiếu liếp | Chiếu lác | Chiếu mây | Chiếu ngà | Chiếu bạch định | Chiếu kế | Hàng chiếu liếp | Chiếu hoa | Chiếu dày trân | Chiếu nôi | Chiếu manh | Chiếu đất màn trời | Chiếu sáng | Chiếu khắp | Chiếu hào quang | Nhựt nguyệt tuy minh nan chiếu phúc bồn chi hạ | Ngồi đồng chiếu kính | Chiếu ứng| Chiếu theo | Chiếu giám | Linh tê chiếu thủy | Đèn chiếu ngủ sắc | Chiếu tướng | Chiếu cố | Chiếu con cờ | Chiếu diễn | Đổng giám, chiếu giám, giám lượng, giám nguyên | Đắp chiếu dọc | Chiếu đắp | Liệt chiếu giầng | Giầng cao chiếu sạch | Giầng ngà chiếu ngọc |Chiếu hội | Chiếu y | Chiếu kiến | Ngồi đồng chiếu kiến | Chiếu kính | Chiếu lâm | Chiếu lệ | Chiếu luật | Ngồi đồng chiếu kinh | Chiếu nhận | Chiếu quản | Ra chiếu chỉ |

(Bấm con troll và click bên tay trái con chuột để thấy định nghĩa)

Hai tự điển Génibrel và Taberd đều có giải thích gon 棍 (mượn từ côn) là một loại lác, loại bàng (espèce de jonc). Chắc xưa ở miền Nam có nhiều loại lác, bàng để làm chiếu làm nóp, làm giỏ, làm cặp học trò, làm buồm nên vùng chợ lớn ngày xưa có đường tên gọi là Quaie des Joncs…

Ngoại sử kể lại là từ sau cuộc đối đáp đó cô bán chiếu Thị Lộ trở thành nàng hầu thân cận nhứt của đại thần Nguyễn Trãi… và sau đó xảy ra chuyện tru di tam tộc họ nhà Nguyễn Trãi do cái án vườn trái vải (lệ chi viên).

Tôi không được hân hạnh thấy hai bài xướng họa trên trong chính sử nào, của Ngô Sĩ Liên chẳng hạn, cũng chưa thấy trong một sách Nôm nào, chỉ thấy trong các sách bằng quốc ngữ chép qua chép lại.

Từ đó tôi ngờ rằng hai bài xướng họa nầy xuất phát từ cảm hứng của một nhà Nho nào đó khoảng giao thời giửa hai thế kỷ 19, 20, cảm hứng phát ra từ trong thâm tâm ông - hay do ông mô phỏng một bài thơ nào mà ông thich - trong khi ông sáng tác ra truyền thuyết ‘Thị Lộ- Con rắn trả thù’ để giải thích về trường hợp oan ức của đại công thần Nguyễn Trãi. Lý do là ta khó thể hình dung được một đại công thần, vào thời Khổng giáo cực thịnh ở nước ta, lại có thể cợt nhả một thiếu nữ mới lớn, đáng hàng cháu chắt của mình. Sự tưởng tượng của tác giả bài thơ đó càng bộc lộ hơn khi ta đọc   Quốc Âm Thi Tập   của Nguyễn Trãi với lời thơ gút mắt xa xưa của vần thơ cũng như của ngôn từ. Lấy đại bài đầu tiên: Thủ vĩ ngâm:

Góc thành Nam lều một căn.
No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn dường ai quyến,
Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá,
Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải.
Góc thành Nam lều một căn.

Bài thơ có hai điểm khó căn bản:

a. Từ ngữ xưa:  -con đòi - (tớ gái, hầu gái, tỳ nữ..), - bà ngựa  -(con ngựa, ngựa),  -vằn  -(con chó, con vện),  -quyến - (dụ, dụ dỗ),  -hẹp hòi - (chật chội, nhỏ),  -thú thứa  -(thanh thản, thong thả), - triều quan - (quan trong triều đình).

b. Cách nói khác ngày nay:  -no nước uống  -(nước thì có nhiều), - thiếu cơm ăn - (thức ăn thì không đù),  -dường ai quyến - (bỏ đi, như là có ai dụ dỗ)…

Không phải chỉ có bài nầy mới khác xa với hơi hướm của bài ghẹo Thị Lộ, bài nào trong Quốc Âm thi Tập cũng vậy, khác biệt như trắng và đen.

Chuyện nầy cũng như chuyện quyển Gia Huấn Ca mà trước đây có thời được gán cho Nguyễn Trãi, và mấy chục năm trước cái thoại nầy đã bị bác bỏ đi bởi học giới.

Mươi năm trước tôi được người bạn tặng cho quyển sách mỏng, toàn chữ Nôm viết ở mặt sau những tờ lịch sách, nói là sưu tập ở Cái Tàu Hạ, Sadéc. Trang đầu có ghi  -Tân Dậu niên 辛酉年, bát nguyệt 捌月,  -sơ thập nhựt 初拾日, trò Qui ký 徒䢜記 . Tức là trò Qui ghi chép ngày mồng 10, tháng tám, năm Tân Dậu, trong đó có bài thơ tôi xin ghi lại (theo bản chụp trên):

- Con gái nhà ai bán rượu ngon,
Lại đây anh hỏi hết hay còn.
Xuân đến năm nay mười mấy tuổi,
Thằng bồng con nẩy cháu hay con.
- Vốn thiệt tôi là bán rượu ngon,
Mua không mà hỏi hết hay còn.
Xuân đến năm nay mười tám tuổi,
Chồng đà chưa có lọ là con.
(NVS phiên âm)

Bài chép trong sách Nôm năm Tân Dậu (1921) vậy nó phải được truyền tụng ở đâu đó cả vài thập niên trước.

Và chắc hẳn là từ sự truyền tụng đó một thoại ta có bài bài bán rượu ngon nầy và một thoại ta có bài bán chiếu gon nói ở trên.

Tóm lại bài bán chiếu gon  chắc chắn là không phải của Nguyễn Trãi. Nếu ở đâu đó có học giả nào đã xác nhận điều nầy với lý chứng khác thì chúng tôi rất mừng và cũng rất cảm ơn.

(California, 26 tháng 9 năm 2017)






VVM.21.2.2023

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com