Việt Văn Mới
Việt Văn Mới





        

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM


KỲ THỨ IX.

THAY LỜI DẪN

Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..


VÀI DÒNG TÂM SỰ NGƯỜI VIẾT SÁCH

T rước hết cảm ơn bậc đàn anh bước trước: Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh – Hoài Chân ... (chẳng là gần với tài liệu văn học tham khảo, cũng như so sánh).

Viết sách biên khảo hay phê bình, giá trị nhiều hay kém có thể nằm trong vài ý kiến dưới đây: Lập trường người viết phải có trước khi tìm kiếm tài liệu. Ấy là đã phải kể tới kiến thức, học và đọc; khả năng và tâm hồn văn nghệ nhạy cảm của người viết phê bình.

Lại cần kinh nghiệm, nhỡn quan nhìn, phải được chế biến theo lập luận người viết càng nhuyễn, sách càng phong phú. Không thể coi sách tương tự như cours nhà trường, làm thành gọi là biên khảo, phê bình văn học. Cũng như étude, non-fiction, fascicule, étude critique sur critique phân minh rõ ràng.

Tài liệu dồi dào, nhưng tài liệu nào chưa đọc, không nên bao biện. Người viết không định ý, lập luận; hẳn tài liệu phong phú dồi dào đi nữa; cuối cùng người viết chết theo với tài liệu sưu khảo được. Nhớ tới Nguyễn Hiến Lê trong một sách biên khảo bàn về tài liệu, nhất là tìm tài liệu văn học, sử học Việt Nam khó gấp bội phần khi sưu tập tài liệu tương tự ở nước ngoài. Ý kiến thật xác đáng. Nước ta triền miên khói lửa, và tầm mức thẩm định giá trị tài liệu văn học chưa được sử dụng đúng mức, công bằng.

Cộng đời sống thấp kém, ít thời giờ đọc sách, mua sách, bảo tồn sách, nên tủ sách văn học Việt Nam cần cho người viết sử dụng còn ở tình trạng rất thiếu thốn.

Khi viết bộ sách này, khích lệ tôi nhiều nhất phải kể tới một người: đó là anh Nguyễn Đức Quỳnh. Ông nhắn nhủ tôi rằng: “tài liệu nhiều chưa chắc đã là một yếu tố thành công, còn phải dám làm, dám nhận trách nhiệm”.

Đôi khi, chính kẻ dám làm lại liều lĩnh và dám biết mình ngu. Như vậy, chắc chắn tôi biết trách nhiệm khi viết sách. Cảm ơn một lần nữa nhà văn lão thành Nguyễn Đức Quỳnh, ông bạn văn tiền chiến vong niên. Nữa, cho tôi xin cảm ơn thêm vài tấm áo vải lao động: như anh chị Hai Nụ ở Xóm Chùa (Tân Định) làm nghề thợ thêu. Anh chị nuôi sống tôi hai năm trời: cơm và nhà ở. Nhà thuê vào năm viết bộ sách là một trăm năm mươi đồng. Tiền cơm bốn trăm đồng. Chưa hết, ông già Lịch bán thuốc lá, cũng ở đây; cho tôi chịu khoảng hai ngàn đồng tiền thuốc lá. Thuốc lá Ruby khoảng sáu đồng một bao. Sáu tháng liền, tôi chỉ đi ra tới ngõ; xa hơn là 147B Trần Quang Khải (Sàigòn 1) tới tiệm cho thuê sách Đức Hưng. Nơi này đủ gần hết tác phẩm tiền chiến, giấy dó Hàn Thuyên, mướn đem về đọc để làm tài liệu viết. Một người bạn nữa anh Lung cũng ở Xóm Chùa ngập nước, có một tủ sách khá lớn. Anh cho mượn và tôi sử dụng một cách sở hữu chủ. Anh từ miền Bắc vào Nam lâu, có viết báo tài tử, một người thật chân tình. Phải chăng chân tình này làm tôi cảm động, khi nghe kể đoạn đời anh tham gia kháng chiến ở Nam Bộ bị Pháp cầm tù. Đời tù đầy thêm kinh nghiệm sống, đời quất ngọn roi phũ phàng bao nhiêu, nạn nhân chịu nổi hờn đau sẽ sống lâu hơn; sau thì người ấy sẽ được liệt vào bậc tốt nhất xã hội trên mọi phương diện.Và một bạn học cũ Hà Nội : Tạ Văn Tài đạp xe đạp thăm tôi để khích lệ - trước khi anh đậu hai thủ khoa Văn chương và Luật khoa Sài Gòn rồi sang Mỹ du học.

THẾ PHONG



BỘ LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900-1956

gồm 4 tập:

1). NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930 -1945

2). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN 1945 -1950 gồm hai phần:

a). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN CHỦ LỰC 1945-1950 viết theo lối tuyển tập thơ văn kháng chiến, viết về: Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tố Hữu, Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Hữu Thung, Hoàng Lộc, Yên Thao, Nguyễn Đình Thi vv... Các chiến sĩ văn nghệ như: Vô Danh, Hà Minh Tuân, Lê Minh, Vũ Linh, Nguyễn Trinh Cơ, Đình Quang, An Bá Đảm, Quốc Chính, Nguyễn Xuân Hòe, An, Lưu Hương, Chính Hữu, Minh Tiệp, Phùng, Hà Khang, Kim Lân, Siêu Hải, Nguyễn Công Mỹ vv... b). Nhà văn miền Nam 1945 –1950: Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh, Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, Hoàng Tấn, Bình Nguyên Lộc, Hoàng Tố Nguyên, Quốc Ấn, Sơn Khanh, Vũ Xuân Tự, Hợp Phố (nữ), Phi Vân, Nguyễn Bảo Hóa(78) v.v...

3). NHÀ VĂN HẬU CHIẾN 1950 - 1956.

Bùi Xuân Uyên, Tạ Tỵ, Xuân Nhã (nữ), Hoàng Chu Ngạc, Triều Đẩu, Trúc Sĩ, Phan Phong Linh, Bạch Diện, Mai-Lâm-Nguyễn-Đắc-Lộc, Nguyễn Tố, Văn Thuật, Mặc Thu, Nguyễn Ái Lữ, Kỳ Văn Nguyên, Nhị Lang, Thanh Nam, Huy Quang, Nguyễn Thiệu Giang, Thi Thi Tống Ngọc, Nguyễn Hoàng Quân, Hiệp Nhân, Thùy Linh, Thanh Bình, Vĩnh Lộc, Nguyễn Thạch Kiên, Hà Bỉnh Trung, Hoàng-Lan, Quốc Ân, Hoài Linh, (1 và 2) Kim Dung, Hiền Nhân, Đoàn Thu, Hoàng Công Khanh, Sao Mai, Nguyễn Minh Lang, Văn An, Thanh Hữu, Huy Sơn, Đinh Hùng, Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Hoàng Phụng Tỵ, Hoàng Song Liêm, Hoài Việt, Trần Nhân Cư, Huyền Giang, Băng Sơn, Vân Long, Song Hồ, Lê Đình Chân, Mặc Đỗ, Phạm Việt Tuyền (Thanh Tuyền), Lê Văn Hòe, Phạm Văn Sơn, Hoàng Như Mai, Huyền Chi, Hoài Minh, Thanh Thuyền, Hồ Đình Phương, Tạ Ký, Xuân Huyền, Thanh Thanh, Tùng Long (nữ), Quỳnh Hương (nữ), Thiếu Mai - Vũ Bá Hùng (nữ), Minh Đăng Khánh, Tạ Quang Khôi, Tường Hùng, Kiêm Minh, Uyên Thao, Tô Kiều Ngân, Nguyễn Hoài Văn, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Nguyên Sa, Mai Thảo, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo,(nữ) Triều Lương Chế, Phạm-Thái –Nguyễn-Ngọc-Tân, Vũ Khắc Khoan, Chấn Phong, Hư Chu, Hồ Hán Sơn, Phan Lạc Tuyên, Đỗ Tấn, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Văn Cổn, Hoàng-Nguyên-Bùi-Khải-Nguyên, Cung Trầm Tưởng, Hà Liên Tử, Kiên Giang - Hà Huy Hà, Chế Vũ, Thế Viên, Diên Nghị, Huyền Viêm, Phan Minh Hồng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Năng An, Hoàng - Thu - Đông (Hoàng Trọng Miên), Diên Hương, Thanh Nghị, Kiêm Đạt, Hồ Nam– Vương-Tân, Nghiêm Xuân Hồng.

4) TỔNG LUẬN 60 NĂM VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900 -1956 (NAM VIỆT NAM)

Tổng luận văn nghệ Việt Nam từ đầu thế kỷ đến 1960. Người viết bộ sách cô đọng tóm tắt bốn tập dẫn giải ở trên. Người đọc không có thời giờ hoặc cần có quan niệm tổng thể chỉ cần đọc tập này thôi. Bản Anh ngữ của Đàm Xuân Cận: A brief glimpse at the Vietnamese literary scene 1990 - 1956 (Đại Nam Van Hien Books) Phụ lục bộ sách in thêm một cuốn nữa .Hiện tình văn nghệ Nam Việt Nam 1957 -1961(79) , để độc giả theo dõi được tổng quát bình diện văn nghệ Nam Việt Nam, diễn biến qua nét chính yếu sinh hoạt văn nghệ qua các nhóm: Đại Học và Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Nam Châu, Lê Tuyên, Lê Thanh Châu, nhóm Văn Hóa Á Châu, Chủ tịch giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Lê Xuân Khoa,v.v…. Văn Hóa Vụ (Cơ quan văn nghệ chính phủ Ngô Đình Diệm với Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Trọng Miên, Phan Du,v.v… Nhóm Sáng Tạo, Trung tâm văn bút Việt Nam V.N. (PEN) với Nguyễn Thị Vinh, Thanh Lãng, Tường Hùng, Duy Lam, Nguyễn Hoạt; nhóm Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương với Nhật Tiến, Duy Lam, Thu Vân,v.v… và cuối cùng Khép với bức thư người viết trình bày lý do viết bộ sách. Khi viết tôi mới 24 tuổi. Tự nhận rằng nhầm lẫn sơ sót không thể không có. Chủ quan có, nhưng nhớ rằng chủ quan nào mà anh diễn dịch trong tác phẩm? Chủ quan viễn kiến hoặc chủ quan hẹp hòi, ao tù, bè nhóm? Khi sách xuất đầu lộ diện, tôi không muốn nhìn thấy cảnh này, như Vũ Ngọc Phan ra mắt Nhà văn hiện đại; thì một L.H.V. viết bài phê bình trên báo Thanh Nghị rất hay, xác đáng lại không dám ký tên thật. Nhưng điều đau đớn, sau hai chục năm, tôi đây đến sau vẫn biết rằng, người viết ký tên tắt kia chính là Lê Huy Vân. (Bạn học cùng lớp với Nguyễn Hiến Lê). Tôi cho đó đê hèn đáng yêu nhưng không nên có. Một lối phê bình câm nín yên lặng nữa, đểu cáng đáng yêu hơn: mưu mô im lìm – Pháp gọi là: le critique très impitoyable c’est taire. Như vậy không được, một tác phẩm phê bình văn học ra mắt; hay thì khen hay; dở phải chê dở! Sự khen và chê ấy quan thiết ở chỗ đúng cảm quan người viết ở mức độ đúng nhất, không ngụy trang, mưu mô. Tôi cúi đầu trước cử chỉ đó và trong đời chỉ đón nhận thái độ đó. Khi tôi dự định làm văn sĩ, tôi cần đọc nhiều tác phẩm đàn anh, bạn văn trong nước, cả đến quốc tế. Để làm gì? Xin thưa, để xem tác phẩm nào hay hoặc dở, những gì người ta đã và chưa nói tới. Học hỏi và quyền chê khen theo quan niệm đúng nhất của tôi lúc đó. Hoặc như V.Biélinsky(80) , tác giả phê bình văn triết luận nổi tiếng số một của Nga đã chẳng nói: “...Làm sao nghi ngờ hả? Các anh quay lưng không thèm nhìn hả, lại bịt tai không thèm nghe sao? Kệ xác các anh! Không quan tâm tới. Các anh đọc hay không, với tôi không cần thiết. Tại sao à, cuối cùng ai cũng có tự do. Ngoài ra, làm sao tôi phải mặc cả với anh kia chứ? Vậy thì anh bạn ơi, đừng giận nhé! Bằng lòng hay không bằng lòng, các anh vẫn phải đọc. Không đọc, vậy thì anh đọc cái gì mới được chứ? Anh bạn ơi, nếu cho phép tôi, thì tôi bắt đầu nói đây này"…. Sự thật! Sự Thật! Chẳng có gì hơn là sự thật”
Nói theo đàn anh V.Biélinsky, thì xin thưa với các Ngài, sự thật tôi nghĩ, tôi trình bày như thế đó.

Sài gòn, 20 tháng 6 năm 1956.

THẾ PHONG

♣♣♣

TRUYỆN ĐIỂN HÌNH - HOÀI VỌNG DĨ VÃNG

NGÔ TẤT TỐ

(1892 – 1954)

Tiểu Sử.

Sinh năm 1892 trong một gia đình nho giáo nghèo nàn ở Bắc Ninh. Là nhà nho học, nhưng chịu học hỏi Tây học. Ông viết truyện, biên khảo, dịch thuật, nói về sáng tác điển hình sự nghiệp văn chương là Lều Chõng. Trong kháng chiến ông bắt đầu chuyển sang viết loại tân truyện (nouvelles) hình tượng mới, song hành với bối cảnh xã hội chuyển đổi. Ông qua đời vào 1954 ở Hà Nội sau 40 năm phục vụ văn chương. Tác phẩm và khuynh hướng. Việc làng (1939), Tắt đèn (1939), Lều chõng (1941), Trần Trọng Kim (1940), Văn học Việt Nam thời Trần Lý (1943), Thi văn Bình chú (Tân Dân 1941), Đường Thi (Tân Dân 1940), Thơ và Tình (Mai Lĩnh 1940) v.v... Sau 1950 ở Hà Nội, NXB Thế Giới tái bản sách này với nhan đề Tình sử (1957), Lão Tử (Mai Lĩnh xb 1942). Sách của ông do Mai Lĩnh xuất bản hầu hết cùng với NXB Tân Dân.

Ông viết hai loại văn chính; biên khảo văn học và sáng tác. Thi văn Bình chú hoặc Mặc Tử, Lão Tử, Văn học Việt Nam là những sách nhiều tài liệu khảo cứu công phu vì ông sẵn vốn nho học uyên bác. Loại sách này giúp ích cho phái tân học muốn tìm hiểu triết gia Đông Phương đa số Trung Quốc. Nếu Nhượng Tống có công bồi đắp văn học phong phú về sử liệu Trung Hoa; thì Ngô Tất Tố cùng ý nghĩa với việc khảo về triết Đông. Phân tích văn nghiệp căn cứ Lều Chõng.

Lều Chõng là cuốn truyện hoài vọng dĩ vãng, một dĩ vãng vàng son của thế hệ nho sĩ qua đi, hình ảnh đặc sắc khoa thi cuối cùng. Nếu Nguyễn Tuân chấm dứt đời hoài cảm nhà nho chán chường với thời đại mới trong Vang bóng một thời, thì Ngô Tất Tố chấm dứt hình ảnh cụ Cử, cậu Khóa trong túp lều chõng thế hệ Khổng Mạnh, Nho học phồn thịnh lần chót trong Lều Chõng.

Trong cuộc kháng chiến, Ngô Tất Tố là nhà văn của bình cũ rượu mới. Với lối văn sáng sủa, hấp dẫn, quan sát tận tường, rung cảm phong phú; ông hòa mình vào sinh hoạt chung dân tản cư chống Pháp xâm lăng lần thứ hai ở cửa ngõ Hải Phòng sau ngày 19-12-1946. Nào là cảnh máy bay địch dội bom vào đồng bào họp chợ ở miền núi buổi sớm, Ngô Tất Tố ghi lại từng hình tượng nho nhỏ lẫn trao đổi buôn bán hàng hóa buổi chợ miền trung du. Tiếng lợn, tiếng gà gáy, tất cả âm thanh hình ảnh, mà chúng ta muốn có khái niệm bằng cảm giác về cuộc sống nhân chứng thời đại, phải đọc và tìm lại những hình tượng ấy trong Buổi Chợ Trung Du. Cho trích dẫn tân truyện ấy dưới đây, cũng như Gió Lào của Nguyễn Tuân, vì đó là áng văn tuyệt tác mang nhiều nếp sống mới thời kháng chiến.

Sự nghiệp Ngô Tất Tố qua Lều Chõng và nhiều sách biên khảo phong phú tư liệu, công phu.

Kết luận.

Bình diện văn nghệ tiền chiến khi bàn nó về tiểu thuyết phóng sự hoài vọng dĩ vãng, không nhà văn nào trội hơn Nguyễn Tuân và Ngô Tất Tố. Nguyễn Tuân tả cảnh chán chường nho sĩ tiêu dao tuế nguyệt, mang trong mình lý tưởng, và nay lý tưởng bị tổn thương rồi, mất đi. Một cụ Cử Hai, một Cụ Hổ, thầy địa lý điển hình lớp nho sĩ chán chường ấy. Với Ngô Tất Tố, chúng ta tìm thấy hình ảnh cuộc thi sử trường ốc. Ngô Tất Tố hơn Chu Thiên ở điểm, ông biết lồng một tập hợp vào sinh hoạt có tình tiết, một xã hội sống trong văn chương; còn Chu Thiên chỉ chép đúng ảnh hình lượm lặt được để trở thành một thiên hồi ký kể truyện cũ.

Chúng ta không còn được chứng kiến cảnh sống nho phong nữa: Lều chõng, Vang bóng một thời; cũng như một Đi tìm thời gian đã mất của nhà văn Pháp Marcel Proust.

Trích văn:

BUỔI CHỢ TRUNG DU

Mặt trời cuối tiết thu nhọc nhằn chọc thủng màn sương, lù lù nhô lên ngàn cây trên dẫn đồi núi lẹt xẹt. Bầu trời dần dần tươi sáng. Tất cả thung lũng đều biến màu vàng. Trước cơn gió hiu hiu, sóng vàng cuồn cuộn nổi trong đồng ruộng. Hương vị thôn quê, đầy vẻ quyến rũ ngọt ngào trong mùa lúa chín.

Từ các ấp trại, làng xóm, từ các túp nhà linh tinh trên sườn đồi, người và người gồng gánh thúng mủng, và bị quai, tay nải và ba lô nữa, lũ dài lũ ngắn lần lượt dồn lên mấy con đường lớn. Vai kĩu kịt tay vung vẩy, bàn chân thoăn thoắt. Tiếng lợn eng éc, tiếng gà chích chích, tiếng vịt cạc cạc, tiếng người nói chuyện léo xéo. Thỉnh thoảng lại điểm những tiếng ăng ẳng của con chó bị lôi sau sợi xích sắt, mắt buồn rầu sợ sệt, y như những tên Việt Gian bị giải đi đường. Sương tan, nắng rõ. Bóng người lần lần theo các thứ tiếng, tiến đến khu rừng theo mặt trái đồi. Trong lúc tích cực đề phòng cuộc tấn công của giặc, bao nhiêu phố xá đều triệt để tản cư, người ta cũng cần có chỗ tụ họp trao đổi buôn bán.

Không có mệnh lệnh, cũng chẳng ai hẹn ước với ai, nhưng khác hẳn nhiều cuộc khai hội, ai cũng đi rất đúng giờ. Khoảng bẩy giờ sáng trên đồi đã đông nghìn nghịt. Chợ họp sớm, để tránh sự khủng bố dã man của những chiếc Pít phai(66) hung bạo.

Mầu nâu, mầu chàm, mầu vàng ca ki các thứ quần áo trà trộn dưới bóng cây. Chỉ thiếu quần trắng phất phơ và áo tím, áo xanh sặc sỡ.

Không ai nói to, cũng không ai nói nhiều. Những luồng phát âm của hàng nghìn cái miệng đủ làm cả khu rừng ầm ầm.

Nứa và nứa, củi và củi. Kế bên vô số bó củi, hoặc đứng, hoặc nằm, vô số bó nứa và củi chiếm xa một giải cổng chợ. Thành phố đã san thành tục mọc lên. Sự nghiệp đi bộ càng phát triển, hàng quà, hàng bánh càng khuếch trương, nứa củi là những thứ cần dùng của thời đại. Bởi vì nó là vật dụng trọng yếu của ăn và ở.

“Hôm nay ít củi ít nứa” người ta nói thế. Là vì mùa gặt đã bắt đầu, dân nứa, dân củi phần nhiều biến thành thợ gặt lúa còn đắt công hơn đi lấy củi nứa.

Bên cung ít hơn bên cầu hàng hóa tự nhiên lên giá. Các ông bán củi bán nứa tha hồ làm cao bán bóp và tha hồ chủng chẳng với khách mua.

Dù sao cơ nữa có củi mà mua, giá củi đắt như vỏ quế mà cũng không có mà mua. Giặc Pháp luôn luôn huy động từng đợt cơ khí kéo đến các làng gần chúng, gia đình, gia chùa, nhà người ta, chở về để đun và đốt lò máy. Đoạn tuyệt nứa củi, cũng đủ cho chúng điêu đứng.

Lồng vuông, lồng tròn, lồng cao, lồng thấp, lồng trắng hồng, lồng trái vải, lồng quay vành cót lớn bằng cái nong. Khu hàng gà vịt đủ các kiểu lồng, nhiều thứ trung châu không có. Chúng nó kề lưng nhau, giáp vách nhau, gối lên nhau, chồng lên nhau, sắp thành hai dẫy thườn thượt. Vậy mà vẫn còn là ngắn, trước kia vào khoảng tháng ba, tháng tư, cũng ở chỗ này, trên là trời, dưới là gà vịt. Trong đó vịt chiếm đến chín phần mười. Vịt bọc trứng, vịt thụt thóc, vịt đổ chéo cánh… không thiếu sót một hàng nào. Nếu cứ đem đầu mà tính, số vịt phải nhiều gấp hai ba số người trong chợ. Vịt tuy nhiều, bán rất chạy và giá vẫn cao, bảy đồng một con vịt bọc trứng, vịt đẻ một đôi sáu chục đồng. Hồi ấy nuôi vịt phát tài như đi buôn lậu, cho nên vùng này đã nuôi vịt. Trong ao, trong sông, trong ruộng, trong ấp trại, không có chỗ nào là không có vịt. Một người nông dân đã gọi là loạn vịt, và rất lo cho sự sống của người. Anh ta cũng có nuôi vịt. Theo con số của anh ấy đã định, thì số thóc một ngày nuôi chăn vịt đẻ trứng làm ra gạo, có thể nuôi đủ mười người ăn. Các hàng vịt khác, tuy không ăn tợn đến thế, nhưng mỗi ngày, một vùng nuôi hàng triệu vịt cũng phải hao hụt bao nhiêu tấn thóc. “Lương thực bị vịt chia sẻ như vậy, chỉ trong mấy tháng người ta sẽ bị đói lây. Anh ta nói vậy”. Mới nghe tiếng như có lý, nhất là người nông phu lại biết lo xa như vậy nhiều người dễ tin là đúng. Nhưng thời gian đã chứng thực. Sự lo của anh chỉ là lo trời đổ. Hiện nay loạn vịt đã chấm dứt mấy tháng vừa qua, giá gạo vẫn trung bình, người vẫn không ai bị đói. Những nhà nuôi vịt đều nhăn như bị. Có người lỗ vốn mấy vạn đồng. Phiên này, vịt chợ vẫn rẻ, mấy hàng vịt còn chỉ ngồi rầu rầu nhìn nhau mà chẳng ma nào hỏi đến.

Đỉnh đồi trung tâm của chợ là khu hàng vải, hàng xén. Đây là hai dẫy lều mới theo hình thước thợ quắp lấy ngọn đồi. Các bà các cô hàng vải hầu hết là những người đường xuôi, nhưng không phải người Hà Nội, vì lúc bán hàng, đều không có cái giọng của các bà các cô Hà Nội. Trừ những thú xanh đỏ lòe loẹt, các thức cần thiết cho dân quê đều không thiếu mấy, chéo go, láng thâm, dường bâu, sồi thắm, sồi mộc, vải nâu, vải trắng, vải màu chàm... gì cũng có. Tuy là rét, mưa sắp đến, khách mua cũng không lấy gì làm đông. Thế nhưng, giá hàng vẫn cao vọt. Nhất là giá bông. Một cái áo bông cộc, cân lên chưa đầy lạng rưỡi người ta phải chuốc đến sáu chục đồng. Điều đó như muốn tố cáo nạn khan bông của địa phương này. Thật vậy, ở vùng ấy có khi đi hai ngày đường không gặp một cây bông nào. Các nhà canh nông miền này hình như thâm thù loài bông không muốn cho nó nẩy nở.

Quang cảnh hàng xén không được sầm uất như hàng vải. Giang sơn của mỗi gian hàng chỉ bằng chiếc chiếu. Đó là chưa kể nhừng hàng bày mẹt ngồi ở ven đường. Tuy thế cần mua thức gì vẫn có đủ thứ ấy, nếu không mua xa xỉ phẩm. Hỏi các thứ tạp hóa thứ nào cũng giữ giá bình thường, riêng có giấy, bút chì đắt thậm, bút chì hạng bét mỗi cây sáu đồng, giấy tây hạng vừa ba mươi đồng một tập. Một bà nhà quê vừa cởi ruột tượng vừa than: “Bán một gánh thóc, mua được một cái bút và mấy tờ giấy, còn thừa vài đồng đủ mua quà cho con. Thế là sào lúa đi đứt”. Kể cũng ái ngại, song cũng đáng mừng thầm. Đổi thóc gạo lấy i tờ nhà nông trước đâu có thế!

Gạo cũng như thóc dồn cả lại cho khu chợ dưới. Đó là sản phẩm chính quy của hạt này. Thị trường không rộng lắm. Người ta bán cũng thừa, nhưng giá thóc gạo xuống như đổ tường. Từ phiên trước đến nay, mỗi gánh sụt hẳn mười lăm đồng bạc. Là vì lúa sớm đã gặt, trừ một số ít người tản cư, ít nhà đong gạo ăn, cho nên người bán tuy ít, vẫn là nhiều hơn người mua. Những bà hàng thóc hàng gạo đều ngồi rời rợi trong đôi quang thúng, thấy ai đi qua cũng mời. Bà nào may mắn được chạy tay, lúc đếm tiền, nét mặt tần ngần như người mất cắp. Thóc gạo hạ, công nhật vẫn bảy tám đồng một ngày, nhà nông thật khóc dở mếu dở.

Mía không phải mía, củi không phải củi. Người ta bán những cái gì mông mốc, đo đỏ, vàng, chặt đoạn ngắn như tấm mía, bó lại từng bó lớn bằng cái thỉnh, nó nằm, bó đứng ngổn nganh chật cả gian hàng. “Thưa ông em bán vỏ ăn trầu”. Và hàng vừa nói vừa mỉm cười: “Đây là vỏ cáo, đây là vỏ triếu, đây là vỏ quai hòm, kia là vỏ mâu, vỏ xen, vỏ khoai, vỏ chay, cỏ quạnh”. Sau khi giới thiệu khắp lượt bà hàng tiếp: “Em cũng còn thiếu vài thứ vỏ nữa. Nếu muốn buôn đủ mặt hàng cũng phải to vốn lắm, mỗi bó vỏ này, vốn mua đều phải từ bốn chục trở ra”.

Khu vực hàng vỏ khá rộng. Lều nào lều ấy hàng hóa đều xếp la liệt y như những xuồng củi nhỏ. Tiếp đó, khu hàng là trầu và hàng cau tươi cũng kéo dài hai dẫy thẳng dăng, hàng nào cũng đầy ngồn ngộn. Thế mà phiên nào cũng vậy, tan chợ là hết veo. Thì ra những bộ răng đen của các bà, các cô vùng này, mỗi phiên chợ phải nhai đến mấy tấn trầu vỏ. Cán bộ phu vận cũng như cán bộ đời sống mới còn là khó với anh em chú Tân Lang.

Kẻng, kẻng, kẻng!

Kẻng, kẻng, kẻng!

Tà vẹt đường sắt giật giọng đánh ba tiếng một. Các chợ cuống quít lộn xộn, chen nhau, đẩy xéo lên chân nhau, ngã xấp, ngã ngửa. Có người bỏ cả quanh gánh, có người đổ hết tương mắm. Chạy ra hầm, chạy ra chân đồi, chạy đến bờ ruộng. Núp vào góc lúa, vào chân gò, nằm la liệt, nằm ngang nằm dọc. Nhiều người run cầm cập. Như đám lá khô trước cơn bão lớn. Chợ sạch ngoét không còn người nào. Thúng mủng, nồi niêu bỏ lổng chổng khắp nơi. Tiếng động cơ mỗi lúc một lớn. Hai chiếc đa-kô-ta(67) bay đến chợ trên rồi từ từ bay qua chợ.

“Máy bay tiếp tế”.

Một hồi tà vẹt báo yên chưa dứt, người ở các ngả tới tấp chạy về, tất cả đi tìm đồ đạc của mình lúc nãy bỏ lại trong chợ. Những bà hàng vải hàng xén lóp ngóp từ dưới hầm trong lều nhỏ lên giống như lũ quỷ sứ ở trong động chui ra.

Chợ cũng vãn, ai mua đã mua, ai bán đã bán rồi. Người ta đã tản mác ra về. Các bà cụ già vừa đi vừa nguyền rủa: “Cha con mẹ nó, chợ búa người ta mua bán với nhau, việc gì nó cũng bắn, ném bom” Tiếng chửi theo các toán người ra khỏi chợ, rồi chia đi các ngả thung lũng.

NGÔ TẤT TỐ

(Trích Tập văn Cách mạng và Kháng chiến)

Tiết 3

TIỂU THUYẾT TÌNH CẢM TIẾN BỘ

THỤY AN HOÀNG DÂN

(1916 – 1981).

Tiểu Sử.

Tên thật Lưu Thị Yến. Sinh năm 1916 ở Hà Nội. Chủ trương báo Đàn Bà Mới từ năm 1939 ở Sài Gòn. Từ năm 1939 – 1945 quản lý báo Đàn Bà ở Hà Nội, năm 1942 in truyện dài và nhiều truyện ngắn.

Tác phẩm và khuynh hướng.

Tác phẩm xuất bản như: Một linh hồn (Bốn Phương xb), Vợ chồng (Phạm Văn Tươi xb), Bốn mớ tóc (Bốn Phương xb) và nhiều truyện ngắn đăng rải rác trên tuần báo, tạp chí. Viết loại văn tình cảm tiến bộ, phô bày cuộc sống phụ nữ cần đổi mới. Điển hình khuynh hướng này là cuốn Một linh hồn. Giá trị văn nghiệp nhà văn nữ giới nổi tiếng tiền chiến, vẫn là Một linh hồn của Thụy – An – Hoàng – Dân.

Phân tích tác phẩm chính.

Một linh hồn là cuốn tiểu thuyết tâm tình mang nhiều vết tích thời tiền chiến. Truyện gồm hai nhân vật chính: Di và Vân. Mẹ Vân là gái giang hồ. Cha mẹ Di thuộc gia đình quan lại trong xã hội. Di và Vân quen nhau vào buổi đi nghỉ mát Vũng Tàu. Di là cháu bà phước quen với bà phước trông nom ký túc xá của Vân. Di sang Pháp học, hai năm sau trở về, cùng Vân trở về Bắc thăm gia đình Vân.

Buổi gặp gỡ đầu tiên giữa mẹ Vân và Di, mẹ Vân biết Di yêu Vân tha thiết. Bà nhắc nhở Di đậu cử nhân luật rồi, liệu có muốn bổ đi tri huyện thì bà giới thiệu. Di từ chối, chính ý kiến này Di không biết rằng chàng đã làm phật ý Thanh (mẹ Vân). Thanh tổ chức tiệc mời khách sang đến dự buổi ra mắt Vân ở Sài Gòn về Hà Nội. Trong số khách đến, có Phủ Tịch là nhân tình của Thanh. Thanh muốn rằng Vân sẽ thay thế Thanh làm nhân tình Phủ Tịch, để hy vọng làm vợ lẽ Tịch. Phủ Tịch rất giàu, Thanh sẽ có tiền trả nợ để khỏi bị tịch thu nhà cửa.

Nhưng Vân không bằng lòng, nàng vẫn yêu Di tha thiết hơn. Qua nhiều mánh khóe của Thanh, Vân vì thương mẹ mà hy sinh bằng lòng lấy lẽ Phủ Tịch. Ngày cưới Vân, may mắn ở sự sắp đặt của vợ cả Phủ Tịch biết trước nên phá. Vợ Phủ Tịch dẹp được ý kiến để chồng lấy Vân làm vợ hai tại trận, và vợ Phủ Tịch cho Vân biết rõ âm mưu mẹ Vân hại đời nàng… Thanh oán Vân đối xử với con tàn tệ. Sau cùng, Phủ Tịch thất bại, vì ông cụ của Phủ Tịch ra điều kiện: nếu không bỏ Thanh, người đã làm hại ông Huyện Hà, anh của Di, thì rồi Tịch sẽ lâm vào hoàn cảnh bi đát; ông cụ sẽ tố cáo với Thống sứ cách chức. Tịch đã lạm tiền công quỹ. Thanh bị tịch thu nhà và dọn về ngoại ô ở. Nhưng Thanh luôn có ý nghĩ đưa Vân vào con đường trụy lạc, vì Thanh muốn như thế. Nhưng Vân, người con gái lấy sự trong trắng và ngay thật bản thân, giáo hóa tư tưởng hắc ám hướng về đường ngay thẳng. Vân ốm, thì buổi ấy, có người đến gọi mối Thanh. Thanh lên xe đi, không ngờ Vân theo sau, và chính công tử gọi mối ấy lại là Di (Di âm mưu công việc này để làm nhục Thanh) Vân thất thanh gọi mẹ quay lại. Di tin Vân trụy lạc như mẹ và thất vọng. Rồi Vân ốm gần chết, Thanh hối cải thành khẩn, không nề hà gì lột tự ái, đến nhà bà Huyện Hà, (người tình địch với Thanh vào buổi Di và bà Huyện Hà lên hỏi Vân cho Di, gặp Thanh và bị Thanh làm nhục). Giữa đường, Thanh thú hết tội với Di. Khi Di đến thì Vân chết.

Câu chuyện nằm trong bối cảnh xã hội cuồng loạn thời nô lệ. Tuy tác giả không nói đâu là xấu, tốt; nhưng chính bố cục truyện, tự cho người đọc hướng thiện. Tả pha tình yêu tuổi trẻ thơ mộng truyền cảm với bút pháp cao siêu của Thụy An. Câu chuyện nằm gọn trong triết lý nhân sinh, phơi bày được chính nghĩa (Vân) thắng sa đọa (Thanh), Thụy An Hoàng Dân đi sâu tâm lý nhân vật từ đầu đến cuối. Tả Vân mơ ước cuộc sống thanh thản như lý tưởng sống:

“…Này nhé, sớm mai dậy, con sẽ vô buồng má, con bồng má dậy, con dắt má ra vườn, cái vườn đầy hoa. Má con ta đi thăm những bông hoa nở lúc tinh sương. Rồi con sẽ hái một bó hoa mang về nhà để lên cây đờn piano. Rồi con sẽ đờn cho má nghe một bài đờn thiệt vui. Rồi má con ta đi ăn sáng, con ngồi khâu, hay đọc sách cho má nghe. Buổi chiều cũng như buổi sáng, má con ta quấn quít lấy nhau. Tối ở góc phòng má sẽ kể chuyện về ba cho con nghe…”

Thì đó chỉ là ý tưởng mơ mộng của người con gái trong trắng muốn lý tưởng hóa, cải giáo hoàn cảnh xấu xa mẹ mình. Thật đúng tâm lý biểu hiện và rất đáng phục ngòi bút tài hoa tác giả hiểu được tâm lý người cùng phái. Thụy An còn lột tả được hình tượng ngây thơ mối tình lứa thanh xuân, chỉ có một lần cảm động thành thật nhất là tình đầu. Đoạn văn lột tả âm mưu già dặn của Thanh, một cô gái giang hồ bị đời dày vò, tự đánh lừa; đến nay nuôi ý trả thù; từ giận người tình xưa bạc đãi phụ bạc; trả thù đàn ông cho bỏ tức; Thụy An biểu hiện tinh tế, hợp lý, hợp cảnh, hợp tình. Từ ý tưởng song hành tâm tưởng hành động giác quan, lúc bực bội, khi tàn ác, phút hối hận đến xen đột ngột như động tác kịch (coup de théâtre) (trang 100). Khi bà Huyện Hà lên hỏi Vân cho Di làm người đọc thích thú, hồi hộp như xem một tấn kịch cuộc đời đang diễn trên bục. Cái hay của chuyện ở chỗ thực, đến nỗi người đọc được chứng kiến như hình ảnh tương tự ngoài đời. Dụng ý hướng thượng là hướng dẫn hoàn cảnh thực tế theo kết luận hợp lý, nhân sinh phục vụ nghệ thuật (vie pour art). Tâm lý cô gái giang hồ về già như Thanh, ở phút lương tâm trỗi dậy tự hối (trang 177-178), Thụy-An-Hoàng-Dân nắm chìa khóa tâm lý trong tay đào hố sâu trụy lạc tai hại để người đời tránh đỡ sa vào cạm bẫy. Đoạn cuối cùng khi Vân ốm, Thanh về Nam Định rất xúc động (đoạn kết ở trang 276, 277, 278).

Một linh hồn điển hình cho khuynh hướng tình cảm tiến bộ của nhà văn nữ giới nổi bậc nhất tiền chiến. Khuyết điểm trong tiểu thuyết này cũng khó tránh nổi, dù là thiên tài đi nữa. Xét một tác giả phải nhìn nhận qua mọi khía cạnh. Trong Một linh hồn có đoạn tả Vân đi theo sau Thanh (Thụy An không diễn tả được thực; vì nghệ thuật hơi non ở đây, chẳng hạn như khi ôm Vân ốm thì phương tiện nào để có cho Vân theo mẹ (xe ô tô) hoặc sự sắp đặt của Di mời Thanh tiếp khách rồi nói dối là ông Bộ, khách chơi quen của Thanh (trang 271-272) không tự nhiên và thiếu linh động)

Phê bình.

Thụy An Hoàng Dân, nhà văn nữ giới có khuynh tình cảm tiến bộ, cải tạo xã hội, giải quyết vấn đề trong văn chương. Nhà văn sẵn chìa khóa tâm lý hiểu phụ nữ với nghệ thuật viết cao, bố cục truyện có luận đề, lồng trong một khung cảnh hữu tình. Bà là nhà văn đi tiên phong trong nữ giới về lối tả chân tâm lý, tình cảm tiến bộ, chịu ảnh hưởng nhiều Thiên Chúa Giáo, biết áp dụng hương cứu vớt Chúa vào đời sống nhân sinh nhật dụng. Tuy nhiên, chưa hoàn toàn chế biến giáo thuyết Tây Phương với sự hòa đồng về lối sống, cảm nghĩ Đông Phương. Dầu trong sự trầm lặng bi quan vẫn nung nấu ý chí đấu tranh mãnh liệt, không bồng bột như cách giải quyết theo lối Tây Phương (Nói thế, chúng tôi không so sánh nhân sinh quan Đông hay Tây hơn nhau; mà chỉ nói rằng sự kiện giải quyết cái chết hay ý chí con người của mỗi dân tộc, mỗi châu khác nhau). Kỹ thuật viết tiểu thuyết cao, văn thể nhẹ nhàng, cảm giác hàm xúc, điều hòa, luận đề nghiên cứu hợp lý, hợp cảnh. Một linh hồn là cuốn truyện hay không kém truyện hay của André Gide Khung cửa hẹp hay Người chồng muôn thuở của Fédor Dostoðevski.

Tới Bốn mớ tóc gồm nhiều truyện ngắn tả giai đoạn mới và cũ xung đột (tóc phi-dê và tóc vấn). Hoàn toàn là những mẩu chuyện về mớ tóc. Vợ chồng về tâm lý, cách xử thế trong gia đình: yêu, cưới, vợ chồng đối xử ra sao có hạnh phúc. Một phần tác giả sử dụng kinh nghiệm bản thân, hoặc kinh nghiệm bè bạn đem vào sách giúp ích kinh nghiệm lứa đôi xây dựng gia đình hạnh phúc.

Vũ Ngọc Phan nhận định về Thụy An viết “Tuy vậy Một linh hồn đáng kể là cuốn truyện xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay”. Hậu chiến, nhà xuất bản Bốn Phương do thi sĩ Đông Hồ chủ trương tái bản Một linh hồn ở Sàigòn.

2. NGỌC GIAO

(1911 – 1997)

Tiểu Sử.

Tên thật Nguyễn Huy Giao. Sinh 1911 ở Huế, nguyên quán Bắc Ninh. Bắt đầu viết từ 1937, ban đầu viết truyện ngắn tâm tình lãng mạn. Hậu chiến Ngọc Giao chuyển sang viết truyện thời đại, mang vết tích đời sống, lãng mạn cách mệnh, như tác phẩm Đất và trữ tình Cầu Sương hay thiếp phụ chàng. Tác phẩm này gần như là thoát dịch Bức tranh sơn của S.Maugham mà không đề phóng tác. Dư luận văn chương thời ấy vào thập niên năm mươi ở Hà Nội cho đây là vụ đạo văn.

Tác phẩm và khuynh hướng.

Tác phẩm đã xuất bản: Một đêm vui (truyện ngắn, 1938), Cô gái làng Sơn Hạ (truyện ngắn, 1938), Phấn Hương (truyện ngắn, 1939), Nhà quê (truyện dài, 1942), Con người (truyện dài, 1950), Cầu sương hay Thiếp phụ chàng, (truyện dài, 1952), Mối tình thiên thu (truyện ngắn phỏng theo Stephan Zweig, cũng không lấy từ Letter inconnue (Thư gửi người không quen)).v.v...

Truyện ngắn Ngọc Giao đăng báo sau tiền chiến, phần nhiều trên Tiểu thuyết thứ bảy của Vũ Đình Long. Như Đêm bão tố (số 1.T.T.T.B, 1949), Hoa đèn (số 2), Trạng thái (số 3), Chăn vịt (số 4), Phượng (số 9), Ông Kễnh (số 10), Cơn nóng của người đàn bà góa (số 11). Ông còn viết trong giai phẩm Lửa Lựu, Tia Sáng (Hà Nội), Thẩm Mỹ (Sàigòn). Sau hiệp định Genève 1954 ông ở lại Hà Nội.

Viết loại truyện tâm tình ở ban đầu không có gì mới lạ, vẫn là bố cục tình tiết éo le, tâm lý nhân vật thiếu hình tượng thời đại; nếu xét nghĩa văn chương phản chiếu cuộc sống. Tiền chiến ông chỉ là nhà văn giá trị bình thường. Hậu chiến Ngọc Giao nổi bật hẳn lên, sau khi tản cư về Hà Nội (1948) cho xuất bản một truyện nói lên tâm trạng bi thiết thời đại, đó là Đất, tâm sự não nề tác giả Quán Gió với lời tựa của nhà văn Tam Lang.

Từ tập truyện ngắn đầu tay Phấn hương, Ngọc Giao giới thiệu với người đọc tâm trạng thương nhớ, qua lối văn hoài cảm ngắn hơi của Marcel Proust, song ở Ngọc Giao không điển hình; bởi bi quan vô lối, diễn tả không hợp tình, hợp cảnh. Nhân vật truyện đều giải quyết cuối cùng bằng cái chết. Tất cả nhân vật truyện Ngọc Giao đều lấy cái chết giải quyết mọi vấn đề, cả khi bế tắc lẫn không bế tắc. Có thể, ông cho rằng đó là cách bố cục ly kỳ hay ho có thể làm độc giả giỏ nước mắt, nhất là đàn bà hấp dẫn bằng bi kịch: Cái Chết.

Trong Tiếng chim kêu tả con chim họa mi không được sống mà hót cho nên chết. Và kết luận:

“...Nó nằm ngửa trên bụi tầm xuân hai chân co quắp, một cánh sã ra...”

Truyện Lucie, có chồng rời khỏi Đông Dương về Pháp, nên Lucie kết luận cuộc đời bằng:

“...Người đàn ông ở xa Lucie quá, xa nghĩa là chết hẳn rồi...”

Truyện Đôi mèo thì mèo chán đời như chim họa mi, chẳng thiết cho người đời ve vuốt; mèo chẳng còn ham sống:

“… chết dưới một đêm tuyết(68) xuống tơi bời…”

Đến Thời gian, ông Tú cũng rơi vào trường hợp Lucie, hoặc như con mèo cũng chán bọn đua chen danh lợi, tiêu dao tuế nguyệt. Để rồi kết luận cũng bằng cái chết:

“...Nhưng đi làm được gần một tháng thì ông lìa đời…”

Chuyện chính tiêu đề truyện là Phấn hương cuối cùng cũng chết. Ngọc Giao chịu ảnh hưởng truyện trinh thám Tây Phương giải quyết chết và chết là hết chuyện chăng? Giải quyết kết cần chết của phong trào lãng mạn Âu Phương cao độ như Emily Brontë, Lamartine, Victor Hugo, Chateaubriand, (ông Tổ lãng mạn J.J. Rousseau)… hợp cảnh, hợp tình, mới hợp lý. Hay nói về cái chết phải nói như Blaise Cendrars trong Moravagine; Céline qua Mort à crédit (Chết chịu)… mới là cái chết cần giải quyết hợp cảnh, hợp tình. Hậu chiến Ngọc Giao vẫn mang tính chất cũ viết về cái chết của chuyện tình cuồng loạn là Phượng (T.T.T.B. số 9, 1949).

Phượng yêu Thông, Thông yêu Phượng. Rồi, Phượng xua đuổi Thông bằng cách đánh lừa chàng vào Sàigòn, và là nàng lấy chồng. Cuộc đời luẩn quẩn, Thông gặp lại Phượng tản cư lên vùng Yên Thế, con của Phượng có giọt máu Thông. Thông biết Phượng có con, nên nhất định không bỏ, Thông theo đuổi nàng, đòi làm lại cuộc đời dầu muộn. Phượng giầu tình cảm sa ngã, thì may cho nàng, có chiếc máy bay gần đấy thức tỉnh nàng nhớ đến con, chồng. Nàng chạy về nhà, Thông đuổi theo, máy bay tiếp tục bắn phá, Thông bị què. Khi gần khỏi chàng lại đến gõ cửa nhà nàng mấy bận. Phượng biết nàng làm lơ và Thông chán đời rồi đi đâu mất…

Ngọc Giao thường chỉ viết chuyện tâm tình tạo nút lôi thôi rắc rối, lồng tư tưởng lãng mạn, khiêu khích gợi dục, nhưng không là biểu hiện lập ý cao hay dùng dục vọng kiềm chế dục vọng khác (dĩ độc trị độc), mà để thỏa mãn ngòi bút dâm tặc. Và ông có giọng văn ngọt ngào, thể văn bay bướm, khiến độc giả phái yếu say mê truyện tình Ngọc Giao.

Tả cảnh chia ly chẳng mới (giữa Phượng và Thông), tác giả cậy có tài nguyên lãng mạn cùng thể văn bay bướm, trữ tình làm cho độc giả yếu tim nức nở tình đời oan khiên:

“… Người chồng nàng đến nhìn qua cửa sổ đứng lặng đi một lúc. Nhờ giăng soi, Phượng nhận rõ da mặt sâu như vực thẳm, nhưng trên môi vẫn giữ nụ cười kiêu hãnh chán chường. Mắt chàng dạo nhìn tứ phía, thoáng một ánh sáng dữ tợn và đau khổ. Phượng muốn chạy ra nhưng Phượng thấy run sợ thế nào? Biết nói gì với Thông đây, thôi đã đến thế này thì thôi vậy. Đành là cả hai cùng câm nín để mang mối tình thương nhớ suốt đời.

Ngưởi trẻ tuổi khẽ gõ vào cửa buồng Phượng, chàng có cử chỉ thông thạo và bạo dạn của một người đã quen làm việc ấy nhiều lần. Phượng thổn thức run lên:

- Trời ơi! Hẳn là Thông nhiều đêm lẻn đến đây, vậy mà ta có biết gì đâu? Thông ơi! Anh yêu em đến mức hủy bỏ cuộc đời trai tráng, em có tội với anh nhưng mà thôi, câm nín mà yêu anh cho đến chết ! Người đàn bà gục xuống, nhét chặt chiếc mù soa dính máu – máu tình nhân vào miệng – cho tiếng nất khỏi bật ra. Hai vai Phượng rung lên và gió khuya lồng mớ tóc mượt dài bay theo gió. Người tình nhân gõ thêm ba tiếng nữa cho thêm một lát rồi lại cúi đầu tập tễnh lê đôi nạng khuất sau nương chè dào dạt gió…” Đọc đoạn văn trên, ông muốn đưa thanh niên thời loạn đến chỗ yêu là vạn năng sức sống. Nhân vật trữ tình, bởi lẽ thanh niên có thể chán chường chính trị, để tìm đau thương ẩn thể trong tình yêu, nhưng được giải quyết có lập ý, không tầm thường như chuyện tình ba xu. Ngọc Giao chán chường chính trị, hồi cư trút ẩn ức, tâm tư bế tắc qua truyện lãng mạn diễm tình, không đem lại một âm hưởng gì mới lạ. Truyện tình viết ở hậu chiến cũng như trăm chuyện tình viết ở tiền chiến; thì còn đâu là văn chương mang vết tích thời đại? Ở Hoa đèn, ông thương tiếc dĩ vãng, thần thánh hóa quá vãng qua mộng. Tư tưởng Ngọc Giao lúc ấy bị hai tác dụng “vật chất no đủ thì tư tưởng thiếu thốn, mà tư tưởng thiếu thốn lại phải quay về lý tưởng dĩ vãng”. Vì thế, lối thoát tinh thần trong hướng văn chương Ngọc Giao như không có, kể cả truyện tình điển hình như Cầu sương. Hay truyện điển hình xã hội như Đất chẳng hạn.

Ở Hoa đèn mang ý nghĩ như vừa phân tích:

“...Mạnh nhớ lại mùa thu năm trước, loạn ly đã đẩy anh lên miền sơn cước, sống đời gạo hẩm nâu sồng. Khuất chìm giã cái triền miên sâu rộng của núi rừng, chung quanh đất đỏ áo chàm, Mạnh đã bơ vơ lạc long với cái tâm sự của ông già Tô Vũ. Ấy thế, rồi có một buổi chiều đi chơi gặp mưa giữa đường rừng, Mạnh chạy vào một trang trại lưng đồi. Cái ông phán già chủ trại cũng là một loại tình chung thuở tóc xanh, ông đã trân trọng rót bát nước chè tười đồi nhà mời khách. Ông đã vui câu chuyện thị thành mở hòm bày ra chiếc giường tre mấy chục quyển sách bìa da, gáy nạm chữ vàng và có hai quyển mang cả triện son chữ ký của anh. Mạnh đã có cái thú vị của một anh chàng lính thú được nằm mơ thấy màn yếm đào chị vợ trong cái đời chém tre đẵn gỗ trên ngàn. Mạnh yên lặng, nâng tác phẩm của mình lên một lát rồi đặt xuống giường giả chủ nhân… Ông phán già nói qua khói nước chè vàng xanh: “Ông ở tỉnh tất biết người đàn bà ấy nhỉ? Mai Chi đấy mà! Cũng là một phường luân lạc cả, làm gì mà chẳng biết nhau. Mai Chi đã có chồng. Nhưng chồng Mai Chi hiện ở chân trời, vui bồng tang để ông chí lớn…”

Từ sự thần thánh hóa cái thương nhớ hão huyền, đôi khi lại phi lý, chẳng ích gì; ông cho Mạnh gặp tác phẩm và chữ ký của nhà văn tặng một người con gái quen biết, bây giờ là đàn bà có chồng lưu lạc. Chỉ có thế và người chồng của người đàn bà tên Mai Chi ấy đang ôm chí lớn. Phản ánh nhiều tâm tư tác giả; hồi cư thì chán cảnh thống trị của thực dân Pháp; tư tưởng lại một lần quay về với dĩ vãng, vọng kháng chiến. Còn cá nhân thầm kín thì mơ một cô nhân tình thuở đầu tiên thật lý thú, nhưng nghèo nàn đã để mất đi. Phần nhiều chuyện lãng mạn diễm tình của Ngọc Giao đều có mẫu người giống nhau, có khác chỉ là khung cảnh, thay đổi địa điểm. Cho cảnh một: hai người yêu nhau; hai: người đàn bà xa đàn ông; ba: người đàn ông không thể sống cô độc, chung tình như Xuân Diệu ngâm qua ý thơ:

“Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất

Trao cho em nên anh đã mất rồi…”

Đàn ông tìm đàn bà. Vô tình gặp đàn bà xưa đã yêu và chồng họ ở xa họ –làm sao không có chuyện, làm độc giả khóc buồn theo định lệ. Trời mưa, gió rét, chăn trùm trên, nệm ấm dưới, và hai cánh tay vượt khỏi tầm tay. Đó là cớ than khóc cho người trong cảnh truyện tình Ngọc Giao.

Đất tác phẩm có thể gọi là tác phẩm để đời của Ngọc Giao. Và trong bối cảnh nhiều vết tích thời đại; con người, quê hương, khói lửa. Tả gia đình dân quê đam mê quê hương, Đất là tất cả.

Trước khi phân tích Đất còn phải nhắc một truyện tình lãng mạn điển hình của Ngọc Giao nữa; tác phẩm này mang hình ảnh thời đại qua văn chương hơn hẳn truyện tình khác cùng tác giả. Giá trị nội dung tiến bộ hơn chuyện tình có bố cục ly kỳ từ trước của ông. Khi báo chí Hà Nội vào thập niên năm mươi tranh luận, có báo cho đó là truyện tình lấy khung cảnh Bức tranh sơn S. Maugham, mà ông đưa vào làm của riêng. Không đề phỏng dịch, cũng như La lettre inconnue của S. Zweig qua Mối Tình Thiên Thu ký tên Ngọc Giao.

Cầu Sương hay Thiếp phụ chàng (Thế Giới, Hà Nội 1952). Ngọc Giao cho biết tổng quát cốt truyện. Vào đầu tả Hạnh phụ bạc chồng. Văn cầu kỳ gọt rũa; sau Nguyễn Tuân ít ai sánh kịp! Khai từ bằng một lối văn kịch bản tiểu thuyết, ông làm rung cảm người đọc qua một pha hồi hộp chỉ có phim hay Tây Phương:

“… TRÂM. – (Giọng bùi ngùi) Cái nhà này, phải, tôi còn nhớ lắm đã có một lịch sử gọi là khá ghê gớm!

HẠNH. – (kinh ngạc) Thưa bà, một lịch sử ghê gớm, cái gì thế ạ?

TRÂM. – ngắm nghía lên gác – Nếu tôi không nhầm thời gian, buồng ở tầng gác thứ hai bị phá mà chưa chữa lại phải không bà?

HẠNH. – Vâng có lẽ hồi Nhật đóng quân ở đây, nhà bị bom đạn trúng phải chăng?

TRÂM. – (lim dim mắt) Tôi lại nhớ ở một phòng góc thứ ba trên tường có ba vết bàn tay máu. Ngày nay nếu chưa quét vôi thì vết tích bi thảm vẫn chưa nhòa.

HẠNH. – (hoảng sợ) Trời ơi! Một vụ ám sát thưa bà?

TRÂM. – (càng lơ đãng) Hơn thế nữa kia, một vụ tự sát (cúi xuống giọng xa xôi). Mà tự sát bao giờ cũng đáng sợ hơn ám sát. (trầm ngâm khẽ thở dài) Ồ, Ồ… người ta yêu nhau… Người ta không lấy được nhau… đến nỗi rằng người con gái mài dao, một sớm (Bỗng ngửng lên tỉnh táo). À này bà Hạnh nhỉ, cây trúc đào ở góc vườn giáp tường hoa bên phải ấy, bao giờ lên tốt lắm phải không?

Khi đó bóng tối theo mưa gió hắt vào căn phòng vắng lặng. Hạnh ra cửa sổ nhìn theo người đàn bà khổ não đi trong giông bão. Gió mưa thổi lộng mãi vào mặt Hạnh. Nàng mệt mỏi, cố đứng tựa đầu vào cửa kính, nhìn lá rụng, mưa rơi…

Chuông nhà thờ Cửa Bắc đổ hồi rộn rã.

Hạnh ôm mặt khóc nức lên…

Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Ngọc Giao; lối văn biễn ngẫu hẳn là hay! Vả lại, đúng nghĩa tiểu thuyết có một sức quyến rũ, hấp dẫn, truyền cảm; thì ông thành công trong bút pháp. Thắt nút cho người đọc bị gợi lòng tò mò, không thể ngắt; sau tác giả mới nhập đề. Ông đưa người đọc vào tác phẩm. Tả pháp sư Sở khanh, người nào có cách sống loại, Hải, pháp sư Sở khanh rót vào tai Hạnh, vợ bác sĩ Cung lời quyến rũ say mê; như rắn trong hang bò ra theo điệu nhạc dụ:

“…Hải đã chẳng nghẹn ngào than với Hạnh mỗi khi đón hẹn nhau ở chợ búa, hay đầu đường, quán nước rằng: “Mình ơi! Tôi xa tất cả để lẽo đẽo theo mình như bóng giăng thu”. Hạnh chỉ còn khóc mà tạ cái tình cao siêu của Hải bằng cách thừa cơ hội Cung đi công tác vắng, lại mở va li vét cái gì là nhuyễn riêng tây dâng Hải… Hạnh đang say ân ái, chẳng nghe lời chim tiếng gió, chỉ biết có đôi tay Hải, giọng thì thầm của Hải. Hải đu người chân rún cành cây. Cành lá đập lia xuống suối khiến đôi bóng chập chờn gương nước. Hai người cùng la to để rồi phá lên cưới.

“Họ sải tay rẽ vào bờ, phẩy lên bãi cỏ. Tự nãy tên đầy tớ điếc giữ việc canh quần áo, đã làm xong bữa cơm lam. Đôi tình nhân đứng sau một bụi cây thay quần áo rồi ngồi trên cỏ ăn cơm nóng dịu vừa lấy ra từ lòng khúc tre vầu(69) nướng chín. Ăn xong tráng miệng xím chin nước dừa tươi, đôi nhân tình khoác tay nhau ra về cười vang cả suối rừng.

“Xuống con đường thung lũng, Hạnh bỗng để ý đến vết bánh xe đạp in rất rõ trên đất mềm ven bờ cỏ mát. Hạnh thảng thốt kêu thầm lên một tiếng: “Sao lạ thế này?” và Hạnh nhớ ngay đến ánh đèn pin xanh biếc chập chờn xuyên bóng tối ở quãng đường này, bữa vừa qua đôi tình nhân dừng gót lại đây để ngắm cảnh giăng chìm, sương thu muộn.

“Sao lại thế này?” người đàn bàn run sợ cúi đầu nhằm vết xe hằn xuống đất như nhìn vết máu tội tình đang quằn quại chảy trong thiên hương mờ mịt.

Hạnh lảo đảo bước, tránh vết xe càng xuống dốc càng rạch lưng đất mềm. Cung đã qua đây, có thể thế được không? Cầu Trời đó chỉ là một cơn mê hoảng…”

Ngọc Giao tả chuyện tình cùng pha ái ân của đôi tình nhân thì tuyệt đích sự an hưởng. Người đọc tưởng tượng được trăm hình, ngàn vẻ, hưởng sự sung sướng cao độ ăn vụng ái tình. Như con rắn ngày xưa vào vườn ăn trái cấm vậy.

Cảnh ấy, nhân vật ấy, chỉ là mẫu người chán chường thua cuộc. Pháp chiếm đóng thị trấn, tác giả tự nhận không thể chịu khổ sở kháng chiến về thành. Tâm tư nhà văn bị dồn ép thì sau đưa vào nhân vật được xây dựng trong tác phẩm.

Cầu Sương của Ngọc Giao bố cục chặt chẽ. Vai Cung khinh bạc kiêu sa, vai Hạnh đa tình lãng mạn, thèm mới, vai Hải lưu manh duy trì lợi giai đoạn. Sống trong xã hội thịnh trị những ngày tiêu dao tuế nguyệt, ngắm trăng lên, sương thu muộn, để mà nhắc lại tâm tư của số người cuồng loạn.

Đất của Ngọc Giao, một tác phẩm điển hình cho văn nghiệp ông. Nói như thế, hẳn không lấy gì gọi là lạ! Đất một tác phẩm đẹp nội dung, phản ánh nhiều hình tượng cuộc đời, của hoàn cảnh xã hội đứng lên chống đế quốc xâm lược”. Ở đây với những dòng chữ bỏng cháy này sẽ tiết ra, sẽ dựng lên một cuộc đời gai lửa, nghẹn uất của những người mong được sống, thiết tha trong cuộc sống thấy lẽ sống chỉ khi nào họ được bám chặt vào đất, ghì lấy đất…” Đất của Ngọc Giao sau tiền chiến, như Trại Tân Bồi của Hoàng Công Khanh.(70) Ông dùng bối cảnh xã hội điển hình, bố cục, nghệ thuật dàn truyện hấp dẫn say mê nói lên nỗi khổ con dân Việt đông diệt đến chín mươi phần trăm ấy. Còn cảnh sống ghê rợn ở Đất, thấm nhuần cảm tưởng căm thù, khi non sông nghiêng ngửa, nhưng không phải sự ghê rợn trong truyện Cầu Sương. Anh Xã Bèo yêu con trâu, yêu đất: Nhân sinh quan nông dân gồm tình tiết đúng xác.“Anh Xã đứng sững lại nhìn thân tre chen chúc trên mảnh vườn nhỏ hẹp bên vũng ao bèo tấm. Anh Xã thấy lòng vui vui khi nghĩ rằng mình vừa mua được mảnh đất ấy của Trương Dần. Cái việc Anh Xã Bèo tậu đất vừa tháng trước đây đã làm cho cả làng phải bàn tán mãi. Ai đời, cái anh Xã Bèo từ xưa vẫn trên răng dưới khố ấy mà lại được mồ mả ra sao, mới có một năm trời mà anh đã tậu được vài sào ruộng tốt, mua được con trâu, ngâm được bờ tre này, lại mới tậu được mảnh vườn bương(71) này nữa. Miếng đất méo mó chỉ đáng dùng cho con chó bậy, nhưng anh Xã cứ nhất định mua bằng được”.

Ngọc Giao đã thấu hiểu giai cấp tính nông dân rất sâu. Xã Bèo mua lại được miếng đất của một tên ngày xưa đã chửi mình, bây giờ mua đất là sự trả thù cao thượng. Ở nông thôn, họ sống trong cung bậc, trong sự khen chê của dân làng. Điều này vô cùng quan trọng:

“...Không ai biết, chị Xã cũng không biết rằng chồng nhất định mua miếng đất ấy để trả thù với Trương Dần. Bởi vì có một ngày lâu lắm rồi, Trương Dần trong bữa rượu đám ma đã trỏ vào mặt Xã Bèo đang gậm xương dưới bếp mà rằng: “Cái đời thằng Bèo chỉ ăn mày, ăn cắp, nó sống ngày nào còn làm bẩn cái làng Nguyệt Đức...”.

Chỉ có thế mối thù Xã Bèo đã nuôi hai năm để giờ phút này, Trương Dần cờ bạc bê tha, phải bán đất cho Xã Bèo. Văn viết thông, lập ý cao, không gọt rũa, chân phương tả cảnh sống bình dị thôn quê. Tâm lý nhân vật sâu sắc, tác giả biết điều động diễn tiến tình cảm mỗi nhân vật hành động đúng lý, hợp cảnh, hợp tình. Từ chỗ Xã Bèo trả thù xong, anh nông dân làm ăn khấm khá, có đất, có trâu, có lợn, có ruộng, thì tại họa lại đến với anh. Người đọc bắt đầu lo lắng cho sự an hưởng của Xã Bèo sắp đến giờ phá sản. Dẫn người đọc từ lo âu sang thỏa chí, lại lo âu như sóng lên xuống, rất hợp lý. Đó là nghệ thuật già dặn của tác giả: “...Từ tỉnh Mỹ hào đến đây đường bộ thì xa chứ tính đường gió thì chả được là bao, năm cây số là cùng. Năm cây số mà tàu bay nó bay, xe tăng nó chạy thì...”.

Ngọc Giao dẫn người đọc bắt đầu vào thời tao loạn có xe tăng, tàu bò, tàu bay, bắn phá; máu sẽ chảy, người sẽ chết. Khí giới giết người ấy là kẻ thù Xã Bèo, như nhân vật chính là một nông dân trong La vingt cinquième heures của Gheorghiu(72) , nhiều khi vào tù mà không biết phạm tội gì? Cách mạng đến với người dân Việt chóng quá, bở ngỡ như Ả, Q. của Lỗ Tấn, với cuộc cách mệnh Tân Hợi ở Trung Hoa. Xã Bèo có lo xa, nhưng với sự nhìn xa của anh rất nông cạn: chẳng hạn anh định tâm trồng bương để sau này làm nhà cho con trai lấy vợ. Rồi loạn lạc, chém giết, bom đạn khiến cho Xã Bèo phải:

“...Anh Xã bỗng đứng lại. Đầu anh gục hơn nữa. Qua bụi tre bương anh cũng không muốn, như mọi lần, nhìn một cách sung sướng những thân tre to đẹp để mơ màng một ngày nào đó anh sẽ ngả những cây tre ấy xuống làm nhà cho hai thằng con trai trước khi cưới vợ cho chúng nó. Anh khổ sở lo lắng quên cả mấy chiếc măng mới mọc. Anh ngao ngán thấy binh lửa rồi sẽ tới thiêu trụi, tàn phá hết huống hồ là chiếc măng non…(….) Xã Bèo quay trở lại, dáng băn khoăn, lo lắng. Anh nhìn chừng vào bụng vợ làm ra vẻ tự nhiên: “Thế bu nó có mang rồi đấy à?” Người vợ nghe chồng hỏi mấy câu đột ngột, ngưng tay làm, ngừng tay lên cười rồi khẽ gật. Cái cười làm đôi mắt có đuôi và hàm răng hôm nay sao người chồng thấy nó cũng đen hơn trước.Xã Bèo đến gần bên vợ: “Được mấy tháng rồi u thằng Đanh nhỉ?” Người vợ cúi đầu rồi thẹn như cái tính chị vẫn thẹn khi tối đèn tắt lửa gặp chồng…”

Ông tả những cử chỉ, thái độ luyến ái của người đàn bà nông thôn Việt Nam rất điển hình. Yêu nhau là một việc không thể từ chối., nhưng sự yêu đương phải khép nép, e thẹn, tinh tế; có như vậy mới không bị gán lăng loàn. Văn của ông không mang tính chất luân lý như Lê Văn Trương, vỗ ngực giảng cho đời nghĩa sống, hoặc đả phá dữ dội như Nguyễn Đức Quỳnh (mặc dầu hủ tục có khi cần đả phá); Ngọc Giao chỉ tả cái đẹp và hiền hòa của nông thôn. Văn trong Đất bình thường có hình tượng sống. Nhân vật Xã Bèo như một Ả.Q. Chính Truyện của Lỗ Tấn tả nông dân Trung Hoa thập niên năm mươi, Ngọc Giao còn lối nhận xét nữa, quan sát thật tỷ mỷ, không thừa không thiếu, giúp cho người đọc hiểu nông dân hơn. Tả sự mê tín (đôi khi) không bình luận gì thêm, nhưng cách đả phá nhẹ nhàng, lạnh lùng. Bác Cống gái thấy chồng lên đồng, quên công tác cách mệnh, phá đường chặn giặc Pháp. Và đây là cuộc đàm thoại giữa mới và cũ, sự xung đột cỏn con bắt đầu:

“...Người đàn ông đeo súng cười rằng: “Chị Lý nói dối”. Vừa ban tối, tôi trông thấy anh Lý đi trong sớm kia mà.Một người khác cười to một tiếng:Tôi biết hiện giờ anh Lý ở đâu? tôi nói nhé: bố ấy đang lên đồng trên chùa ấy. Bố ấy lên đồng quan tướng, ghê quá mất thôi". Mấy người đứng quanh người đeo súng phá lên cười một lúc: “Có đúng thế không chị Lý?” Người đàn bà cúi xuống, mân mê cái góc bàn: “Vâng, bố cháu hầu thánh”, nếu không chịu hầu thánh thì thế nào cũng ốm đau. Xin các ông tha cho bố cháu lần này. Người đeo súng trang nghiêm như một nhà chính trị nói với ai chứ không phải một người đàn bà ngu dốt: “Không được. Cách mạng không thể dung cho những người mê tín. Bệnh mê tín làm cho con người thoái hóa. Óc duy thần làm giảm sức bành trướng của duy vật chủ nghĩa. Phải đả kích óc mê tín, óc duy thần, bởi vì, bởi vì...Anh tròn mắt nhìn ra ngoài trời tối để tìm chủ nghĩa, danh từ gì đó, nhưng trời tối mù mù anh ta cầu kinh: “Bởi vì cụ Mác bảo thế…?”

Có một điều Ngọc Giao không để ý – giữa năm 1946 -1947, ngoài những cán bộ cao cấp lãnh đạo là cộng sản nhưng bên trong không được công khai ra mặt; vì họ đã ra lệnh cho cán bộ trung cấp cũng như hạ cập như vậy. Nếu có một cán bộ nào đúng như Ngọc Giao tả, mà vô tình đến thế chắc chắn bị kỷ luật. Ngọc Giao tỏ ra là nhà văn nhận xét tỷ mỷ. Hình ảnh người đàn bà mà chúng ta thấy trong đoạn văn dưới đây: “...Chị Xã kéo chăng đắp kín đầu chồng. Xã Bèo đã ngủ, tiếng ngáy đứt quãng vì thỉnh thoảng lại giật mình. Người vợ gón rén bước qua cái ngưỡng cửa hơi cao. Khép cửa buồng lại, chỉ khẽ nâng cánh liếp, nấu cháo cho chồng ăn, nghĩ rằng chỉ có một bác cháo chộn hành tươi với lá tí tô, mồ hôi thoát ra được là bệnh khỏi..."

Ông cho thấy cảnh ốm đau ở thôn quê, chữa rất sơ sài, đúng với thực trạng xảy ra thường xuyên không cầu kỳ, chỉ dùng thuốc gia truyền. Tả vai bà mẹ chồng rất điển hình, thái độ chửi con dâu bóng gió, hoặc luôn luôn hờn mát như trẻ con, Ngọc Giao nhận xét tâm lý thật vững: “...Thôi ạ, cô để tôi đun, không làm gì thì người ta nhiếc cái con gái già công lưng ăn hại cơm gạo của người ta. Dao ôi! Mẹ nuôi con như sông như bể, con nuôi mẹ kể từng ngày. Chém cha nó chứ con với cái…”

Ngọc Giao nhận định thật đúng cảnh mẹ chồng vùi dập con dâu, chú ý từng cử chỉ nhỏ để hành tội. Trái lại, con dâu phải mím răng chịu đựng:

“...Chị Xã cúi xuống còi rơm đun nồi cháo. Không mấy khi chị đáp lại lời đay nghiến mẹ chồng. Chỉ biết rằng mẹ già trái nết và tự xét mình cũng chẳng hư hỏng gì, thôi thì cứ nhịn nhục đi cho cửa nhà ấm ấm…” Hoàn cảnh xã hội xô đẩy, Ngọc Giao cho người đọc thưởng thức một pha hoảng hốt của dân quê. Tình tiết tự sự, lo âu, sợ hãi của gia đình Xã Bèo, của người quanh năm sống trong lũy tre xanh, bần thần; khi nghe Ủy ban buộc phá hoại vườn không nhà trống. Lúc ấy, cảm tưởng của người dân quê ra sao? Ngọc Giao trình bày thật đúng xác:

“...Có lệnh tiêu thổ, chúng tôi yêu cầu anh chị Xã rời ngay nhà để, rồi chờ lệnh tản cư.. Câu nói như sét đánh. Mắt chị Xã mỡ tròn, miệng chỉ hé ra, tay chị đang cầm xiêu nước sôi rơi xuống đất, nước nóng rội vào bàn chân, chị rãy lên, nhảy lùi trở lại. Một tiếng kêu bật ra thảng thốt:

– Thưa ông…

Người răng đen đi ủng kéo cái điếu lại gần, đánh diêm hút sòng sọc nói bằng một giọng khàn: “Mà phải cỡ nội ngày mai cơ đấy. Rỡ lấy thì còn được cái rui, cái kèo nguyên vẹn chờ một ngày kia dựng lên. Chứ mà để người đến rỡ hộ thì cứ là đi đứt ráo".Có một tiếng động mạnh trong buồng. Chị Xã bước đến ngưỡng cửa đẩy cánh liếp ra, người chồng ngã rụi trên mặt đất. Chị vội nâng chồng dậy. Anh Xã rên thảm xiết:

- Thế là nghĩa thế nào? Không. Tôi không rỡ nhà, tôi không đi đâu hết.

Chị Xã cố sức đỡ đặt chồng lên giường. Giọng chị run như khóc:

Bố nó! Bố nó! Nói khẽ chứ!

Anh Xã muốn nói, nhưng rồi mắt anh vẫn nhắm lại, hai tay anh chời với quều quà trong bóng tối. Chân anh khẽ rẫy đạp vào vách đất.

- Chị Xã thốt lên kêu:

- Bố thằng Đanh! Bố nó làm sao thế này?

Ngoài sân, con Mực đuổi theo chân khách sủa vang. Bị một hòn gạch ném trúng đầu, con vật vẫn cắn ác tiếng cười của ba người lạ mặt.Anh Xã vùng ngồi dậy, sô cả người ra, ngoài ngưỡng cửa buồng. Không còn ai ngồi kia nữa. Chỉ con chó đứng trên thềm nhìn anh mắt nó đỏ ngầu, lưỡi nó thè ra hừng hực thở. Anh quay vào, ngã xuống giường. Chị Xã ngồi bên, nắm tay chồng thổn thức…”

Cảnh loạn lạc đưa người ta tới đau khổ. Đau khổ đưa con người ta tìm lối thoát, bằng cách suy nghĩ lung, rồi bộc lộ thành lời nói hoặc hành động, phản ứng. Chị Xã Bèo của Ngọc Giao bây giờ bắt đầu lý luận, mà lý luận xác đáng, dựa vào sự kiện xảy ra:

"... Chị Xã ngoảnh nhìn chồng mắt đỏ:

– Chuyện bố thằng Đanh, người ta phá cái nhà này, rồi mai kia người ta xây nhà Tây khác, to gấp hai ngay được; chứ mình mất nhà này thì cứ rúc bờ chết bụi suốt đời như đàn chó sói...”

Ủy ban phá hoại báo cáo từng nhà thi hành lệnh “vườn không nhà trống” thì bác Công, người hàng xóm Xã Bèo quá tiếc của, chỉ còn cách đốt nhà nhìn cho sướng mắt. Vì chính tay mình làm ra lại chính mình được phá đi.

"... Lý Công ngồi vắt vẻo trên nóc nhà cao nhìn sang bên anh Xã nói:

- Rỡ làm gì, sốt ruột. Đốt cả nó đi cho xong quách anh Xã ơi!

Rồi bác thét to hơn:

- Này tôi đốt nhà này, bà con làng nước ơi, tôi đốt nhà tôi đây này!

Nói làm liền, Lý Công móc túi lấy bao diêm. Lửa diêm bén ra nghi ngút khói. Lửa bốc lên nhè nhẹ rồi cao, cao dần.Vợ con bác Lý kêu ầm trời đất. Lửa cháy càng cao. Cả làng kéo đến hô bác Lý Công trèo xuống. Nhưng bác cứ đứng nhìn lửa cháy. Bác không cười hát như ban nãy nữa, bác khóc như vợ con bác. Mấy người đàn ông trèo lên lôi bác xuống. Lý Công không xuống bằng thang mà cứ để cho cả người tuồn tuột theo mái rơm rơi bịch xuống sân…”

Ruộng nương, cây cối là máu mủ của dân miền quê, sau trâu bò. Ngọc Giao vừa cho chúng ta hiểu thêm một tâm lý kỳ lạ và rất hợp cảnh, tình, lý thứ chất điên trong con người tận cùng hành động, có thể làm liều, kể cả liều nhất. Bây giờ tác giả cho chúng ta hiểu về Xã Bèo đau đớn, nhìn những thân tre bị đốn ngã để chặn đường quân địch: “Thế rồi, thốt nhiên”… đó là những mẫu động tác Ngọc Giao tả về hành động Xã Bèo rất linh động:

“…Anh đứng ngẩn người ra, tưởng chừng cuống họng mình như có bàn tay ai đùa nhả đứng đàng sau mà bóp. Thế rồi, thốt nhiên, Xã Bèo tiến đến nắm cánh tay một người trẻ tuổi vừa ngưng dao chặt, giữa lúc một thân cây ngã răng rắc xuống bờ ao. Một cành tre theo thân cây đổ mạnh, quật ngang mặt Xã Bèo. Anh bật kêu kên như con vật bị đánh:

- Sao lại chém tre của nhà tôi? Không thể được! Không thể được!

- Cái gì mà ghê lên thế? người anh em. Xã Bèo ngoảnh lại, Trương Dần đứng bên anh từ lúc nào nhìn anh cười mà nói tiếp:

- Chém tre ngăn quân địch, đó là nghĩa vụ công dân. Anh phản kháng chăng anh Xã?

Anh Xã liếc nhìn con mắt Trương Dần cũng sắc như mũi kiếm. Anh lủi thủi bước đi. Sau lưng anh những mũi dao tới tấp múa lên và những thân tre quằn quại ngã xuống ao bèo răng rắc. Anh gục mặt xuống mà rảo bước trên con đường làng nhầy nhụa...".

Cảnh loạn ly, những tiếp diễn trăm vạn cảnh não lòng khác nhau, Ngọc Giao cho người đọc thấm nhuần trong sự thông cảm nỗi đau đớn nông dân an phận, bị xáo loạn. Bây giờ đến cảnh chôn của trước khi đi lên đường tản cư. Nào mâm thau, chậu đồng, ninh, nồi. Hai tiếng cách mệnh, thật gây bao nhiêu lo âu, hồ nghi của tâm trạng chung, trong đó có Xã Bèo:

“...Hai vợ chồng cầm mai, cuốc ra ngoài vườn tối. Anh Xã vờ ho một tiếng ra điều mình đi giải(73) đây, trong khi ấy anh thu gọn cái cuốc vào sát nách anh đứng lại bên cây muỗm ở góc vườn cát bờ ao trông sang chùa. Anh Xã, sau lưng là chị Xã, rỏng tai nghe ngóng. Anh cúi nhìn qua bờ rào thưa, ngoài kia là một cánh đồng có một ánh lửa chập chờn. Ánh lửa, lục đục, lúc xanh, có khi vụt lên cao, có khi hạ xuống thấp. Giá như xưa thì anh Xã nghĩ ngay rằng đó là đức Thần nông hiện chơi trong đêm hay đi phó hội ở bãi gò nào đó, nhưng bây giờ thì Xã Bèo biết ngay là ánh đèn pin của người đi làm việc ban đêm… nghĩa là đi công tác khai hội, hay là đi phá hoại…”

Ngọc Giao tả đoạn vợ chồng Xã Bèo chôn của, đến ý nghĩ mới từ khi có cách mệnh, nó làm tan mê tín; đó là nghệ thuật cao khi tác giả cần đả kích. Cũng vẫn trong cảnh chôn của, Ngọc Giao cho thấy hai cảnh: trần gian và tiên giới. Xã Bèo nghĩ đến chùa chiền, các sư, các tiểu, rồi Xã lại sợ chôn của gần chùa thì mất. Ngọc Giao đã kích mê tín thật linh động. Và đoạn này cũng là phần khởi đầu, Xã Bèo và Lý Công sửa soạn tản cư, ông viết với giọng văn truyền cảm, làm sao người đọc không não lòng với bối cảnh xáo loạn của xã hội như thế. Hình ảnh tản cư vào năm 1946:

“...Từ nãy vợ chồng anh Xã, vì đợi mẹ, đã đỗ gánh trước sân đình dưới gốc cây cổ thụ bên sông. Vợ chồng anh cũng nhìn mấy mảnh ruộng trồng khoai đỗ bên kia bãi sông: mầu xanh non là khoai lá đỗ trên những luống đất vừa xới làm vợ chồng anh Xã Bèo đau lòng đứt ruột. Chị Xã lại khóc thầm trong giải yếm sồi đen. Anh Bèo mím chặt môi, mắt anh đỏ ngầu như mắt con trâu của anh đang lôi xuống bờ sông uống nước. Chao ôi! Nó uống lần cuối cùng nước sông làng để mang đi nơi xa thẳm nào không biết cái nước sông váng đục mà nó đã đằm, đã uống từ thuở còn làm con nghé ngọ gọi mẹ vang cả cánh đồng nhà.Bà cụ Xã gồng gánh đến nơi. Bầu đoàn thê tử Xã Bèo ra khỏi lũy tre làng. Con sông Đào làng Nguyệt Đức lăn tăn gợn sóng xuôi về phía sau cầu Đáy xa xa, lăn giữa đôi bờ lau sậy, có nước và những bụi tre vàng lá. Ngôi sao lấp lánh trên nền trời mờ hơi sương, rơi yếu ớt xuống lòng sông. Gió phơ phất lạnh. Những bước chân dẫm nhẹ làm tan vỡ những màng sương trên cỏ đọng giá ướt và xua động những con cào cào sòe lông cánh đỏ bay hốt hoảng qua ruộng nước. Con cú trên cành muỗm rỏ vào sương sớm ghê rợn những tiếng hát như tiễn đưa người…”

Một hình ảnh đẹp trong cảnh tiễn đưa tang thương của nông dân phải từ giã xóm làng, Ngọc Giao thấm nhuần nhiều nếp sống quê hương. Từ những cảnh đau khổ người dân phải rỡ nhà, bác Lý tự tay đốt nhà, người đọc có cảm tưởng rằng họ có thể chết với của cải, trâu bò, đất đai của họ ngay được. Nhưng qua phút ấy, họ trở về với thường nhật, nghĩ rằng tình yêu quê hương cộng với tình yêu đất nước: quê hương còn; nước mất thì không còn. Đến nhiều xen tả cảnh, Ngọc Giao tả linh động, nhân cách hóa loài vật tiễn đưa người làng Nguyệt Đức. Tiếng cú giỏ vào sương sớm, con trâu uống thêm một hớp lần cuối cùng nước sông làng; để sau đó đi tới phương trời xa thẳm. Rồi chẳng bao giờ được trở lại quê hương. Tình yêu người và loài vật linh động như sống có tình cảm, cách xứ thế phản ánh thật trung thực trong văn chương. Triết lý nhân sinh nhật dụng hay là khía cạnh nhân sinh quan Việt Nam qua ca dao, dân ta sống bằng câu tụng nhật ấy xử thế, dầu tiến bộ hay không cũng bắt nguồn ở đó: Xẩy nhà ra thất nghiệp ca dao nhắn nhủ như thế. Người dân Việt không muốn xa quê. Sự biến chuyển lịch sử, dân Việt phải quên mình bồi đắp lịch sử dân tộc độc lập – thì cảnh ấy đã biến đổi tính tình, tác phong sống nhiều lắm. Ngọc Giao viết:

“...Thằng Đanh củng vào đầu em mắng: Vừa ăn bánh ban trưa ở hàng nước đã kêu đói, mày hư lắm.Giá còn ở nhà mà bị đánh như thế thì thằng Đa thụi ngay, nhưng ở lúc này nó chịu ngồi im, nghẻo đầu vào vai mẹ…”

Sự bở ngỡ, xẩy nhà ra thất nghiệp, đưa đến ý tưởng rời khỏi nhà sẵn trong đầu phải sống đất lạ quê người. Chúng ta đã thấy Tô Hoài viết về cảnh tượng này, với Ngọc Giao sống có căn bản, kinh nghiệm thôn quê, khác hẳn các nhà văn Việt Nam, khác gốc thành thị không mấy hiểu gì tâm tình dân quê và cảnh thôn trang. Dầu sao, tâm tưởng hình bóng quê hương ăn sâu vào tiềm thức, lúc cần dùng tới là có sẵn ngay. Thì trong văn chương Ngọc Giao tả quan niệm Xã Bèo nhận xét về quê người ra sao:

“...Chữ sợ lúc nào cũng gieo nặng vào lòng người khốn khổ này ở trong làng nơi chôn rau cắt rốn của họ, cũng như ngoài thiên hạ, mà họ cứ nghĩ một cách kinh hãi rằng: “đất khách quê người”.Bây giờ họ đang lưu lạc nơi đất khách quê người. Họ cứ yên chí chỉ có mái rơm dựng nên nền đất tổ, chỉ đồng ruộng bên lũy tre làng, họ đổ mồ hôi xuống mới là đất của họ, nhà của họ, còn thì đâu cũng là đất của người ta, những người mà họ phải sợ hãi và đâu cũng là đất của người ta, cái đất mà họ bước lên lạc lõng bơ vơ sợ sệt như là bước lên đất cát một xứ sở thế giới Tây Tàu quái lạ nào?...

Sự quên mình để bồi đắp cho độc lập dân tộc; bao giờ cũng là hy vọng, ở mai hậu. Nhưng óc thực tiễn dân quê Việt bao giờ cũng tính toán rất thực tế, Ngọc Giao giải thích cho chúng ta nghe:

“...Anh Xã Bèo bật que diêm nữa. Ánh lửa lòe soi chị Xã với hai đứa con, ngồi bó gối vào tường ngủ. Anh thở dài thương mẹ, thương vợ thương con, sót cả thân mình. Uất hận làm nóng đầu anh Xã, đang yên ổn làm ăn, tự nhiên bắn giết nhau nhắng cả lên, cả đất bây giờ cũng màn trời chiếu đất...”

Trong đám người tản dân ấy, không riêng Xã Bèo; còn nhiều giai tầng thứ bậc khác. Tác giả cho ta thông cảm tâm tư họ bỏ nhà bỏ cửa ra đi và bây giờ đến lượt những kẻ khác nghĩ gì:

“...Gặp một đám đông, Xã Bèo đi sát vào hỏi một cụ già đang hừng hực thở:

- Các cụ các ông các bà định chạy đến đâu, cho chúng cháu đi cùng với. Cứ đi nào đã biết đi đâu? Một anh con trai gánh nặng bước phăng phăng cười nói:

- Chỗ nào có gạo cơm thì đến. Các cụ cứ yên tâm thẳng tiến. Có người có ta cần gì. Khổ một chút rồi sướng như tiên…”

Cảnh chiếm đóng của Pháp, gái bị hiếp, trai bị bắt đi làm phu, cảnh khổ Cực của người dân nhược tiểu trong cơn xáo loạn; Ngọc Giao biểu hiện rất đúng, một trong ngàn triệu sự thật não lòng xẩy ra trên đất nước:

“...Cả làng ta, cả làng Hạ xô nhau nhẩy xuống đầm. Họ không bắn nữa, vẫy gọi lên. Rồi cũng phải lên run bần bật xếp hàng trên bờ đập mà van lạy như tế sao. Khổ mấy con gái làng ướt như chuột bị họ ghẹo, xương run bắn lên; trông đến thảm…”

Trên đường tản cư cùng với bác Xã, Lý Công thuộc thứ bậc nửa nông dân, nửa nho sinh. Chúng ta thấy Ngọc Giao tả lại cảnh học trò ra khỏi nhà, ăn uống lúc nhỏ thì bố mẹ chu cấp, lớn lên ở nhà quê phần nhiều có vợ lo liệu. Bây giờ chiến tranh lan tràn, phải rời nhà. Nay qua cầu chênh vênh:

“…Lý Công vốn nhát nhưng bị thúc cũng đành rở khóc rở mếu bước xuống cầu với gánh nặng trên vai ốm yếu. Chị vợ thương chồng níu lại:Thôi bố Lý để tôi gánh sang cho Bố nó không quen gánh, nhỡ đau quá mà đổi vai thì khốn…”

Anh Lý không nói gì, cứ bước, vợ không dám dằng co, sợ chồng té ngã. Anh Lý bắt chước lối men dò từng bước chắc như anh Xã vừa đi.Mọi người, nhất là chị Lý lại lo âu nhìn dán chặt vào mười ngón chân anh Lý bấm chặt xuống cầu tre kẽo kẹt rủ trên sông.

Anh đã đến giữa cầu, bỗng anh đứng lại, lảo đảo. Anh chóng mặt. Sông reo dưới cầu, sô cuốn rạt sang bờ và rỡn mạnh dòng xuôi. Anh chóng mặt. Chao ôi! Anh chóng mặt hơn là ngồi đu võng khi say rượu. Chị Lý không còn hồn vía thốt lên: “Bố làm sao thế kia? Khổ chưa giời đất ơi!” Bà cụ Xã và chị Xã cũng sợ xanh mặt nhưng không dám nói sợ Lý Công bối rối thêm. Anh men đến chỗ Lý Công đang đứng lảo đảo, mặt nhợt tái như là…”

Đã thưởng thức phiên chợ Trung du Ngô Tất Tố, bây giờ dưới mắt Ngọc Giao trong một phiên chợ miền núi Cao Bằng:

"... Đến chợ Bùng. Bọn Xã Bèo đổ gánh cạnh những gánh nứa tươi, người ta bày bán ngoài cửa chợ, bên đường cái. Chợ họp trên sườn núi. Cây cối bị chặt đi để dựng những hàng quán chạy liên tiếp ngổn ngang, đứng xa nhìn như bát úp.

Để bà cụ Xã, mụ bõ già và vợ Lý Công ở lại giữ gành gồng, vợ chồng Xã Bèo, Lý Công vỡi lũ trẻ lên xem chợ núi. Người tỉnh rất nhiều. Anh em thằng Đanh trố mắt ngắm những người mặc áo tây đội nón, mặc quần xách bị. Và những cô gái xinh tươi nhởn nhơ mua bán và ăn bún riêu sùm sụp, y như là anh em nó vẫn ăn như thế ở chợ Nôm làng mình, mà ở đây người ta gọi thân mật là anh em đồng bào dân tộc thiểu số. Những cô gái Thổ Mán, áo chàm, khuyên bạc đeo xà tích má đỏ hồng hồng, môi ăn trầu, cắn chỉ…” Ngọc Giao còn nêu lên sự quá khích của ông công an mà nhân dân tuy cố nhận thức đẹp đẽ là bạn dân? Nhưng cứ thực tế trả lời, đó là con hùm sắc móng vuốt, thi hành luật hành chính quá máy móc, quá nệ lập trường, làm cho dân kinh hồn thất đảm. Mặc áo chẳng may có ba thứ chỉ xanh, đỏ, trắng, hay ba mụn vá cùng màu trên, thật là thảm họa, bị vu cáo ngay là Việt gian. Giắt trâu ngoài đồng, trong khi mọi người đang chạy, ẩn núp là ra hiệu cho tàu bay bắn phá đồng bào. Lại được chứng kiến cảnh vu oan giá họa của công an:

“… Xã Bèo tới công an. Người ta dẫn anh đến một ngôi chùa không tượng bụt ở giữa cánh đồng khoai. Mọi người đứng ngoài chùa. Anh Xã theo hai người vác súng vào trong chùa. Anh đứng khép nép trước một cái bàn gỗ mộc, quanh bàn đó có năm sáu người ngồi rất nghiêm trang. Người vác súng trình rằng ban nãy giữa lúc có tàu bay đến thì họ trông thấy anh Xã chạy ra giữa ruộng vờ dắt trâu nhưng chính là vẫy tàu bay bắn.

- À thế thì ghê gớm nhỉ? Ông không biết rằng báo động thì ai cũng phải tìm chỗ lánh, nghĩa là không được đi đường, không được chạy giữa cánh đồng, không được vẫy nón, vẫy mù soa. Phạm tội ấy thì đích là Việt Gian..."

Ông làm người đọc phản ứng về thái độ người cầm súng vu cáo dân, nhưng ít ra còn tư cách tác phong được học tập, cách xưng hô, nói chuyện lễ độ. Thái độ hỗn xược, thiếu dân chủ, hống hách của cán bộ tiếp xúc làm nhục dân; hẳn báo hiệu chế độ suy sụp. Dân ít được tiếp xúc với cán bộ cao cấp để hiểu cái hay, cái đẹp; dân chỉ biết căn cứ vào tác phong cán bộ trực tiếp; rồi đánh giá trị qua chế độ hoặc tốt xấu. Âu cũng là thái độ biểu hiện đứng đắn của nhà văn dẫn đạo chính trị căn cứ bằng chứng thay đổi. Cảnh tản cư vợ chồng bác Lý Công đổi nghề, hết nghề lấy củi lại bán hàng quà. Tả lại vài nét đơn giản, khơi lên nhiều hình tượng sâu sắc cảnh sống tản cư 1946:

“…Chị Lý Công rụi lửa, bắc nồi canh bánh đa ra. Mấy hôm nay chị lại bán hàng quà xoay sỏa như hồi ở quê nhà. Chị làm quà ra chợ bán. Hôm thì cháo trai, cháo hến, hôm thì bánh rán, bánh trông trênh chưa phiên nào bị ế nhiều. Anh Lý vốn ngại làm và quen nằm cho vợ con nuôi…”

Gia đình Xã Bèo được cấp đất làm ruộng, được ở nhờ nhà ông chủ tịch Noọng. Và Xã Bèo được Ngọc Giao hồi sinh qua mấy dòng chữ tả anh yêu đất; sẵn sàng chết cho đất:

“… Vợ chồng anh Xã Bèo được chủ tịch Noọng rất mến. Ông ta luôn luôn nhắc Bèo có thiếu thốn đồ làm đất cứ lấy mà dùng, lại cho cả phân gio thóc giống…”

Tả tính người sơn cước như thế là đúng. Dân Việt Bắc quý trọng đồng bào xuôi, họ gọi là người Kinh. Có lẽ Ngọc Giao hiểu ít phong tục, ngôn ngữ Thái; Ngọc Giao cho chủ tịch tên Noọng, chẳng khác nào đặt cho Lý trưởng tên Gái.

Đoạn cuối Ngọc Giao tả rất cảm động. Con trâu bịnh hoạn Xã Bèo về hồi cư, và lúc về tề thì Pháp lại tịch thu trâu. Người dân đầu hàng Pháp được diễn tả bằng hình tượng cuộc đời tủi nhục. Nhiều cảnh Ngọc Giao đưa ra làm người đọc phẫn uất, căm hờn. Nhất là partisan (lính dõng) Pháp tịch thu trâu của Xã Bèo. Theo tác giả, sau Đất, sẽ viết về Xã Bèo, nhưng không thấy sách xuất bản.

Kết luận.

Ngọc Giao là nhà văn có tài. Văn biền ngẫu trong Cầu Sương điêu luyện; như giọng văn bay bướm của ông trong Quán Gió, Cô gái làng Sơn Hạ… Đất, tác phẩm nói lên được bối cảnh xáo loạn thời kỳ chiến tranh 1946. Nếu E.M. Remarque của Đức không nói lên ẩn ức khắc khoải chiến tranh trong văn chương, làm sao chúng ta hiểu thấu được nhục hình dân tộc Đức trong thời kỳ chiến đấu dưới chủ nghĩa Phát xít. Sự dã man chế độ độc tài khiến văn sĩ Đức Stephan Zweig phản đối rồi xa xứ. Cuối cùng đã cùng gia đình tự tử, sợ oan khiên Phát xít lan tràn theo chân đến Nam Mỹ.

Nói như thế, Ngọc Giao không phải là không ích lợi với tác phẩm khác. Song chỉ Đất mới là giá trị chính yếu của Ngọc Giao làm phong phú cho văn chương Việt Nam hậu chiến.


Tiết 3

ĐIỂN HÌNH TRUYỆN PHONG TỤC THÔN QUÊ, LOÀI VẬT.

TÔ HOÀI

(1920 - )

Tiểu Sử.

Tên thật Nguyễn Sen. Sinh năm 1920. Ban đầu viết cho báo Hà Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan và xuất bản nhiều tác phẩm tiểu thuyết. Là nhà văn chuyên viết loại vật, truyện nhi đồng, loại vật có tính cách giáo dục con người. Ông còn viết loại truyện tả phong tục thôn quê, với giọng văn căm thù hướng về phản kháng. Hiện nay sống ở miền Bắc.

Tác Phẩm và Khuynh Hướng.

Dế mèn phiêu lưu ký (1942), U Tám, v.v… Tác phẩm tiểu thuyết khác như Quê người (1942), hậu chiến NXB Á châu tái bản: Giăng thề, Xóm Ao Sen, Đêm mưa, Cỏ dại, O chuột, Xóm giếng ngày xưa (NXB Chính Ký Hà Nội tái bản 1952). v.v... O chuột, tác phẩm đầu tay của Tô Hoài. Có khuynh hướng xã hội, Ông phơi bày cho người đọc qua giọng văn căm thù, tố cáo xã hội thống trị bóp nghẹt kinh tế. Tác phẩm về loài vật mang lập luận hướng dẫn tự do là cần thiết và góp vào sự phong phú cho văn học. Lối sống của Con gi đá, Chuột bạch được nhân cách hóa; chúng cũng có lối sống như người. Giọng kể truyện nỉ non hấp dẫn của Tô Hoài làm say mê người đọc. Tuy không là lối khảo cứu như La vie des fourmis (Đời sống loài kiến) của ngoại quốc, hay khảo cứu về động vật, côn trùng; nhưng truyện loài vật là tiểu thuyết nhân cách hóa.

Nhận định về hoàn cảnh xã hội và bối cảnh truyện.

Truyện loài vật được nhân cách hóa chính là tả người, đây cũng là một chủ ý nhà văn bị ẩn ức, thiếu tự do được biểu hiện sự thực của đời loài vật. Với tiêu chuẩn này khi nhận định phân tích tác phẩm của ông:

- Dựa vào hoàn cảnh xã hội, dưới mắt nhà văn Tô Hoài.

- Ảnh hưởng từ cuộc sống xã hội đến cuộc đời tác giả và tác phẩm.

- Kết luận của tác giả ra sao đối với xã hội?

Giữa xã hội bị thống trị, nhà văn, nói chung, Tô Hoài, nói riêng; không mỗi lúc đưa ra lối thoát: NGHÈO, ĐÓI, NHỤC = CÁCH MỆNH. Đã biết rằng chỉ cách mệnh mới giải quyết được hoàn cảnh gò bó, thối tha, phản nhân bản, Nhưng muốn thế, như Lỗ Tấn nói cần phải có giọng văn căm thù; thì nhà văn mới có bước đi trước để tác động đồng chủng. Tình trạng nhà văn trong nước, nhất định phải chịu luật kiểm duyệt sách in của Chính phủ bảo hộ. Như vậy, không hoàn cảnh nào cho phép nhà văn sáng tác tác phẩm chống đối quá lộ liễu. Như trước đây, chúng tôi nhớ rằng trong cuốn Văn nghệ và Phê Bình(74), Tam Ích cho Khái Hưng không nói được cái gì, vì tiểu tư sản nào có điển hình cho cái gì cho xã hội đâu? Nam, ông giáo Chương, Tuyết... và ông kết luận sao Khái Hưng lại không như Maxime Gorki viết La Mère (Người Mẹ)? Khi xét một tác giả, đánh giá trị chung; nên còn qua mắt nhận định Tam Ích không vượt được nhìn sâu và không nhìn thẳng vào tư tưởng giai tầng sống tác giả và hoàn cảnh chính trị xã hội mà nhà văn đó sống. Người Mẹ của Maxime Gorki viết ở Capri năm 1907; khi ông sang trị nạn chính trị ở Ý, vì không chịu được hoàn cảnh thống trị lúc bấy giờ của Nga Hoàng. Nếu Maxime Gorki ở Nga dưới chế độ Nga Hoàng, hẳn rằng không thế nào Người Mẹ có thể xuất bản được. Nên một tác phẩm chia thành hai phần chính yếu và gồm nhiều mục, thì:

Trình bày hoàn cảnh, sự kiện.

Giải quyết sự kiện nêu ra.

Đưa ra bằng hình tượng mà không cần giải quyết?

Không cần giải quyết mà người đọc có thể có kết luận…

Và giọng văn hướng dẫn, gây căm thù tiến tới đả phá chế độ mà nhà văn giải quyết trong tác phẩm ẩn thể.

Thì văn chương trong nước bị hạn chế tự do, chỉ dám giải quyết sự việc bằng hai phương pháp như dưới thôi. Tác giả tả cảnh nghèo không lấy được nhau, nguyên nhân tại sao? Nếu cho nhân vật không phải thiếu thủy chung, đưa ra hoàn cảnh sống eo hẹp, vậy tác giả định nói gì? Tố cáo hệ thống kinh tế suy sụp, đời sống eo hẹp. Đúng; cho nên Nguyễn Đình Lạp đã giải quyết sự kiện kết cấu giữa Nhớn và Khuyên bỏ đi, Nhớn nhờ Sẹo đến mả mới, đào lấy hai chiếc nhẫn cạnh xác chết, để có tiền rủ nhau chung hưởng hạnh phúc. Tác giả nói lên sự nghèo khổ, sự mất thăng bằng thứ bậc gia đình; sự cải tổ mới lớp người không chịu nổi luân lý cổ truyền. Và tất nhiên người đọc suy nghĩ miên man đi đến kết cấu nào đưa đến thế, nếu không là chế độ chính trị…?

Người đọc sẽ hiểu biết, thức giấc quyền lợi, nghĩa là dẫn họ biết quyền lợi được quyền đòi hỏi. Họ chưa dám có ý nghĩa hành động, nhưng nếu thế hệ mới có người cách mệnh tài ba chỉ huy, hướng dẫn, họ sẽ ngả theo chống lại chế độ. Chúng tôi không đồng ý rằng có truyện không đưa ra kết luận là hại làm độc giả hoang mang. Sự gọi là phản bội độc giả, một số người yếu đuối để hoàn cảnh lôi kéo, song thiết tưởng cuộc cách mệnh hoàn thành tránh sao được đổ máu? Thiết thực là phá ít xây dựng nhiều. Còn nếu phê phán một tác giả như Tam Ích nhận định trên kia, quả là tác giả sống một thứ bậc, sản phẩm tinh thần trong thứ bậc, rồi kẻ phê bình nếu không điên cũng mất trí óc để nhìn theo con mắt, lập trường mình trong một thứ bậc khác đả kích. Lối này là của Mác xít thường dùng.

Nhà văn và nhà cách mệnh, hai hình bóng song hành với nhau. Có khi nhà văn cho nhà cách mệnh rõ hoàn cảnh xã hội qua tác phẩm (Tạ Thu Thâu và Vũ Trọng Phụng). Có khi nhà cách mệnh phải cần nhà văn thức giấc quần chúng bằng văn chương cách mệnh qua giọng căm hờn (Lénine và Maxime Gorki) với tác phẩm Người Mẹ và cuộc lật đổ Nga Hoàng. Và người gia nhập đảng chỉ vì đọc Người Mẹ không cần hỏi cương lĩnh. Văn hóa nói chung, văn nghệ nói riêng, tác động chính yếu cho chế độ chính trị cũng như chủ nghĩa cách mệnh.

Phân Tích Tác Phẩm Chính.

Quê hương một truyện dài của Tô Hoài, tác giả trình bầy sinh hoạt thôn quê, nghèo đói không đủ sống, nên đã có người vào nước Sề Goòng kiếm ăn. Đã có mối tình tan vỡ vì nghèo đói. Tất cả những cảnh khổ não chuẩn bị về cơm gạo trong luận đề, là tìm sống ở đất khách quê người.

Giăng Thề một tác phẩm thuộc loại điển hình văn nghiệp Tô Hoài, cũng như truyện loài vật: O Chuột, Con gi đá, (Truyện loài vật nhà xuất bản Chính Ký tái bản ở Hà Nội vào 1950...), Xóm giếng, Ngày xưa, Chuột thành phố...

Giăng Thề cuốn tiểu thuyết tả nếp sống tiểu trí thức thôn quê, một thư lại gọi là thầy ở thôn quê hẻo lánh; và sự kiện tranh đấu cho miếng cơm manh áo, tình yêu, vô cùng chật vật. Hẳn chúng ta còn nhớ Vũ Trọng Phụng cho thấy thực trạng bóp nghẹt của chế độ chính trị trong Giông Tố, muốn mở trường dạy học, sáu đứa trẻ trở lên, phải xin phép. Nói làm gì đến lớp bần dân khổ biết chừng nào, khi tiểu trí thức và trí thức kẻ giác ngộ quyền lợi mình và quyền lợi đồng chủng còn bị áp chế.

Câu nhân vật chính, cậu giáo viên làng Hạ Nha. Sinh hoạt phí giáo viên do trường làng cấp phát, từ quỹ tự trị hương thôn. Nhu cầu vật chất giáo viên lên xuống theo sinh hoạt dân làng; đói, no, thiếu thốn, đầy đủ. Nhưng Câu nghèo quá, ngoài việc dạy học, Câu muốn kiếm thêm tiền bằng cách nuôi gà. Tô Hoài đưa người đọc cảm thông sinh hoạt ấy qua:

“… Đàn gà của nhà giáo còn nhiều nữa. Chả thầy Câu có một đàn gà ấp, hai mụ mái đang đẻ, ba chị mái tơ và bốn chú gà trống lớn. Đổ đồng mỗi tháng cũng được ngót hai chục trứng(75) . Trước kia, hễ đến phiên chợ cuối tháng, Câu lại nhờ thằng Vật đem trứng lên chợ bán hộ. Được hai xu thuê nó sướng rơn. Bây giờ ngày phiên cô Miến qua, đem bán trứng giúp chàng. Nhà giáo thấy có một cái gì thú vị trong cử chỉ ấy. Riêng thằng Vật ra lối tức tối hằn học. Muốn đẹp lòng nó, thỉnh thoảng Câu vẫn cho tiền như thường lệ!...” Tô Hoài nhận xét tỷ mỷ, chuyển đoạn sang tình yêu khéo léo. Từ quyền lợi thằng Vật được hưởng từ bán trứng chuyển sang Miến vào đề một chuyện tình, cho người đọc nhận thấy được dàn xếp trơn tru, tiến thoái. Đến đây, Tô Hoài tả một xen tình ái rất ý nhị giữa Câu và Miến. Độc giả từng được đọc nhiều đoạn tả về hẹn hò tình ái tỉnh thành, bây giờ mở thêm phần hình tượng đợi chờ tình yêu thôn xóm:

“…Câu hy vọng Miến đi chợ muộn. Nhưng bây giờ hơn, chẳng thấy bóng cô ả. Anh cho là hôm nay Miến không đi. Nhưng cái sự cho là không đủ che lấp nổi ngại ngần trong lòng Câu. Cho đến xẩm tối, anh vẫn ra đi, lại đi vào, ngong ngóng ngẩn ngơ…. Làm sao Miến không đến. Hẳn có sự gì, cái câu chuyện hát hỏng phẩy gió kia bay đến tai nàng? Nàng tức Câu. Nàng giận Câu rồi. Con gái là hay hờn dỗi lắm. Câu lo. Câu lo quá. Vả lại, ngày ngày nóng ruột nữa. Bữa cơm chiều ấy, anh ta chỉ ăn được có ba vực bát cơm…” Tô Hoài có giọng văn đặc biệt, tả tình nỉ non, dí dỏm. Tác giả gây đột ngột, khiến người đọc đánh dấu hỏi chuyển đoạn dự đoán. Tác giả lại dẫn người đọc vào truyện, tại sao lại có sự giận hờn giữa Câu và Miến? Miến giận hờn có phải chỉ là thái độ ghen bóng gió thường tình con gái, thì được Tô Hoài giải thích thật đáng yêu:

“… Rồi Miến quay ra ngay. Câu cuống quít:

- Này?

- Hừ...

- Tôi hỏi cái mà…

- …

- Mấy hôm nay sao Miến không đến?

- Tôi bận.

- Miến dỗi tôi đấy hả?

Miến cười chua chát: - Ai công đâu mà dỗi cậu. Cậu muốn đi chơi thì đi chứ. Tôi có dám biết đâu?

Cậu nhăn nhó:

- Người ta cứ đồn suýt ra. Chứ thực tôi….

- Tôi oan hẳn. Tôi còn biết nhiều chuyện lạ nữa kia?

- Chuyện gì?

- Chuyện gì thì cậu biết đấy.

Câu bùi ngùi:

- Miến ạ từ giờ tôi chừa! Thực tôi chừa đến ngày xuống lỗ.

Dáng hẳn cái nét mặt của nhà giáo lúc bấy giờ coi thiểu não ngẩn ngơ quá khiến Miến phải bật cười. Cơn hờn đã tan. Mà đâu có chi, cũng chỉ dỗi ít thôi. Nhưng không tỏ vẻ gì khác cô nói:

- Rổ bèo tôi để ngoài ngõ. Tối rồi tôi về đây…”

Sự giẫn dỗi cô gái quê làm cậu giáo quê phải thề thốt, nhúng nha nhúng nhẳng đến là hay! Tô Hoài tả lại thành thật, biểu hiện tâm lý Miến và Câu thật tài tình. Tô Hoài như người vô hình trung gian làm nhân chứng tình duyên. Hậu họa chưa qua được đêm, Câu quên lời hứa lại gặp nhà cô đầu. Câu vô tình trả lời như có mấy nàng cô đầu ghé qua trường Hạ Nha. Thì Tô Hoài lại có dịp kể chuyện tiếp: “…Cho đến lúc tan học, anh vẫn chưa tan cơn ngơ ngác. Anh sợ lịm người đi được. Có hai người cô đầu đến tận trường học ỏn ẻn hỏi chuyện anh. Tất cả sáu mươi chín đứa học trò nhìn thấy như nhau. Chúng đã đương rì rầm khảo rằng thầy giáo ta quen hai cô tân thời. Nhất là những đứa học trò gái lại càng ríu rít bàn mảnh tợn. Chúng nhìn trộm thầy rồi nhe răng sún cười với nhau. Câu chắp tay sau lưng đi đi lại lại, nghĩ bối rối nguồn cơn. Mỗi đứa học trò có một cái miệng để nói truyện bô bô…. Chốc nữa năm xóm làng Nha, ai cũng nghe rõ ràng như thế. Anh sẽ nổi tiếng là tay chơi. Thằng Cử, thằng Chân hai đứa cháu cô Miến cũng học ở đây…” Tô Hoài nhận xét tài tình từng thái độ tâm lý chuyển biến. Hình ảnh, tưởng tượng dồi dào, lối kể chuyện tế nhị lại có duyên. Người đọc nhận ngay thấy cách lập mưu của tác giả đưa ra chưa dứt, giận hờn này sẽ mang đến bao đổ vỡ khác. Bây giờ tác giả bỏ lửng câu chuyện ấy, làm người đọc có độ lắng nhớ nhung. Để chuyển sang trạng thái khác. Hoàn cảnh nhà giáo đồng nghiệp, nghèo, bạc đãi, bị khinh rẻ; yếu tố bọn sinh ra chữ và phổ biến chữ làm sao tránh nổi dưới một chế độ, dù là chế độ nào vẫn miệt thị chiến sĩ bất vụ lợi hy sinh có thừa ấy; nhìn về tương lai huy hoàng hiện tại thân mình bệ rạc! Tô Hoài còn nói điển hình nghèo, nào riêng Câu mà toàn diện thứ bậc cùng hoàn cảnh:

“…Nhà ông giáo Hoạnh có ba gian. Một gian bên kia có cửa đi vào. Đây là buồng vợ ông giáo, nằm với đứa con nhỏ. Trong ấy còn để đồ đạc quý báu gì nữa thì không biết, vì lúc nào cũng tối om om. Bước vào mùi đất mốc xông lên lạnh rợn người. Gian giữa một cái phản mà chồng vừa làm chỗ ngủ của thằng Biên, cái Giá hoặc chính của nhà giáo…. Có mấy ông đồ rau gạch vỡ ngồi ngơ ngác trong mấy đống gio tàn. Vài chiếc nồi treo rải rác ở mấy hốc cột. Dưới mặt đất ẩm, vô khối cụ cóc ngồi châu hẩu thỉnh thoảng lại tép lưỡi bắt ruồi. Có một điều lạ. Nhà này vốn là nhà ông giáo Hoạnh. Phải. Vậy mà đố ai bới đâu cho thấy được một cuốn sách hoặc một lọ mực…”

Đó là Tô Hoài châm biếm sâu độc chế độ chính trị thực dân Pháp đẻ ra sản phẩm như ông giáo Hoạnh. Ông đánh dấu hỏi nhà này ông giáo Hoạnh. - Phải, chính hình tượng này đã vạch rõ nghèo đói đến bi thương khốn nạn cùng cực cuộc đời nhà giáo; thiếu tiền mua sách, bởi không đủ tiền mua gạo. Hình ảnh bi thương chán chường khắc khoải, nữa, mấy chú cóc cụ ngồi châu hẩu tép lưỡi đớp ruồi. Cảnh tiều tụy ấy, Tô Hoài chỉ tả tượng trung, ẩn thể lên án xã hội; đến như vậy là cao độ nghệ thuật bút pháp nhà văn.

Giáo Hoạnh đã nghèo rồi lại mất việc dạy học, phải dọn nhà đi nơi khác. Một buổi, Câu sang thăm về giữa đường gặp người yêu. Tâm trạng Câu bị xâu xé dày vò. Cuộc gặp gỡ Miến ở hoàn cảnh thuận tiện, ngàn năm một thuở, làm sao Câu dám bạo dạn để khơi lời tạ lỗi? Nếu lần này không tỏ lộ để qua đi, rồi thì Câu sẽ mất mối tình vĩnh viễn. Tất cả lo âu ấy được Tô Hoài diễn lại:

“…Bởi anh vừa cười để tự nhạo mình. Vợ con. Có bao giờ Câu dám nghĩ đến chuyện vợ con! Nhất là từ khi ái tình của chàng và Miến phai lạt. Lạt phai vì những duyên cớ mỏng manh không đâu? Bây giờ thì...

Đằng trước không có ai. Bây giờ Câu mới đi qua hết làng Thượng. Chỉ thấy cái mẩu đầu cầu Phượng trăng trắng bắc ngang qua dòng sông Lịch. Câu quay lại.

Có một bóng người đi đằng sau. Dáng cao cao, tha thướt của người đàn bà. Hình như sợ tối và vắng vẻ, người ấy đi rất nhanh sắp kịp Câu. Đến lúc nghe phía sau lạt sạt tiếng bước đụng của đôi quần ống, Câu quay lại. Và Câu trố cả hai mắt ra. Người đàn bà ấy là cô Miến…

- Cô Miến.

Miến nhìn quay lại. Rồi Miến ve vẩy đi ngay. Nhưng câu hỏi thứ nhất đã ra khỏi miệng. Vả lại cứ gọi. Cứ nói đã sao? Dù Miến có giận cũng chẳng chết cơ mà?

- Lại tôi hỏi nhờ cái này tí, cô Miến?

- ……

- Tôi hỏi…

Miến đứng và Miến quay lại. Ôi chao! nào Câu biết hỏi gì lúc này bây giờ. Vừa rồi nhà giáo đã chỉ có gọi liều một câu lăng nhăng đấy chứ? Nhưng may quá, Miến lại nói trước, nói rằng:

- Bác lại còn hỏi tôi làm gì nữa?

Câu ngẩn ngơ:

- Ô hay Miến giận tôi thật đấy à?

- Nào tôi có dám giận bác đâu?

- Sao Miến lại gọi tôi như thế? Tôi có làm gì để cho Miến giận đâu?Mấy tháng giời nay tôi vẫn mong Miến đến chơi để tôi… Thực anh ta mới nói được mấy câu khéo quá. Hình như Miến đã bớt giận ngay. Miến đứng yên hai tay vân vê lăn tròn cây mía. Khiến câu chú ý đến. Câu hỏi:

- Miến mua mía ở đâu thế?

- Trên chợ.

- Miến đi chợ tối thế hử?

- Không, đi qua chợ thì mua.

- Miến đi đâu về thế?

- ………………………………….

- Miến?

- ……….

- Tôi xin lỗi Miến.

Miến nức nở khóc thành tiếng. Nước mắt chan hòa xuống hai bên má. Nàng lấy giải yếm che mặt, rồi khe khẽ nói:

- Mấy tháng giời nay tôi nghĩ ngợi đau đớn về cậu. Ai lại chơi bời thế bao giờ? Cậu có yêu tôi đâu?

- Miến đừng nói thế oan tôi. Thực quả tôi…

Câu khẽ cầm tay Miến, Miến ngoái đi. Nhưng ngoái khẽ cho là có việc – mà bàn tay mình vẫn nằm trong bàn tay bạn – Và miệng nàng mỉm cười…”

Mối tình tuy chưa thành tựu, Câu vẫn chưa bao giờ dám nghĩ đến. Chung qui vì nghèo, nghèo bị bóc lột do chế độ chính trị áp bức và bị tước thặng dư giá trị. Câu nhìn cảnh vợ con bạn như Hoạnh, tự làm khổ mình, lại mang cả hình hài nghèo khổ của vợ con tròng vào cổ. Tô Hoài cho nhân vật Câu sống bằng lý tưởng, mơ mộng. Đoạn văn dưới đây tả cậu giáo được cô Miến tặng cho một bọc giấy gói nho nhỏ. Chao ôi! Nói sao hết nỗi lòng Câu yêu cô Miến lúc ấy, qua ngọn bút tài hoa không ai có thể viết giống như Tô Hoài:

“...Giáo Câu mở cái bọc giấy. Một sợi chỉ se bằng mấy dặm tơ vàng buộc chéo ngang bốn góc. Tờ giấy mở ra. Nhà giáo thấy một cái khăn mùi soa rất đẹp, rất quý và một lọ nước hoa bọc giữa chiếc khăn. Xung quanh bốn bề viền xun xoăn những sợi chỉ bóng nhoáng và hồng hồng. Mấy chiếc lá xanh tươi, một chiếc nụ, một cái hoa đỏ rực rỡ. Đưa lên mũi, thoảng trong khăn có mùi hoa thơm thơm. Còn lọ nước hoa, lọ nước hoa nhỏ xinh bằng gai ngón tay chụm một. Màu nước vàng, ngoài lọ dán mảnh giấy bạc. Cầm trong mấy vật báu của người yêu gửi tặng, Câu sung sướng bâng khuâng, đờ đẫn cả người, đầu óc rối beng, không biết nghĩ ngợi thế nào. May anh ta mới nghĩ được một câu rất dễ dàng rằng:

- À nước hoa, khăn mặt của Miến sú-vơ-nia đấy.

Đêm ấy, tám giờ tối, giáo Câu đã mắc màn đi nằm. Anh mang cả chiếc khăn mặt và lọ nước hoa vào màn. Cái khăn mùi soa phủ kín lên mặt. Anh nằm say sưa lơ mơ. Cứ thế, vui ngủ quên lúc nào không biết…”

Dòng viết kỷ niệm Tô Hoài tả trên đây gây cho người đọc niềm vui lâng lâng bề ngoài, nhưng đau đớn ngấm ngầm. Chỉ vì nghèo, nuôi mộng nghèo, hình ảnh đáng thương kiếp người nghèo phản ánh trong văn chương. Phải có giọng văn căm thù mới kích thích chống Pháp được! Tô Hoài còn dẫn người đọc bị kích thích lòng căm phẫn ấy, ở giai đoạn cuối:

“…Câu nhìn xuống. Từ nãy, Câu vẫn thấy Miến thu thủ cái gói gì trong bọc áo. Ra cô Miến thu thủ cái gói kẹo dừa kẹo lạc. Nàng lấy trộm một ít cho người yêu sơi chút quà Hà Nội…”

Miến ra Hà Nội và đi làm. Câu đi Hà Nội thăm. Tô Hoài cần kết thúc chuyện tình gái quê dẹp đợi chờ cậu giáo nghèo vì không bao giờ cưới nổi vợ. Hà nội dẫn dụ người thôn quê đến đây sẽ bị vứt vào trong hai hoàn cảnh. Một là tâm hồn biến thể theo đòi lối sống đô thị. Hai là nhìn rõ sa đọa thị thành, tim óc vẫn dắn như đồng. Ở đây Tô Hoài áp dụng trường hợp một, vì đối với Miến mới gây nổi sự căm thù ấy:

“…Năm nay cô ả sắp lấy chồng cậu giáo ạ!

Câu nhỏm dậy:

- Lấy ai hở bác?

- À lại cái món khách ấy. Em chú Sủi…”

Tô Hoài không cần cho người đọc biết kết luận nữa; bởi “cùng tất biến, biết tất thông, thông tất đạt…”

Với cảnh trạng Câu, thì:

“...Buồn hơn nữa, bụng nhà giáo đã hơi đoi đói. Trong túi còn độ bốn hào. Song không kiếm thấy hàng phở. Đêm đã về khuya. Hai vai áo the của Câu ẩm ướt và lạnh ngắt. Không nghỉ, anh cứ đi bạt mạng ra ngoài thành phố. Từ giờ đến sáng mai bao giờ về đến Hạ Nha thì về. Một mình một bóng đi thui thủi. Trên đầu có ông giăng đi theo…”

Nghèo khổ, thất tình, không phải người tình phụ bạc, chỉ vì hoàn cảnh, thế lực đồng tiền làm tan nát mộng lập gia đình. Tô Hoài còn gây căm thù tột đỉnh. Và Câu nhớ đến thư người bạn cũ cùng dạy với Câu, cậu mong bạn tìm việc. Nhưng đợi chờ chỉ vẫn bặt vô âm tín….

Sống dưới chế độ mất tự do, tình yêu, cả hy vọng, sự sống là thừa; chỉ còn đưa đến làm cách mạng. Và tháng tám 1945 đó là Ngày Lớn.

Kết Luận.

Tô Hoài viết truyện ngắn đặc sắc hơn truyện dài, tuy nhiên so văn nghiệp tài năng tác giả, cả hai như đều sở trường. Hầu hết tác phẩm ngắn dài đều nói đến đời sống dân của dân tộc nô lệ. Tô Hoài viết tiểu thuyết giáo dục, mở mang chí phiêu lưu tìm kiếm chân trời, như trong Dế mèn phiêu lưu ký. Vũ Ngọc Phan nhận định về Tô Hoài:

“...Tập O chuột là một truyện ngắn đầu tiên của Tô Hoài và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho lối văn đặc biệt của ông, một lối văn dí dỏm, tinh quái, đầy những vị, màu sắc của thôn quê. Cái tình và cái lẽ phải thực ở lẽ gặp nhau ở chỗ này. Truyện loài vật của Tô Hoài thấp hơn loài người. Trong loài người cũng có hạng gần như loài vật…”

Vũ Ngọc Phan nói đến thế là hết, lẽ ông dám bạo dạn tố cáo người sống thấp hơn vật khi đọc truyện Tô Hoài. Làm sao ông dám phê bình, phân tích tác phẩm, so sánh hoàn cảnh chính trị xã hội thời ấy. Nên đành câm nín mà chỉ dám vào đầu bằng câu như vừa trích trên.

Dưới chế độ bóp chẹt tự do sự cấu tạo tác phẩm chỉ là sự phản bội của phản bội sự thực biểu hiện ngoài đời sống. Sự ngăn cản nghệ sĩ sáng tạo, tất nhiên sẽ có muôn ngàn biểu hiện khác chống đối. Tô Hoài, nhà văn cao trọng có chiếc chiếu riêng như: Nguyễn Tuân, Khái Hưng, Nguyễn Đức Quỳnh. Nguyễn Đình Lạp, Trương Tửu, Nguyễn Công Hoan, Thụy-An Hoàng Dân, Vũ Trọng Phụng... – và không một ai thay thế được ông !(76)

Tiết 4

ĐIỂN HÌNH TẢ CHÂN PHONG KIẾN:

NGUYỄN CÔNG HOAN

(1903 -1977)

Tiểu Sử.

Sinh ngày 8-2-1903 tại Xuân Cầu, Bắc Ninh. Tốt nghiệp Sư phạm, sau chuyên viết chuyện tả chân phong tục, nói về giai tầng thứ bậc giàu nghèo trong xã hội. Là nhà văn nổi tiếng tiền chiến đồng thời với Lê Văn Trương, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đức Quỳnh, Khái Hưng, Nhất Linh... Tác phẩm đã xuất bản: Thanh Đạm (1933), Lá ngọc cành vàng (1934), Cô Giáo Minh (1936), Tắt lửa lòng (1936), Tấm lòng vàng (1937), Tơ vương (1938), Bước đường cùng (1938), Tay trắng trắng tay (1940), Chiếc nhẫn vàng (1940), Nợ nần (1940), Trên đường sự nghiệp (1941), Tranh tối tranh sáng (1946), Ép duyên (1948)... và truyện ngắn truyện dài đủ cả, như Những cảnh khốn nạn, Kép Tư Bền, Sóng vũ môn v.v.

Nhà văn tả về giai cấp phong kiến, đôi khi cho nhân vật nghèo nàn có chí lớn như trong Tắt lửa lòng, điển hình ở loại này phải kể đến tác phẩm trên. Trong Thanh Đạm, tả về thời quan lại đê hèn nô lệ Pháp, nhưng trong số ấy có một quan điển hình trung thực thanh liêm; mà tác giả cho rằng như thế là cảnh tỉnh kẻ khác.

Cứ như chứng minh trên hoặc hầu hết văn phẩm Nguyễn Công Hoan, thì ông là kẻ chỉ muốn xét lại, cải cách hơn là phiến loạn; chưa thể gián tiếp thúc đẩy tư tưởng cách mạng như Tô Hoài.

Cô Giáo Minh, nàng thiếu nữ cấp tiến yêu chồng vì bổn phẩn, nhưng thực ra không yêu chồng đúng nghĩa; mà hướng về tình nhân lý tưởng. Cũng vẫn là thái độ cải cách gia đình. Cuốn sách bị báo chí lên án là đạo văn từ Đoạn Tuyệt của Nhất Linh.

Tấm Lòng Vàng, loại truyện giáo dục rèn chí khí chịu đựng của bước đầu gian nan; có báo hiệu tương lai tốt đẹp. Vũ Ngọc Phan phân tích loại truyện này, dựa vào thực trạng quá thật; nên ông đả kích phần hướng thượng tác giả: “...Văn học sử Việt Nam ai cũng làm được công việc ấy, làm gì có báo khen tặng hàng cột dài...” Tổng thể nhận định, Tấm Lòng Vàng là cuốn truyện giáo dục giá trị cho lớp người mai hậu; cũng như phản ánh chất liệu thời niên thiếu tác giả. Tâm tưởng khắc khoải, tự lập, tình tiết phấn đấu trong Tấm Lòng Vàng chung cảnh với Nguyễn Công Hoan, có Nguyễn Đức Quỳnh qua bộ Thằng Cu So, Thằng Phượng, Thằng Kình.

Lá ngọc cành vàng, truyện tình giai cấp giữa giàu nghèo, thanh niên nghèo yêu con gái giai cấp phong kiến, rồi đành chịu bó tay trong cảnh nghèo không dám bước lên cao. Tất nhiên, kết luận bao giờ cũng là tan vỡ.

Tiền chiến, Nguyễn Công Hoan là nhà văn điển hình cho lối tả chân phong kiến, chống bất công xã hội nhưng chỉ là cải cách, xét lại. Ông là nhà văn có giá trị tiêu biểu ở khuynh hướng trên.

Phê bình ông; có Vũ Ngọc Phan rồi đến Thái Phỉ... Ở đây chỉ trích dẫn nhận định Thái Phỉ trên báo Tân Văn.

Thái Phỉ cho Nguyễn Công Hoan phải được phê bình, đúng nên mượn câu nói của Musset nói về vở kịch Misanthrope của Molière: “...Cái vui hùng tráng ấy buồn thảm sâu sắc đến nỗi rằng ta vừa cười xong lại muốn khóc liền...(77)

Tiết 5

ĐIỂN HÌNH TIỂU THUYẾT TRƯỜNG GIANG

LÊ VĂN TRƯƠNG

(1893 – 1964)

Tiểu Sử.

Sinh năm 1893, nhà văn nhiều tuổi bậc nhất trong số nhà văn tân học, đã sản xuất số truyện kỷ lục nhiều nhất Việt Nam. Có thể nói rằng ông mở xưởng viết như một giòng họ Alexandre Dumas ở Pháp vào thế kỷ trước. Ngoài đời, ông đã mở xưởng viết ở Láng, thu thập tác phẩm anh em sửa lại và ký tên Lê Văn Trương, đồng thời trả tiền công cho họ. Có như vậy, các nhà xuất bản khi ấy ở Hà Nội mới nhận in và ký tên ông sách bán mới chạy. Tư liệu này, tôi viết theo Dự Nhượng, cộng tác vai em với ông, sau chủ trương báo Thanh Niên Hà Nội. (1952 –1953). Lê Văn Trương mất trong sự nghèo đói ở Sàigòn năm 1964.

Nói đến tác phẩm chính của ông, như: Trước cảnh hoang tàn (1934), Đứa cháu đồng bạc (1939), Tôi thầu khoán (1940), Một tội ác (1941), Một cuộc săn vàng (1941), Đầu bạc đầu xanh (1942), Hai người bạn (1942), Kẻ đến sau (1942, Bóng hạnh phúc (1942), Sau phút sinh ly (1942), Sợ sống (1942), Cô Tư Thung, Một Người, Một người cha, Trong ao tù Trưởng giả, Tôi Và Mẹ, Ngựa đã thuần mời ngài lên yên. Cánh sen trong bùn, Một lương tâm trong gió lốc, Hận nghìn đời, Trường đời, Bốn bức tường máu, Tôi là mẹ, Người vợ lý tưởng, Người chồng lý tưởng, Ái tình muôn mặt, Người vợ thứ năm, Chặt xích, Cô nàng Mường Koòng, Nợ giết người, Ba ngày luân lạc, Những thiên tình hạn, Kẻ si tình, Cánh tay, Con Đường đốc, Đồng tiền xiết máu, Tình trẻ lòng già, Trận đời I, II, III v.v. Thành thật mà nhận chúng tôi không thể đọc hết tác phẩm của ông. Và chỉ hai chục cuốn có thể là tiêu biểu. Và tác phẩm của ông nằm trong đề mục khêu gợi tình ái, mạo hiểm, du lịch... mang tâm trạng nhân vật anh hùng rơm. Từ Trận đời của buổi gặp gỡ trên xe đi Cao Miên, mở cuộc buôn bò, chàng gặp thiếu nữ, bằng cách nàng tát chàng một cái, vì thái độ vô lễ của chàng, rồi yêu, rồi chàng lại lập đồn điền ở gần ngay nhà nàng…. Thôi thì đủ hết tình tiết éo le, gây cấn; mà chẳng dựa vào đâu mà để gọi là xây dựng nhân vật tiểu thuyết cả hợp lý hợp tình.

Lan Khai, Vũ Ngọc Phan các tác giả viết về Lê Văn Trương (riêng Lan Khai viết thành sách) phân tích tỷ mỷ. Bạn muốn hiểu xin đọc tác giả ấy. Còn chúng tôi chỉ nhận định tổng quát, Trường Đời có thể gọi là truyện điển hình văn nghiệp của ông. Với Francois Giáp, Khánh Ngọc, Khang quay cuồng trong pha tình ái phiêu lưu, ái tình giai cấp, trọng triết lý hành động (philosophie empirique); tất nhiên là anh hùng rơm thì căn cứ trên hành động; và Khánh Ngọc chán người tình kỹ sư mới ra trường khi chạm thực tế; sau theo người yêu lý tưởng! Khang. Khang, con người thành thạo việc đời như nắm chìa khóa trong tay mở định lý đời qua các mặt chìa khóa. Song Lê Văn Trương có giọng văn hấp dẫn, lôi cuốn say mê người đọc. Không ai chối cãi được một khi đọc xong truyện; thì độc giả sẽ trụy lạc theo tác giả, tác phẩm chẳng có lập ý cao, hướng thượng; hai biết tác giả chẳng có lập ý nào kết luận.

Đọc truyện Lê Văn Trương để giải khuây, thay cho những phút đi xem phim cao bồi bắn súng trên màn ảnh, với cốt truyện có Gary Copper đóng vai chính chẳng hạn.


PHẦN A

NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN CHỦ LỰC
1945 - 1950

ĐẶT ĐÚNG VẤN ĐỀ VĂN NGHỆ KHÁNG CHIẾN

Hoàn cảnh chính trị.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh năm 1945, quân đội Anh có nhiệm vụ sang bán đảo Đông Dương để tước khí giới Nhật từ vĩ tuyến 17 trở về Nam. Và quân đội Trung Hoa phụ trách từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc. Lợi dụng hoàn cảnh thuận tiện, Pháp đem quân đổ bộ lên Sài Gòn theo chân tướng Cédille. Và tướng Gracey của Anh quốc cố tình giúp Pháp tái lập chế độ thực dân ở nước ta. Lợi dụng chính sách cướp lại thuộc địa cũ mà không mất một viên đạn nào. Ý định này được tác giả Sainteny viết lại trong cuốn Histoire d'une paix manquée (tạm dịch : Lịch sử cuộc hòa bình hụt)(1). Do đó có sự kiện ký thỏa hiệp sơ bộ 6–3–1946. Đối với Leclerc chỉ là thái độ lặp lại chính sách thực dân lỗi thời; mà Pháp tin rằng sau thời kỳ đại chiến, Việt Nam vẫn là mảnh đất thuộc địa ngon lành. Và sau ngày 19–12–1946, Pháp lại sai nhà chính trị Moutet sang cứu vãn hòa bình, ông này tuyên bố : “... Chúng ta phải dùng quân sự cho đến khi nào quân đội Pháp đem lại được an ninh trật tự, thì lúc ấy mới đề cập đến vấn đề thương thuyết chính trị...”.

Khi Pháp đổ bộ vào Việt Nam cho đến những ngày cuối cùng của năm 1955, thì cái gọi là Chính phủ Quốc gia chỉ là bù nhìn, được lồng trong mỹ từ Liên hiệp Pháp. Chủ quyền quốc gia nằm trong tay các thượng tướng, đầu tiên là Leclerc, d’Argenlieu, De Lattre de Tassigny... và đặt dưới quyền chỉ huy tối cao của Bộ Thuộc địa Pháp. Ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông Hồ Chí Minh lên đăng đàn ở Nhà Hát Lớn kêu gọi các đảng phái liên kết lại, phần cá nhân chính trị của ông, giã từ hẳn chủ nghĩa Mác xít. Đó là Ngày lớn, khởi sự cho cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam. Tinh thần kháng chiến Việt Nam thần thánh và thiêng liêng như cuộc cách mệnh 1789 của Pháp. Và ý nghĩa như cuộc kháng chiến chống Nhật thành công của Phi Luật Tân, Nam Dương chống Hòa Lan 1948 vậy.

( .................................................................................................. )

Văn nghệ kháng chiến.

Cuộc kháng chiến vĩ đại này được phản ánh trong văn chương là lẽ đương nhiên và từ đó có bình diện văn nghệ kháng chiến. Và phân hạn của bình diện văn nghệ kháng chiến này mất thực chất từ 1950, khi ông Mao Trạch Đông đuổi được Tưởng Giới Thạch ra khỏi lục địa, thành lập Cộng hòa nhân dân Trung hoa từ 1950. Từ ngày ấy, Trung hoa, Liên Xô và các chư hầu đều thừa nhận chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ít ngày sau, ông Trường Chinh lên đăng đàn ở chiến khu Việt Bắc về vấn đề văn nghệ cần phải thay đổi, hướng tới văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa và ông Nguyễn Mạnh Tường vào trong Liên khu Bốn họp văn nghệ phản hồi nhẹ nhàng gọi đó là văn nghệ một chiều. Vậy văn nghệ theo hướng mới của ông Trường Chinh là gì? Cũng là bản sao nhỏ chép theo đường lối văn nghệ Mác xít Liên Xô. Nói qua về đường lối văn nghệ chỉ huy của Xô Viết vài hàng, người đứng đầu là Jdanov, Ủy viên bộ Chính trị, đặt vào khuôn phép kể từ 1946; nên sự xê dịch chuyển biến văn nghệ kháng chiến Việt Nam sang văn nghệ hiện thực, mà người thực hiện cho bằng được là Tố Hữu.

Mở đầu cho nền văn nghệ kháng chiến vào năm 1946, sách, báo cũ trước 1945 bị loại bỏ. Cửa hàng mới bầy những tập văn mang nặng luận đề văn nghệ Mác xít, chống lại ý thức hệ cũ. Trong giai đoạn này, cần phải viết ngắn, gọn, càng ngắn bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu ; cốt truyền cảm, dễ cảm, dễ hiểu. Nên một Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh của nhóm Xuân Thu Nhã Tập (tiền chiến), đã phải ly khai với lối thơ bí hiểm như Mầu Thời Gian, Người Xuân... để rồi Nguyễn Xuân Sanh lột xác, tiến tới làm thơ lục bát Làng nghẹt trong rừng đêm. Đó là thơ lục bát cải tiến trong kháng chiến gọi là bình cũ rượu mới; vì thơ lục bát hết sức gần gũi, quen thuộc với anh em chiến sĩ, đồng bào kháng chiến, lúc cao hứng có thể ngâm sang lối cò lả, vừa làm vừa hát. Một Nguyễn Tuân trút khỏi lớp áo Vang Bóng Một Thời, tác phẩm của thời vàng son, tác phẩm của nỗi u uẩn; nay khép mình đi vào thực tiễn cuộc sống với văn hiện thực tranh đấu trong tạp văn Gió Lào. Đó là thiên tạp bút thật truyền cảm, đề cao nhẫn nhục, chịu đựng gian lao kháng chiến. Hoặc Hoàng Cầm, với thi kịch bốn màn mang tựa đề Kiều Loan, vở kịch đặc sắc nói lên thời anh dũng của sự chống đối vua Gia Long, đề cao triều đại anh hùng áo vải Quang Trung. Ông còn nổi tiếng với bài thơ thật hay, xúc động Bên Kia Sông Đuống; một cách viết thơ canh tân trong thời kỳ gọi là cách mạng giữ nước, đuổi quân thù. Rồi Văn Cao, từ nhạc, qua họa, lại từng qua thơ thời tranh tối tranh sáng kháng chiến, với bài thơ Chiếc Xe Đi Qua Phường Dạ Lạc, tả cảnh quân Nhật dùng lúa chạy máy điện, phá ruộng lúa trồng đay, gây cảnh đói tàn khốc chưa có trong lịch sử dân tộc Việt Nam với nạn đói năm Ất Dậu, người chết đầy đồng, đầy đường và đầy phố xá. Và Văn Cao còn nổi tiếng với ca khúc cách mạng Trường Ca Sông Lô... Những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến, như Hữu Loan với bài thơ Mầu Tím Hoa Sim đầy tình yêu vợ con, gia đình chan hòa với tình yêu đất nước. Hình ảnh chàng Vệ Quốc thật đẹp lạ thường ! Đến Hoàng Lộc, một chiến sĩ văn tài hoa căm thù thực dân xâm lược, tiễn chân bạn đến nơi an nghỉ cuối cùng trong bài thơ năm chữ Viếng Bạn. Và còn bao nhiêu chiến sĩ làm văn nghệ trở thành người viết văn, làm thơ tài hoa nổi danh như Chính Hữu, Tất Vinh, Hồng Nguyên, Trần Hữu Thung; có thơ còn khẳng định sỏi đá cũng thành cơm như Hoàng Trung Thông v.v... Qua loại hình văn, chiến sĩ ngành y, bác sĩ quân y Nguyễn Trinh Cơ với truyện Em Ngọc, đề cao lòng yêu nước một em bé chiến đấu rất dũng cảm, hoặc truyện của Đình Quang, Hà Minh Tuân, Phùng Quán, Trần Dần, Siêu Hải ... Và trong số ấy đặc biệt một nhà thơ có nhiều bài thơ hào hoa, một thứ lãng mạn cách mạng được viết ra đầy xúc động là Quang Dũng, với Quán Bên Đường, Cô Gái Sơn Tây, Lính Râu Ria, Tây Tiến v.v...

Năm năm qua thật nhanh, văn nghệ kháng chiến đổi chiều hướng sang hiện thực. Đưa văn nghệ vào khuôn, gọi là nền văn nghệ chỉ huy Mác xít như Jdanov thực hiện ở Xô Viết từ năm 1946. Trường Chinh đọc bài diễn văn khai mạc tại hội nghị văn Chủ Nghĩa Mác với nền văn hóa Việt Nam, là bằng chứng hiển nhiên và có thực để phục vụ cái gọi là trường kỳ kháng chiến. Ở Xô Viết, khi Jdanov vung roi quất vào nền văn chương, thì những nhà văn thơ thuần túy văn nghệ vị nghệ thuật như nhà văn M. Zochenko, nhà thơ Akhamatova... những con vật tế thần lên dàn hỏa của nền văn nghệ Mác xít Xô Viết. Nhà lãnh đạo mở các lớp chỉnh huấn để giác ngộ các nhà văn thơ thuần túy văn nghệ học hỏi, ở Việt Nam bước vào giai đoạn các nhà văn thơ Nga phải đi, vào những năm từ 1928 đến 1932, lần lượt tiến tới các đợt 1946, 1947, 1948. Thái độ bóp nghẹt văn nghệ kháng chiến trăm hoa đua nở, xiết lại để kiến tạo nền văn chương vô sản vững mạnh – khi đã nhìn thấy những đợt xì hơi bất mãn đã tung ra lò, và cũng là cách tưới nước vào đám tro tàn vừa dập tắt. Một Tố Hữu được đặt vào Hội Văn Nghệ Việt Nam (VNDCCH) điều khiển cơ cấu tổ chức các hội nhà văn, thơ và đặt nền móng cho nền văn chương hiện thực vững mạnh. Phái Hàn Thuyên.

Thời tiền chiến, phe áp dụng duy vật biện chứng để sáng tác (Nguyễn Đức Quỳnh), duy vật sử quan biên khảo (Nguyễn Đức Quỳnh, Trương-Tửu-Nguyễn-Bách-Khoa, Đặng Thái Mai (2), Lương Đức Thiệp, Nguyễn Hải Âu v.v... tạo cho con người máy móc của Cộng sản về sau này làm bàn đạp. Từ 1950 trở đi, nhóm Hàn Thuyên bị phân tán, một theo phe đệ tam nắm chính quyền như Đặng Thai Mai. Còn phe nữa vì không được dùng, hoặc vì thực tâm còn chống đối, như Trương-Tửu-Nguyễn-Bách-Khoa chẳng hạn. Vì vậy, Trường Chinh không thu nhận Trường-Tửu-NBK, Nguyễn Đức Quỳnh – cho rằng Trường-Tửu-NBK viết sách biên khảo, như cuốn Nguyễn Công Trứ không phải là duy vật sử quan chính thống của Mác, mà áp dụng vào cách nhìn tổng hợp Freud và Marx (freudo-marxisme). Cho nên Trường-Tửu-NBK chỉ được nhìn như một Voronsky Việt Nam làm thí nghiệm văn hóa cho phe đệ tam cầm quyền. Đưa Mác xít và phân tâm học vào trong tác phẩm Thằng Kình, Thằng Phượng, Thằng Cu So, chẳng mấy khác với cách nhìn của lý thuyết gia Pháp, Jean Audard. Hoặc một đại lý thuyết gia Nga Plékhanoff đã hết sức đả kích, tương tự lý thuyết gia Pháp Politzer, cũng cho rằng thể hiện như vậy sẽ phân tán chủ nghĩa Mác, làm mất sự chính thống. (orthodoxie marxiste) Nên sáng tác và biên khảo của Trường-Tửu-NBK và những nhà văn trong nhóm Hàn Thuyên (trừ Đặng Thái Mai, Nguyễn Đình Lạp, Đồ Phồn) đều bị coi như không thích hợp. Hai nhà lý thuyết Plékhanoff và Politzer còn giải thích thêm rằng : “sự tổng hợp freudo-marxisme của phe tả, còn cộng thêm lý thuyết duy tâm của Taine, duy vật quá trớn của Freud, không thể dung hợp với duy vật sử quan của Marx”, mà họ coi là lý thuyết gia đúng mức và toàn diện nhất.

Phái Tự Lực văn đoàn.

Phái này đối với phe đệ tam cầm quyền không là thế lực nào phải e ngại. Tự Lực văn đoàn đã bị phân tán kể từ năm 1941, khi Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long) bắt đầu mất thế đứng, không còn viết lập trường thường xuyên đăng trên báo của nhóm nữa. Vì chính linh hồn của Tự Lực văn đoàn do Hoàng Đạo nắm và đặt nền tảng. Và những Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam ... đem lý luận vào văn chương, cũng như Thế Lữ trụ cột chính đem vào thơ.

Giai đoạn cuối của Tự Lực văn đoàn còn lóe sáng vào những năm nhật báo Việt Nam, tạp chính Chính Nghĩa còn xuất bản vào giai đoạn 1945–46. Đến khi Nhất Linh bỏ ghế Ngoại giao trong chính phủ Liên hiệp sang Nam Kinh (Trung Hoa) cùng với 50 ghế đại biểu của Việt Nam Quốc Dân Đảng ; thì coi như vai trò chính trị VNQDĐ và Tự Lực văn đoàn chấm dứt. Một số nhà văn, thơ cộng tác với TLVĐ có thể đầu hàng cộng sản (cũng như đua đòi) như Thế Lữ, Tú Mỡ v.v...

Các nhà văn bị đưa đi học chỉnh huấn và lột xác.

Tờ báo Bolchévich bên Nga lên án hai nhà văn thơ M. Zotchenko và Akhamatova ... tiếp theo bị trục xuất khỏi nghiệp đoàn văn sĩ Xô Viết, thì Akhamatova ... Chủ tịch Hội đồng Nhà Văn Trung Ương lập tức bị thay thế, với lý do để cho Hội Văn nghệ ở Léningrad in và phát hành tác phẩm của hai nhà văn trên. Rồi M. Zotchenko được đưa đi học lớp chỉnh huấn và được tái gia nhập hội, và Akhamatova bị đưa đi cải tạo ở Sibérie, còn Tikhonov được tưởng hưởng huy chương Lénine. Trong số những nhà văn nghệ học lớp chỉnh huấn đạt điểm tiến bộ như Zotchenko, còn các nghệ sĩ khác như Muradeli, Profokiev, Shostakovitch vv và vv... Thì ở Việt Nam vào năm 1957, khai mạc thành lập Hội Văn Nghệ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một thư đọc trước hội nghị, có đoạn :

“... cán bộ chưa có lập trường vững chắc, tư tưởng chưa thông suốt ...”

Và các nhà văn nghệ, như Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Xuân Khoát, Tô Ngọc Vân, Xuân Diệu... tham dự chỉnh huấn. Như Nguyễn Tuân phải tự bạch về nhân thân và xuất thân từ gia đình ông Tú khoa thi chữ Hán cuối cùng, chịu ảnh hưởng truyền thống gia đình ; cá nhân mình nhiễm cuộc sống phóng túng đưa đẩy, thích tiêu dao tuế nguyệt, thừa nhận Vang Bóng Một Thời là thứ hàng hóa văn chương vô trách nhiệm. Trích một đoạn văn lột xác của chính Nguyễn Tuân bộc bạch :

“Trong “Vang Bóng Một Thời” tôi đã đứng về phe phía bọn ăn bám bóc lột thống trị nộng dân lao động mà đưa ra một cái nhân sinh quan phản tiến bộ của bọn quan lại địa chủ tiêu dao hưởng lạc bất lực trước nhiệm vụ lịch sử. Nhận vật “Vang Bóng Một Thời” của tôi tiêu biểu đầy đủ cho tư tưởng phong kiến địa chủ, quan liêu. Tôi không có ruộng đất, tôi không trực tiếp bóc lột nông dân lao động, nhưng sáng tác của tôi đề cao lề lối sống, đề cao uy thế chính trị địa chủ quan lại. Tôi đem tất cả những cái gì đẹp đẽ nhất để tô điểm cho bọn bóc lột áp bức.

Truyện dài “Quê hương” in năm 1943 là một tội lỗi nữa về sáng tác. Cái mà tôi định ca ngợi ở đây vẫn không ngoài cái tư tưởng tiêu dao của phong kiến. Căn bản của nó vẫn là cái tư tưởng hưởng lạc, nhưng ở một khía cạnh khác.

Tôi sang một tập khác tiêu biểu cho cái cá nhân chủ nghĩa đến cao độ của tôi. Tập “Nguyễn” in sau ngày Tổng Khởi Nghĩa. Nguyễn là nhân vật duy nhất của tập truyện. Tôi tự suy tôn qua mọi hành động ích kỷ và tàn nhẫn kiêu bạc của Nguyễn. Nguyễn cho sống là thể hiện cái cá nhân mình là dựa cái cốt cách phong kiến suy tàn của mình vào con đường phiêu lưu chủ nghĩa siêu nhân của Nietzsche và con đường cá nhân phiến loạn hành động không lý do của Gide. Nguyễn cho cuộc đời nghệ sĩ là đứng trên cái thiện ác của sự sống hàng ngày.

Tôi tự truyền thân cái thối nát và phá hoại đó vào tập Nguyễn, tự cho mình là một người hùng dám phủ nhận và đập phá cái trật tự xã hội, bây giờ, tự dối mình là cho tâm hồn vẫn thanh cao mặc dầu thân thể tẩm vào bùn nhơ của rượu, thuốc phiện, dâm ô. Nhờ ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lê của đảng mở mắt cho thấy rõ ý nghĩa và phương hướng của nghệ thuật chân chính sau mười ba năm cuốn sách đầu tiên nay tôi nhận thấy rõ giá trị của sự nghiệp văn chương cũ của tôi chỉ là một mớ sai lầm và tội lỗi". Đến Thế Lữ, nhà thơ chủ lực trong Tự Lực văn đoàn, đã tự thú, để thoát khỏi bị ám ảnh thủ tiêu như Khái Hưng, Nguyễn Triệu Luật, Lan Khai, Phan Trần Chúc; được phép viết :

“Riêng về mặt văn nghệ, sai lầm của tôi biểu hiện ở:

Quan hệ với TLVĐ.

Quan hệ với Nguyễn Tường Tam.

Nhận thức không đúng về sự nghiệp văn thơ của tôi từ cách mạng tháng tám về trước.

Qua lớp chỉnh đảng, ánh sáng chủ nghĩa Mác, Ăng ghen, Lê Nin, Xta Lin, chân lý tư tưởng vô sản đã chỉ cho tôi biết hướng đúng mà suy nghĩ, và do đó về hoạt động văn nghệ trước kia, tôi phá được những từng ám ảnh khói dầy đặc và nhìn cuộc đời thực của “Tự Lực văn đoàn” của Nguyễn Tường Tam và sự nghiệp văn thơ của tôi. “Tự Lực văn đoàn” chủ trương không những không tiến bộ mà còn phản lại tiến bộ, có tội với nhân dân. Sau cách mệnh thất bại tư sản, nhân dân càng bị áp bức và mê muội, “Tự Lực văn đoàn” tung ra khẩu hiệu yêu đời vui vẻ và trẻ trung và nêu nhãn hiệu cải cách để lôi kéo từng lớp thanh niên tiểu tư sản đang hoang mang trước thời cuộc. Văn thơ tiểu thuyết nó đề cao tư tưởng phi vô sản, đưa thanh niên vào con đường lãng mạn buông thả tự do, cá nhân thoát ly trốn tránh thực tế ...”

Tiếp Xuân Diệu, thi sĩ giá trị tâm lý lãng mạn tiền chiến, lãng mạn cách mạng kháng chiến, coi như lạc hậu trước thành trì con người mới trong văn chương Mác xít. Bài thơ lột xác đầy tính công thức, gượng gạo :

TRƯỚC ĐÂY BỐN THÁNG

Trước đây bốn tháng tới trường

Hồn tôi nghiêng ngả trí thường hoang mang

Đường đi quên ánh vinh quang

Bạn thù lẫn lộn trái ngang cảm tình

Kéo dài tâm trạng lênh đênh

Sống mà lắm lúc như mình bỏ đi

Hôm nay hết học kỳ chỉnh đảng

Bước đầu tuy chửa là bao

Nhưng nghe đã rộng đã cao vô ngân

Mẹ xưa chăm cháo chăm cơm

Đảng nay nuôi nấng còn hơn mẹ hiền

Bệnh từ đời cũ liên miên

Đảng trong thức ngủ chăm liền sớm hôm

Mẹ nào hiểu hết nỗi con

Đảng thông suốt cả nguồn cơn nỗi niềm

Chẳng nề ung nhọt xét xem

Căm thù với bệnh hòa êm với người

Khuyên ta tin tưởng không rời

Và tin tưởng ở cuộc đời của ta

Cứu người Đảng vẫn thiết tha

Một lòng sửa chữa cho ta tốt lành

Lòng Đảng tựa núi xanh hùng vĩ

Tôi xin theo chung thủy đến cùng

Đào sâu suy nghĩ cảm thông

Mới hay đảng ở trong lòng mà ra

Ta có Đảng Đảng có ta

Dưới cờ một phút chẳng xa chẳng rời

Ở đâu nước mắt mồ hôi

Ở đâu người bóc lột người mà ăn

Ở đâu còn giặc thực dân

Còn phường áp bức còn thân tôi đòi

Đảng còn tranh đấu mà thôi

Ta còn theo Đảng suốt đời tiến lên.

XUÂN DIỆU

Nguyễn Công Hoan bộc lộ tâm tư sau kỳ học chỉnh huấn, nhà văn này thú tội thầm kín khi ông viết cuốn truyện “Thanh Đạm” như thế nào ? Ở bên Nga, khi tờ báo Bolchévich lên án nhà văn M. Zotchenko phản động, tức khắc sau đó bị bắt và đưa đi học chỉnh huấn. Ở Việt Nam, khi báo Cờ Giải Phóng có bài lên án thái độ ngang ngạnh ương bướng của Nguyễn Công Hoan, sau đó ông phải làm tường trình thú nhận tội lỗi mắc phải. Dưới đây trích một đoạn thú tội đăng trên tạp chí Sinh Hoạt :

“ ... Cuộc chỉnh huấn vừa qua Đảng đã chỉ cho tôi trông thấy được tâm cái nguồn gốc lai lịch tội lỗi của tôi. Tôi thấm thía là Cách mạng tháng Tám đã cứu sống tôi lại. Nhưng từ sáu năm nay tôi vẫn như một đứa trẻ ngã sông, nắm được cái cọc cứu mình rồi mà vẫn chưa biết mình sống. Tình trạng u mê này còn triền miên thêm nữa không? Tôi có thể tự trả lời tôi không thể được ...”

Họa sĩ Tô Ngọc Vân, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, chiến sĩ văn Hà Minh Tuân cũng không đi ngoài khuôn mẫu bị học chỉnh huấn được. Học tập cải tạo tư tưởng (học chỉnh huấn) là xóa đi, tư tưởng quá vãng không tiếc, chỉ mong được sống có ý thức khi đã được Đảng cứu sống, như Nguyễn Công Hoan là đứa trẻ tắm sông chết đuối, được cây gậy đưa ra cứu, vẫn thấy mình như chưa được sống thực. Lời nhận tội này nghe chừng nhận mà chưa chắc đã nhận, nhận rồi chưa chắc sáng suốt nhận. Các văn nghệ sĩ Mác xít chịu rèn luyện trong nền văn nghệ chỉ huy, như ngày nào Bogdanov (Xô Viết), cũng như Boukharine, Trostky... bao nhiêu lần thảo luận đi đến sự muốn gầy cho vườn hoa văn chương muôn ngàn sắc hoa đua nở (tất nhiên là vườn hoa văn chương vô sản) ; cuối cùng vẫn chỉ là con số không mà thôi. Hãy đọc một đoạn trích mà Boukharine phải thốt lên điều thất bại :

“... Cuối cùng, nếu không có sự tự do thảo luận (không kiềm chế) mới hy vọng có một nền văn nghệ vô sản đích thực lớn dậy. Nói như vậy, tôi (Boukharine) vẫn mang tâm trạng vì một tương lại văn nghệ vô sản...” (3).

Ngay như một nhà văn vô sản tầm cỡ Ilya Ehrenbourg nghĩ về việc cần phải bóp nghẹt tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ ; sau nhiều lần thử nghiệm, cũng băn khoăn bộc lộ tâm trạng:

“... Chẳng hạn, xưa kia Maxime Gorki sáng tác tiểu thuyết “Người Mẹ” hoặc Léon Tolstoï sáng tạo truyện “Anna Karénine” có nhận mệnh lệnh của ai để viết không nhỉ...”

Trở lại nhà văn Nguyễn Công Hoan với tập truyện viết về sau này Nông Dân và Địa Chủ (1955), Tô Hoài với truyện Tây Bắc (1953), những cuốn sách này được đặt hàng và đưa ý thức hệ đấu tranh của vô sản lồng trong sáng tác tuyên truyền công nghiệp vô sản. Nên nhớ rằng sáng tác bao giờ cũng mang tính chất truyền cảm, nhiều hình động lực tự nhiên, không gò ép; nói chung tự do sáng tạo mới hy vọng là tác phẩm hay, như Ehrenbourg tự hỏi Léon Tolstoð viết Anna Karénine có nhận mệnh lệnh ai không? Cũng vì lý do đó đến Nguyễn Tuân, qua truyện Chuyện Một Người Gác Tàu Bay, nhân vật này hệt bù nhìn giữ vườn dưa cho Đảng; hẳn không khác Nguyễn Công Hoan với Nông Dân và Địa Chủ là bao ! Khi Nguyễn Tuân nhắm đúng đôi cương ngựa văn nghệ được nới lỏng, Nguyễn Tuân vung bút thật mạnh viết Phở và sau nhà văn phải cầm bút làm tường trình thú tội sai sót (4). Văn nghệ chỉ huy còn được nhìn thật rõ nét qua Tuyển Tập Thơ Hòa Bình ra mắt sau 1957.

Nhớ lại khi Chủ tịch Hội Văn Nghệ Léningrad là Tikhonov được giải thưởng Lé-nine (mà trước đó bị tước quyền, chỉ được phục hồi sau khi dự lớp tập huấn), nào có khác gì một Tú Mỡ được thưởng Huân Chương Kháng chiến, hoặc Trần Hữu Thung được giải hai thơ vào thời kỳ họp về thơ ở Bá Linh (Đông Đức). Lại một tập truyện khác được chọn đưa vào Tuyển Văn (5), ngoài Voi Đi (Siêu Hải), Làng (Kim Lân), hai truyện này được trích lại từ một tuyển tập khác(6). Còn truyện những cây viết nặng tình với kháng chiến, như Quang Dũng với Chia Tay, Hà Minh Tuân với một đoạn được trích trong Những Ngày Máu Lửa (truyện này mang tựa Những Ngày Đầu Chiến Đấu), Nguyễn Văn Bổng với Sau Trận Càn... Còn hầu hết sáng tác của nền văn học chỉ huy được khai thác triệt để ; Vùng Mỏ (Võ Huy Tâm), Trước Giờ Ra Trận (trích “Xung Kích” Nguyễn Đình Thi), Ruộng Tổ Phụ (Đỗ Quang Tiến), Cây Mít (trích Nông Dân và Địa chủ của Nguyễn Công Hoan), Cha con Ông lão chăn bò trên Núi Thắm (Xuân Thu), Trong Nhà Gạo (trích trong Truyện Anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng, truyện Cái Lu (Trần Kim Trắc). Riêng truyện này, nhà văn Nam Bộ tập kết chịu ảnh hưởng nặng nề truyện Bó Rơm của một nhà văn Trung Quốc (CS).

Nhận thức được tình trạng văn nghệ kháng chiến như vậy, thì văn nghệ kháng chiến phải là sản phẩm chung của nền văn hóa dân tộc. Sẽ phân tích theo ý nghĩa đó, lần lượt giới thiệu sáng tác chứa đựng tinh thần kháng chiến. Có thể không đồng ý với Tố Hữu qua bài thơ tôn sùng cá nhân, hầu đạt được mục đích chính trị: ...Thương mình thương một thương ông thương mười. Ông ở đây ám chỉ lãnh tụ tối cao Xô Viết, J. Staline. Nhưng còn nhiều bài thơ khẩu khí như Lao Bảo, Mã Chiếm Sơn, Ba Tiếng...tác phẩm thi ca giá trị của thời đoạn lịch sử, giai đoạn tiền-kháng chiến. Trở lại với bình diện văn nghệ kháng chiến, nhiều sáng tác ghi lại hình tượng sống diễn biến trong cuộc chống xâm lăng Tây thuộc lần hai, như chiến đấu cho lịch sử dân tộc mỗi ngày mới hơn. Tác phẩm văn nghệ kháng chiến Việt Nam phải được coi như là sáng tác giá trị như trong La Patrie se fait tous les jours (7), ghi lại, phản ánh cuộc chiến đấu kháng chiến anh dũng của Pháp vào giai đoạn 1939–1945 chống Phát xít Đức, Ý. Trong tập truyện thơ, văn này có tác phẩm của nhà văn thơ chuyên nghiệp nổi danh, các chiến sĩ văn nghệ, như : Paul Éluard, Louis Aragon, Albert Camus, André Malraux, Max Jacob... Chúng tôi dịch tập sách này cùng ý nghĩ như Jean Paulhan và Dominique Aury (nữ) sưu soạn. Tất nhiên chưa thể đầy đủ được, nhưng tập sách nhỏ bé ấy sẽ được dùng làm tài liệu văn học giúp cho những ai về sau viết lịch sử văn học; nhất vào giai đoạn kháng chiến 1945–1950. Nhà văn kháng chiến chủ lực (1945–1950) (tập hai) trong bộ Lược sử văn nghệ Việt Nam 1900–1956, cách viết khác với những tập 1, 3 và 4. Đa số truyện và thơ được trích lại từ Tập văn Cách Mạng và Kháng chiến (NXB Sự Thật 1947). Sở dĩ có được tư liệu văn học quí giá này, do Hồ Nam cung cấp vào cuối 1955; bởi ông, một trong những người vào Nam sau chót trước chấm dứt hạn kỳ.

Chương 1.

VÀ ĐỂ NÓI VỀ NHÀ VĂN TRƯỞNG THÀNH TRONG KHÓI LỬA

N hiều nhà văn mà chúng tôi chưa đề cập đến trong tập Nhà văn tiền chiến (1930–1945 (8), ở đây các nhà văn trưởng thành trong khói lửa, nổi danh trong kháng chiến, khởi sự vào giai đoạn tiền-kháng-chiến. Như Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Tố Hữu, Hoàng Lộc, Quang Dũng, vv... Nhà văn kháng chiến chủ lực khác với những tập trên, chỉ là sự giới thiệu và trích dẫn nguyên bản. Chẳng hạn về Nam Cao, nói qua tiểu sử (nếu có), giới thiệu khuynh hướng một cách tổng quát và trích dẫn. Giai đoạn kháng chiến rất hiếm truyện dài, chỉ có truyện vừa và nhiều nhất truyện ngắn. Bởi đồng bào là độc giả không có thời giờ, người viết cũng như người đọc phải tự ý thức cô đọng khi viết và có thời gian để đọc.

Tập 2 này chia ra làm hai phần :

Một : nói về các nhà văn chuyên nghiệp trong kháng chiến

Hai : nói về các chiến sĩ cầm bút trong kháng chiến, bài đăng trên báo, bích báo vv...

Tiết 1

NAM CAO

(1917–1951)

Tiểu Sử.

Nam Cao sinh 1917, mất ngày 29–10–1951 trong kháng chiến.Thời tiền chiến, ông viết loại sách Hoa Mai, truyện nhi đồng thôn quê, thành thị, tiền chiến cho NXB Cộng Lực. Tác phẩm: Nửa đêm, Bẩy Bông Lúa Nếp, Cười, Đôi Lứa Xứng Đôi... và các truyện ngắn, thơ, đăng trên các báo. Truyện đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy: Một Đám Cưới (số 3, TTTB, 1944) Lang Rận (số I, TTTB, 1944). Trong kháng chiến ông viết : Ở Rừng, Đôi Mắt v.v...

Nam Cao có giọng văn châm biếm mỉa mai tế nhị. Trong Cười, ông muốn độc giả thưởng thức một đoạn đời vui tươi ; nhưng đôi khi cười ra nước mắt. Ngày cách mạng bùng nổ, Nam Cao đi vào chiều sâu con người hòa đồng với tổ quốc lâm nguy. Chí Phèo cũng như Ở Rừng; Đôi Mắt ; là văn phẩm tuy ngắn nhưng vô cùng đặc sắc. Thật ra truyện ký sự của Nam Cao là tạp văn, không có chuyện mà lại hóa ra những chuyện lý thú phản ảnh mẩu đời sống động trong chốc lát (état brut). Nhớ Nam Cao như nhớ một Nguyễn Tuân ở Gió Lào. Thiên tài văn của Nam Cao là ở chỗ nghệ thuật, hấp dẫn, thành khẩn.

Ở Rừng, tác giả giới thiệu với chúng ta Cô Vẩu. Một cán bộ tinh thần cao, phục vụ và hy sinh cho lý tưởng dân tộc thật nồng nhiệt quên mình ! Rồi đến vai họa sĩ, một vài nét điển hình để độc giả hiểu rõ con người nghệ sĩ dưới mắt Nam Cao nhìn và nhận xét, sống nhiều nội tâm, phong thái trầm lặng, ôm triết lý cao siêu, mà dầu có thất bại đi nữa; người nghệ sĩ chỉ còn cười, một nụ cười chân thật không oán than định mệnh. Về bà cụ Quận, người miền núi Cao Bằng, giàu lòng tốt với lính miền Trung châu, tính tình bà cụ bình dị, chân thật. Những cảnh núi, rừng, buồn man mác – ánh lửa, tiếng hươu, vượn – đều nói lên hình tượng tác giả yêu đất đai, xứ sở. Người học hiểu thêm được người bạn miền núi qua những dòng văn của Nam Cao. Và đến tâm tư nhà văn, tác giả bộc lộ chân thành ý nghĩ từ ngày xưa đến bây giờ, từ những phút mong vợ, nhớ con, Nam Cao ghi lại đầy đủ của con người cảm xúc dồi dào. Văn Nam Cao diễn tả sâu sắc, sự chân thành của ông khiến người đọc vô vàn cảm mến. Nghệ thuật văn của ông là lối văn cảm giác linh hoạt (style cinématographique). Con người nuôi chí lớn, xây dựng cho văn nghệ đã qua đời. Chúng ta mất một nhà văn, lịch sử văn học Việt Nam mất một nhà văn tài ba, có chân tài, mộng lớn đành xếp lại khi trang đời đến số ba mươi. Trích dẫn một bài thơ của nhà văn tài ba ấy, một truyện linh động của người đã sống không màng danh lợi ; chết đi nhường cho chúng ta, những kẻ đi sau hưởng di sản văn chương quý báu như “Ở Rừng”.

Ở RỪNG

13–11–47 – Khang và tôi bắt đầu in truyền đơn cho cô Vẩu. Chúng tôi gọi đùa chị ấy là cô Vẩu. Hơi vẩu thật, nhưng thùy mị và thanh nhẹ. Chị thuộc vào lớp cán bộ đầu tiên xung phong lên Việt Bắc. Đồng bào địa phương rất mến. Bóc tờ giấy ở phiến đá lên, Khang có vẻ vừa ý lắm: -Rõ mà đẹp lắm. Cô Vẩu tha hồ thích nhé! Giọng anh âu yếm. Lần đầu tiên tôi thấy anh như vậy. Quen anh rất lâu, tôi chưa thấy anh nói chuyện gái bao giờ. Người họa sĩ đã ba mươi tuổi ấy hình như chưa bao giờ nghĩ đến tình. Anh ghét vẽ đàn bà. Đứng trước mặt phụ nữ, mặt anh lạnh như tiền. Nói theo thì giáp mặt mỹ nhân, mấy cái râu chuột trên mép anh không hề động đậy. Cảnh hiu quạnh hay cái gì đã xúi dại anh buột miệng nói câu êm ái ấy ? Tôi cười nụ. Chúng tôi vừa in vừa cắn hạt bí bà cụ Quận cho. Bà cụ sang xem chúng tôi in, nói chuyện. Người phúc hậu, mặt đẹp... hay chuyện, âu yếm cháu.

Buổi chiều thấy chúng tôi không có rau ăn, chỉ một ít sắn nấu canh lõng bõng bà ái ngại. Bà chạy vào rừng, lấy về một cái hoa chuối và một nắm lá gì giống như lá nhỏi. Bà gọi nó là phiếc phàn– rau phán vậy. Bà bảo chúng tôi đợi bà xào cho một đĩa, ăn hơi chát vì hoa chuối luộc trước. Cũng cứ khen là ngon ! Một lần Chấn mời ăn thịt chuột nướng nấu với nước lã. Tứ cũng gắp ăn không nhăn mặt và khen ngon. Tối nay, nôn nao và mệt rũ. Làm nhiều ? Hút thuốc lá nhiều ? Hay say hạt bí. Đi nằm sớm nói chuyện lẻ tẻ : Lửa tắt cũng không buồn dậy thêm củi. Cháy thật to, cuộn thêm một điếu thuốc lá nữa trầm ngâm hút. Có lửa, vui hơn một chút. Con hươu lạ kêu. Nó kêu luôn mấy đêm rồi. Tiếng man rợ và thảm thiết. Nghe gần lắm sao không ai đi bắt nó ?

30–11–47 - Nhà in đã có thể bắt đầu làm việc được rồi.

Cơ quan nhận tin điện cũng gần xong. Chúng tôi xuống nhà đồng chí Chấn đã hai hôm, đợi ngày trở về làng. Nay mai báo ra, chúng tôi sẽ bận hơn. Có lẽ khá lâu không có thì giờ đến chơi đây. Chúng tôi muốn xuống ở hẳn với họ mấy hôm để được truyện trò với họ nhiều hơn.

Tối hôm nay, ngồi quây quần chung quanh bếp lửa gần đủ mặt cả đến đồng chí Văn, đồng chí Tống. Họ tả lại mấy trận đánh đồn. Họ hát lại những bài cách mạng hồi ấy cho chúng tôi nghe.

Chúng tôi nói với họ về miền xuôi, về Hà Nội những ngày khởi nghĩa, về Trung bộ, Nam bộ, có ý cho họ hiểu nước mình rộng lớn thế nào, nhiều người nhiều của thế nào và họ thuộc vào một khối người dự vào một phong trào cách mạng đang sôi nổi khắp từ Á sang Âu. Nói một cách thật giản dị, thật cụ thể thế thôi. Câu chuyện mỗi lúc thêm náo nhiệt. Mắt những người Mán ngồi bên chúng tôi sáng và nhanh nhẹn hẳn lên. Một cái gì vừa mới thức dậy trong những tâm hồn rừng núi âm u. Chấn và Bảo hát vang. Họ bàn nhau khi nào kháng chiến thành công sẽ kiếm tiền may mấy cái áo tốt, về dưới xuôi chơi. Triệu Văn Hương cũng hứng chí lên, nói toang toang : anh ta hứa sẽ cố bắn một con hươu. Lấy da may áo để mặc về xuôi. Liễu cũng tươi tỉnh hẳn lên. Cô thiếu nữ mảnh người như Liễu ấy rất hay nhìn trộm Tứ. Khi những tiếng cười nói đã ngớt rồi, cô rủ rỉ bảo – “Kháng chiến thành công, đồng chí Tứ giú nảy au me cấn đông thư ná”(9) (Kháng chiến thành công đồng chí Tứ ở đây lấy vợ người Mán làm ruộng). Muốn tránh tất cả sự thôi thôi có thể làm chúng tôi mất cảm tình của đồng bào địa phương, từ đấy, mỗi lần ở đâu lâu chúng tôi thường tìm mánh khóe cho mọi người biết rằng cả chúng tôi đều có vợ, có con rồi. Nhưng khổ cho chúng tôi, những chàng trai trẻ vẫn còn khao khát chuyên yêu đương nhưng lại phải luôn luôn kiềm chế lòng mình. Các cô con gái Thổ da trắng đỏ, mặt rất xinh và cử chỉ rất hồn nhiên lại rất hay cười đùa, bảo chúng tôi :

- Không phải đâu ! Các anh chưa có vợ.

Có những lúc con người cũ của chúng tôi chồm dậy – con người phóng túng và ích kỷ. Những lúc ấy là lúc chúng tôi bảo nhau nửa đùa cợt, nửa chua chát : – Giá chúng mình không phải là...

Nhưng cử chỉ đúng đắn, lễ độ của chúng tôi khiến mọi người xung quanh rất mến phục chúng tôi. Có người khi nói chuyện với chúng tôi, đã đem cái tư cách gương mẫu của chúng tôi so sánh với những thằng Tây đồn ngày xưa bắt các làng phải thay phiên nhau nộp cho nó mỗi ngày một cô gái thật đẹp để hầu hạ quạt cho nó ngủ. Chúng tôi lại càng thấy sự gìn giữ tư cách là cần lắm. Và mỗi khi gặp một người đẹp chỉ đành thở dài vụng thôi.

2–3–48 – Từ hôm ra báo, bận nhiều việc quên hẳn biên nhật ký. Và cũng chẳng có gì nhiều đáng ghi. Mỗi ngày ngồi cặm cụi viết bài. Từ phần phông(10) đến một cái tin vặt đều phải cố và sao cho thật ngắn , thật dễ hiểu. Và xong đưa cho một chú giao thông Thổ đọc trước, hỏi xem có hiểu cả không ? Chỗ nào chú không hiểu viết lại, chữ nào chú chưa quen, thay bằng chữ khác.

Đã từ lâu tôi mong ước có một tờ báo nhỏ, hợp với trình độ của người mới biết đọc, nghĩa là với số đông. Trước ngày kháng chiến toàn quốc ít lâu tôi đã bỏ Hà Nội về một tỉnh nhỏ để làm một cuộc thí nghiệm xem sao. Nhưng tôi đã không tìm được đủ phương tiện để làm. Dịp may mắn cho tôi thử thực hành đã đến đây. Tôi làm rất chăm chú, rất ham thích cái công việc mà giá trước đây người ta bắt tôi làm, tôi có thể điên người lên được. Vẫn còn những lúc thằng nghệ sĩ cả trong người tôi vùng dậy. Tôi chợt thấy buồn rầu vì trong mấy năm nay không viết được một tác phẩm nào khiến cho các bạn tôi nhắc nhở. Hết làm chủ tịch làng thì lại đi tuyên truyền lao động, cuốn tiểu thuyết lớn không mấy đêm làm báo tôi không nghĩ đến luôn mấy năm nay.

Những tác phẩm mớ ước ấy, có phải đến tận bây giờ tôi mới gác nó lại đâu? Tôi đã phải gác nó lại từ ngày nó mới chớm nở trong khối óc tôi. Phần lớn thì giờ của tôi trước đây đều dùng vào việc viết những truyện ngắn truyện dài, truyện trẻ con tôi không vừa ý một chút nào; nhưng nó giúp tôi moi được tiền của bọn buôn văn, để đem về nuôi cái thân tôi và nuôi vợ nuôi con. Nước mình còn nô lệ thì tiếng mình còn bị chê khinh và bọn nhà văn còn bị rẻ rúng bạc đãi, coi như một hạng người không có cũng chẳng thiệt thòi gì. Tôi đã làm được hẳn ý muốn của tôi, chỉ vì cần duy trì đời sống của tôi. Sao tôi lại không dằn cái ý muốn của tôi xuống để góp sức vào công việc duy trì đời sống của dân tộc? Vả lại những công việc “không nghệ thuật” lúc này chính là sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn. Nếu tôi có đủ tài viết cái tác phẩm lớn của đời tôi, nó sẽ được hàng chục triệu người đọc, chứ không chỉ vài ba nghìn người như trước nữa.

Chiều chiều, các anh, các chị Thổ ở các lán chung quanh đến lán chúng tôi nói chuyện hay đọc báo. Tôi càng có dịp hiểu trình độ hiểu biết lời ăn, tiếng nói, cách làm ăn và những băn khoăn mong ước của họ hơn. Dựa vào đấy tôi uốn nắn lời văn và tìm ra những đầu đề để viết. Nói được một điều thiết thực đăng được một cái tin làm người ta phải kể lại với nhau, làm được những câu ca dao thật mộc mạc, nhưng đủ ý đọc lên đàn bà, trẻ con nghe cũng hiểu, tôi thấy sướng như viết được một truyện ngắn chính tôi ưng ý. Ngoài thời giờ viết báo tôi đọc sách. Chúng tôi tổ chức những lớp tự học trong nhóm anh em cùng trình độ và mở những lớp huấn luyện cho các anh em trình độ kém ở ấn quán. Buổi tối, ngồi bên bếp lửa, tôi dùng lối hỏi chuyện, giảng những điều thường thức về địa dư, lịch sử, chính trị cho chú giao thông Thổ với tôi. Và nửa đêm trong lúc chú giao thông ngủ tôi lặng lẽ chui ra khỏi chăn, cầm mấy ống tre, đi chân không, lần từng bước xuống một cái dốc khá trơn để đi lấy nước ở một cái vũng nhỏ ban ngày cạn vì nhiều người lấy quá. Từ chủ nhiệm, chủ bút đến chú giao thông, tiếp tế chúng tôi ăn ở với nhau thân mật và bình đẳng, hòa thuận hơn anh em ruột. Vì vậy, mà ai cũng hết lòng, cố gắng. Và mặc dầu khí hậu độc, ăn ở khổ, lương rất ít, xa gia đình quê hương, chúng tôi đều vui vẻ và lưu luyến cơ quan lắm. Đồng bào ở chung quanh nhìn vào đó có lòng yêu. Nhiều người đem con em, nhờ chúng tôi dạy học hay xin cho vào ở hẳn trong cơ quan, vừa học nghề, vừa học chữ. Họ hứa cơ quan đi đâu họ bằng lòng cho con em họ theo đi đấy.

Chúng tôi gọi đùa trên Mán là nhà quê của chúng tôi. Tết đến, Tứ và tôi phải cố bỏ một ngày về quê đi chúc tết cả mọi nhà. Vớ được trong cái va ly của một anh bạn gửi mấy cái kiềng, xuyến mạ vàng, chúng tôi đem theo làm quà cho mấy cô gái chưa chồng và lũ trẻ con. Những bà mẹ trông thấy mừng rú lên. Thịt lợn sống để từ hôm nảo hôm nào ở trong bồ, họ lấy ra xào nấu cho chúng tôi ăn. Tởm đến buồn nôn lên cũng phải cố ăn. Anh chàng Tứ ăn quá thực thà đêm hôm ấy bị nôn mửa và đi tả. Tôi nhờ lẩn khéo chỉ ăn đậu nên không việc gì.

Mấy ngày nghỉ Tết, tôi dùng để viết một truyện ngắn cho đỡ nhớ. Truyện Tiên sư thằng Tào Tháo. Tôi đặt cho nó một cái tên giản dị và đứng đắn Đôi Mắt.

7 – 3 – 48 – Trời mưa. Lớp này mưa nhiều quá. Vắt vào tận trong nhà.

Tôi xắn cao quần, mặc áo mưa chống gậy đi sang một lán bên nói việc về suôi. Hơn hai chục học viên, vừa trẻ vừa già. Toàn thể anh em chỉ vừa đủ tiếng Kinh. Giảng cách nào đây?

Tôi rất sung sướng khi thấy đôi mắt chú ý của một đồng chí có tuổi đột nhiên lòe sáng vì hiểu được điều tôi nói. Đến giờ nghỉ đồng chí vui vẻ bảo tôi: “Giờ tôi mới biết đấy. Trước kia không hiểu gì đâu. Không có báo đọc. Đọc cũng không hiểu hết”.

9 – 3 – 48 – Vẫn ở lớp huấn luyện. Ngồi bếp hút thuốc lào, nói chuyện với anh em. Họ đều than phiền thuở bé không được học.

– Nói là không được học, không ai tin không học sao biết chữ, sao được đi làm cán bộ. Nhưng cán bộ có được đi học đâu ? Ngày còn bé coi trâu. Lớn lên đi phu, làm để đóng thuế. Con quan, con nhà giàu mới học được.

Một anh xừng xộ bảo tôi như vậy các anh phần lớn đều tự học. Nhiều anh vừa chăn trâu vừa vạch chữ lên mặt đất. Thế mà rồi cũng biết.

– Thế mà nhiều thằng con nhà giàu cho đi học chỉ chơi, ba bốn năm không biết chữ.

Tôi tỏ vẻ không tin. Anh trợn mắt :

– Thật đấy, nó ngu quá. Không biết chim gái lấy vợ bằng tiền đấy.

Các anh kể lại những chuyện Pháp khủng bố ngày xưa.

– Người đi hoạt động khổ một phần, ở nhà khổ mười phần. Nhưng đến lúc chúng nó đem gia đình các cán bộ tập trung vào một chỗ để giam giữ thì cán bộ không cần gì nữa, không lo cho gia đình nữa. Càng hoạt động già...

16–3–48 – Cái giọng nghiện trong đài phát thanh Hà nội sáng nay cho biết hôm qua chúng nó đã ký kết với nhau hiệp ước năm nước. Trong cái mào đầu hiệp ước có nói đến “phẩm chất con người, tự do của mỗi cá nhân trong xã hội”. Mình như đột nhiên bị một cái cật nứa cài vào hậu môn hành hạ những người bị giam giữ để tống tiền, nói truyện nhà nó ba đời tu nhân tích đức. Muốn chửi to một tiếng.

Nhưng tin tối hôm qua cho biết Giải phóng quân vẫn tiến. Khi mà làn sóng dân chúng đã dâng lên. Nó cứ đi tràn mạnh mẽ và cuốn đi, và rửa sạch tất cả những nhây nhớp của một xã hội đã thối nát. Vàng của bọn tài phiệt sẽ vô hiệu quả. Chúng tôi đợi ngày nắm tay chào các anh.

19–3–48 – Vẫn mưa. Đêm qua càng mưa dữ dội. Bị nước lọt qua màn rỏ vào mặt tôi thức giấc quay đầu lại phía chân. Cảnh cố thu hẹp người lại để tránh nước từ trên mái nhà dột xuống. Rất lâu không ngủ được. Mưa đến từng đợt như đợt sóng. Ào ào rồi ngớt. Nước không gõ trống trên lá nữa. Nước chảy thành thác lá rậm. Tiếng giòng suối dưới gầm sàn như một cái nhọt vỡ, ăn loang đêm tối.

Ôi chao ! cái giống bọ vô hình ở cái chăn bông bò ra ngứa ran trên mặt, trên cổ, không sao ngủ được. Cố nhiên lại là nhớ đến Liên nhớ các con. Những lần mưa trong đời mình. Đời mình như toàn mưa cả. Mưa vào những dịp quan trọng. Mưa vào những ngày bước đi. Mưa. Mưa ! Cả đêm mưa trên thuyền nữa. Những đêm mưa trong nhà dột trong cái lều nhà bà cụ Xoan.

Nhưng mỗi lúc ngớt mưa, lại nghe tiếng súng nổ ran. Tiếng súng đã nổ ran suốt ngày hôm qua, mặc dầu mưa. Trông cái đêm mưa tầm tã này súng vẫn còn nổ như thường. Súng không biết có giời mưa. Lòng súng anh cũng không ỉu xịu bao giờ. Ôi súng, ôi những cây súng thép ! Ôi những anh Vệ quốc quân ! Tôi biết các anh nhiều khi phải nhịn cơm ăn cháo, đứng dưới trời mưa suốt ngày suốt đêm mà đánh giặc. Lòng các anh cũng là lòng súng thép. Mưa có bao giờ làm ỉu xịu một tấm lòng bằng thép đã tôi già. Tôi xấu hổ cho tâm hồn ủy mị của tôi. Vẫn chưa mạnh hẳn ư ? Các anh ! Các anh chiến sĩ không tên. Các anh hãy dạy tôi biết hy sinh mình, không nghĩ gì cả thân mình nữa. Các anh hãy rọi vào lòng tôi ánh nắng rực rỡ trong đôi mắt và cõi lòng của các anh. Những đám mây đen xưa cũ vẫn còn lởn vởn. Các anh hãy quét sạch nó hộ tôi. Quét sạch ! để cho tâm hồn quang quẻ và mới hẳn.

Súng vẫn nổ giòn. Tôi lắng tai nghe, cố nghe tiếng súng. Tiếng súng máy cười khành khạch. Hôm qua khi lính Pháp ra hàng. Chúng nó chịu làm sao được cảnh ăn cháo đánh nhau ? Mưa ! Mưa ! Mày cứ mưa mãi cho tao ! Chúng nó sẽ còn ra hàng nhiều nữa ...ª

Thơ Nam Cao

2– KHI CHIỀU THẪM

Chiều thẫm lại. Hàng cây yên dáng nhớ

Trăng không lên. Sắc đẫm lệ, lu mờ.

Tôi khua lòng, lòng ướt át, và thơ

Buồn đẫm cánh không bay nhè nhẹ được.

Đời tối quá ! Em ơi, tôi nguyện ước

Một bàn tay thắp hộ lửa lòng lên;

Một tấm thân ấm áp ghé ngồi bên;

Câu dìu dịu vỗ về hồn nhức nhối ;

Đôi tai bạn để nghe lời tim nói.

Em xa xôi, tôi cô độc, em ơi !

Từng hạt nặng trên lưng tàu lá chuối !

Sương khóc hộ cho đời tôi trơ trọi,

Cho đời em lạnh lẽo chốn phòng không,

Cho con chim đơn lẻ giữa mênh mông,

Khi chiều thẫm, hàng cây yên dáng nhớ.

Trích trong báo Hà Nội Tân Văn số 72 (28–6–1941)

NAM CAO

Tiết 2

NGUYỄN HUY TƯỞNG

(1912–1960)

Tiểu Sử.

Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn ở ngưỡng cửa tiền-kháng-chiến. Năm 1944, ông viết tiểu thuyết lịch sử “An Tư” đăng trên báo Tri Tân do Nguyễn văn Tố chủ trương. Ông còn viết nhiều truyện ngắn và làm thơ đăng báo. Năm 1945, cách mạng bùng nổ, Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu chuyển mạch văn. Tác giả những vở kịch Anh Năm tòng quân, Những Người Ở Lại, tản văn như Ngày Mùa. Một sinh khí mới của hình tượng sống mới. Truyện Ngày Mùa mang tính chất thực, hình ảnh những người thành thị bị nông thôn hóa chiến đấu nông thôn. Họ cùng sát cánh nhau chiến đấu độc lập cho tổ quốc. Cảnh sống nơi thôn quê, được Nguyễn Huy Tưởng ghi lại dưới con mắt quan sát một nhà văn có tài nên linh hoạt có cá tính riêng biệt. Từ những ảnh hình mộc mạc của quê hương, người và muông thú hợp thành bản ca của cuộc hồi sinh vĩ đại. Tác phẩm chính: Đêm Hội Long Trì (1942, tiểu thuyết lịch sử), Vũ Như Tô (1943, kịch lịch sử), Những Người Ở Lại (kịch, 1946), Ngày Mùa, Ký Sự Cao Lạng (bút ký, 1951)v.v...

NGÀY MÙA

Hà Nội đã xa tôi rồi. Xe đạp của tôi chuồi trên một dốc không cao. Ngày hôm nay, tôi tạm gác một bên những lo âu mà cuộc sống tranh đấu giải phóng dân tộc đòi hỏi từng giây từng phút.

Tôi về với mùa màng.

Gia Lâm đang kiến thiết. Tiếng búa nện vào sắt nghe đanh đanh, ròn rã nhịp nhàng đưa ra từ dãy nhà máy sau ga đã bị bom tàn phá. Bên những bộ xương nhà trống và mấy chiếc toa ọp ẹp lẫn vào cỏ và đất, hai ba nhà máy đã được uốn nắn, thẳng thắn đứng ngang nhiên dưới những mái phên tạm thời. Tôi không trông thấy những người thợ vô danh, nhưng tôi nghe thấy sự cố gắng. Trước kia tôi yêu Tagore ghét lây nhà máy, bây giờ tôi yêu nhà máy ghét lây Tagore. Tôi chắc rằng quan niệm yêu ghét của tôi bây giờ đúng hơn trước.

Tôi vững dạ hơn những ngày tin tưởng nhất. Vậy mà cảnh tượng lặng lẽ làm sao, chẳng có gì lặng lẽ thợ máy khởi công. Lặng lẽ nhà nông tăng gia sản xuất. Lặng lẽ họ thành công. Tôi liên miên nghĩ đến sự lặng lẽ của chiến sĩ ngoài tiền tuyến. Vậy mà họ đã chặn đánh quân thù bất cứ ở chỗ nào. Tôi càng ngày càng bị quyến rũ bởi những việc làm không tên của những người không tên, nó bảo đảm cho sự thành công nhiều nhất.

Xe tôi đã đi vào giữa mùa màng. Nhiều ruộng đã được gặt rồi chỉ còn trơ gốc rạ. Nhiều miệng lầy có những bó rơm xếp thành hình tháp bút chữ nhất như những manh chiếu nát. Ruộng lúa chửa gặt rạt xuống như những hàng vó cao thấp. Đã có nhiều ruộng mạ non mơn mởn và cũng có nhiều ruộng đã trồng khoai, lá bị đè dưới những tràng mạng rạ. Rõ rệt sự liên tiếp về công việc của người nông phu cần cù tranh đấu trên trang kỳ lịch sử tồn tại của nòi giống. Mắt tôi ngợp trông những mầu hung, mầu vàng trà trộn lẫn nhau, nhiều lúc phản ảnh ánh sáng mặt giời lóng lánh như kim nhũ. Cánh châu chấu xe xè, càng cào cào tanh tách làm thành những tiếng nổ êm dịu của những bông lúa cháy như rang.

Tôi không ngửi thấy mùi thơm. Nhưng có một mùi say sưa lành mạnh. Xe tôi bỏ đường nhựa, rẽ vào con đường đất quen quen. Một chim khách đậu trên đỉnh một cây tháp đá xanh dựng ở đầu đường nhà hạ vỗ cánh bay. Một chú trâu già đứng trên một đỉnh gò cao, cắp ngang đôi sừng đồ sộ, nhìn người lạ bằng đôi mắt chứa chan những mộng hiền lành. Ôi chim muông đồng ruộng người và vật, và làng xóm thân yêu, ta lại về đây ! Tuổi ta đã đứng, tính tình ta đã khác, nhưng ta vẫn còn nguyên vẹn lòng hồn nhiên của kẻ quê mùa. Ta chào rừng ở các người và ở cả ta đây một cuộc sống hồi sinh vĩ đại. Nhưng sao trong ngày hội của màu vàng này, trong ngày thu hoạch tưng bừng này không có một tiếng ca, không có một lời nói. Có lẽ tiếng ca sẽ nhạt, lời nói sẽ vô duyên trước cái đẹp lớn lao và mãnh liệt của ngày mùa. Hay có lẽ đã chịu quen với áp bức chiến tranh, với trung thu, với hạn hán với lụt lội, với luôn luôn mấy vụ mất mùa, với nạn đói khủng khiếp vừa qua cho nên đã nắm trong tay cái no, họ vẫn còn hoài nghi, vẫn còn sợ có người đến cướp. Cho nên họ lặng lẽ làm việc, họ khoan thai đến nỗi tưởng như họ đã hóa thành những tượng đá im lìm hoặc đứng ; hoặc rạp người trên bông lúa nằm sóng soài. Có thấy cánh đồng lúa ngoảng dần, những chụm lúa đã gặt xếp hàng đều tăm tắp trông như những con dím chìm trong giấc ngủ triền miên người ta mới biết rằng họ vẫn đang làm và làm mau lẹ.

Trên đường đất, cảnh tấp nập hơn. Những gánh lúa lặc lô của anh thợ gặt, những gánh lúa nhỏ hơn của ả thôn nữ, nhỏ hơn nữa của nhi đồng nhẩy nhót trên con đường gập ghềnh thỉnh thoảng lại nép bên ven đường, nhường lại lối đi cho những người gánh gạo mới đem ra ngoài tỉnh bán tiếp nối theo nhau thành những hàng dài dằng dặc. Chốc chốc lại lóe lên đến nhức mắt một lưỡi cày mới rũa hay những luồng điện nê ông của những đòn gánh bóng loáng phản chiếu ánh sáng mặt trời. Dưới bóng mát một cây cổ thụ, một tốp đàn bà ngồi nghỉ bên những bị cói ăm ắp toàn một thứ gạo trắng tinh. Trên quang gánh treo những tàu lá cải xanh mướt như bông hoa điểm trên mái tóc một thiếu nữ. Họ thì thầm nói chuyện Hải Phòng. Tây đánh cướp, họ bĩu môi kết án một bọn người trong làng đã bán gạo cho Tây tích trữ. Âm thầm những bóng râm đang chảy xuống bờ ao bên sau gốc cây làm những vật đen trên mặt nước váng xanh. Câu chuyện của mấy bà nhà quê nhờ đấy mà càng thêm im lặng. Chuông kêu vang lên, xe tôi đi qua họ rạt ra hai bên. Chao ôi ! Nhìn gần sao mà họ tiều tụy lắm vậy. Màu vàng của lúa đẹp thế mà không ánh đến mặt hoa. Quần áo họ tả tơi, bẩn thỉu. Nước da họ xanh xao vàng ệch có người mặt nằng nặng và bủng tái. Tôi thở dài. Không biết nỗi vui đang tràn ngập trong lòng tôi có lọt qua những khối óc đặc xịt và những vỏ ngoài cứng dắn kia không? Tôi phảng phất nhận ra trong đám người già xọm toét nhèm hay mù lòa, mà khuôn mặt lõ xương đã gợi hình ảnh sự chết, dăm ba thôn nữ tươi năm xưa có người đã rủ đôi mắt đen lánh và xâu sa xuống tuổi thanh xuân tình tứ của tôi ; có người đã từng chút lên tôi những tiếng chua ngoa của một sắc đẹp và tự kiêu, vừa khêu gợi : nhận ra một cách phảng phất thôi chứ nhìn kỹ lại hoang mang. Không biết có phải là cố nhân không? nhất là họ không dám nhìn tôi hoặc chỉ dám nhìn một cái nhìn tôi tớ. Tôi se se trong lòng. Cuộc sống mới hồi lại một chút mà thôi, đủ để cầm chừng đặng ra tranh đấu và xây một đời sống tốt đẹp và sung túc hơn. Vết nanh của thực dân còn hằn nổi , đau khổ còn đầy rẫy chưa tiêu trầm. Chưa phải là hạnh phúc. Nghĩa là chưa mãn ý.

Rơm phơi đầy trong các ngõ mấy cái làng tôi qua. Chỉ những rơm là rơm. Bóng người thưa thớt. Tôi có cảm tưởng làng này như một hộp bánh ngọt mà người làm bánh điêu toa độn giấy quá nhiều. Nhiều gian nhà bỏ trống, chất toàn một thứ rơm óng ánh như tơ. Trẻ con gần như không có. Trận đói năm xưa đã mang đi hơn nửa dân số, và bệnh sốt rét định kỳ vừa qua tiêu diệt gần hết những phần tử còn sống sót. Hiu quạnh quá. Tôi rợn người như vào một xứ xa lạ. Người Việt Nam có lẻ tẻ thưa thớt đâu ? Tôi ưa sự đông đúc và những xum họp vui vầy. Tôi gần như ứa lệ trước một bức tường gạch rêu đen, dài đến hơn mười thước. Trên tường có kẻ rất công phu một biểu ngữ bằng vôi trắng nét già dặn “Một lá phiếu là một hòn đạn bắn vào đầu quân thù”. Hỏi ra mới biết bàn tay kẻ chữ kia là bàn tay một thanh niên đã chết trong vụ đói năm trước. Tôi ra khỏi làng, lòng uất ức, tưởng như có gì nặng chĩu chụp lên đầu. Bao nhiêu là tang tóc. Và cần phải bấy nhiêu nỗ lực. Lúa vàng làm cho tôi khuây khỏa. Tôi đã về tới cánh đồng nhà. Một tiếng gọi thân mật. Dưới ruộng lúa, một nông phu quen biết vẫy tay. Y cầm liềm đứng bên mộ mẹ tôi, cải táng từ lâu ở ruộng này. Mấy em thiếu nhi ý muốn ở làng bên đang loay hoay gặt lúa. Tôi bỏ xe lên bờ ruộng và xuống với người quen. Tiếng cười, tiếng gọi, tiếng hỏi thăm qua loa tíu tít từ những ruộng chung quanh. Nông phu này trước làm cho mẹ tôi, sau đi phu lục lộ, dành dụm được ít tiền tậu ruộng . Trong khi ấy thì nhà tôi sa sút, nhưng anh ta đối với tôi vẫn còn nhiều tình nghĩa. Tôi cũng học chàng Lévine trong một tiểu thuyết vĩ đại của Tolstoð, cùng gặt hái với dân quê. Tôi cầm liềm, giữa những tiếng cười bốn phía, tôi gặt được mười hàng lúa. Mộ mẹ tôi nay không lạnh lẽo, trái lại đầy hơi ấm mà người có thừa những ngày còn sống.

Tôi thấy một sự gì êm dịu. Không để ý tới tiếng sột soạt, tôi hình dung người mẹ đảm đang khi xưa, ngược xuôi buôn bán, vào sinh ra tử và làm lụng mãi cho đến giờ hấp hối. “Trời nào đóng cửa ai” tôi chợt nhớ đến câu nói quen quen mà mẹ tôi thường thốt ra trong những giờ u ám của một cuộc đời vô cùng vất vả. “Trời nào đóng cửa ai”, bác An nhỉ, tôi vừa gặt vừa nói chuyện với người nông phu.

– Vâng, y cười khì. Trời nào đóng cửa ai. Thật năm ngoái năm kia tưởng chết cả. Ăn cháo không xong. Chết, chết, cứ nghĩ đến mà rùng mình.

– Thế nào được mùa rồi tha hồ mà đánh bạc, đánh chén nhỉ.

– Thế nào lại đánh bạc mấy đánh chén. Cụ ... cấm rồi lại còn. Bây giờ thì chỉ mong cụ (Trời) cho mấy trận mưa làm mầu, còn khối việc cậu ạ. Đánh bạc mấy rượu chè có mà khốn. Tôi thôi cái tạng ấy đã lâu rồi, cậu ạ. Có các cụ trong làng đang kêu rào rạt vì Ủy ban không cho chén nhiều như trước nữa. Ủy ban nay khá lắm rồi.

– Thế thì tốt lắm. Đây là lúa nếp có phải không ?

– Đây là nếp mơ. Dùng để nấu cồn tốt lắm.

Tiếng máy bay làm cho y lơ đãng. Y nheo mắt nhìn lên trời, bỗng hỏi tôi :

– Không biết ta có máy bay xe tăng không cậu nhỉ. Trông thấy máy bay của Tây ngứa tiết lắm.

– Có chứ.

– Phải có mới được. Anh ta vừa bó lúa vừa cụp mắt xuống một cách nhẫn nại giọng nghiêm trang. Chúng cháu được mùa thế này, mừng thì mừng thật nhưng lúc nào cháu cũng nghĩ làm thế nào đuổi được thằng Tây đi, nước ta độc lập thì cháu mới được yên tâm mà các cậu cũng mới yên tâm ở ngoài .

Tôi cầm liềm tới gần y, lòng đột nhiên khấp khởi và vui đến tột độ. Tôi nhìn y muốn nắm chặt tay y. Ý thức quốc gia ở một người, có lẽ như giữa một khung cảnh lớn lao và đẹp đẽ, làm cho ngày mùa thêm ý vị, lòng tôi thêm tin tưởng. Tôi nghĩ không biết có phải anh lặp lại những lời tuyên truyền không ? Nhưng không, lời nói của anh có sức mạnh của thành thật. Vì thế nó sâu sắc thấm thía. Tiếng cần lao đạp đều như máu chảy. Lửa yêu nước ầm ỹ trong lòng mọi người. Tiếng búa của nhà máy Gia Lâm nghe càng rõ. Cánh đồng lúa cháy rực sáng chạy xô tận chân trời như từng một trận giáp lá cà. Những ngọn súng của chiến sĩ dựng chơm chởm trên những bông lúa hòa bình. Người nông phu tầm thường đứng kính cẩn trước mặt tôi trở nên vĩ đại như những nhân vật của Homère. Y chẳng là hồi quang của Bạch Đằng, Đống Đa, Nam Bộ ư ? Y chẳng là nguồn cần lao Việt Nam ư ? Tôi tự trách đã hoài nghi không công nhận cho y có thể nói câu kể trên.

Buổi chiều, tôi từ biệt người nông phu. Vừa đạp xe, tôi vừa nhắc trong lòng lời nói của y mà tôi sẽ đem khoe cùng các bạn Thủ Đô. Thỉnh thoảng tôi lắp lại một điệp khúc không biết tự tôi sáng tạo hay là cần lao thiêng liêng đưa đến. "Gắng sức nữa" và đời sẽ còn đẹp thêm, những lầm than sẽ hết. Điệp khúc ấy tự nó hát ở trong tôi và ở ngoài tôi. Toàn thân tôi chơi vơi giữa khúc nhạc của mầu vàng.

NGUYỄN HUY TƯỞNG

Tiết 3

NGUYỄN ĐÌNH THI

(1917–2003)

Tiểu Sử.

Sinh năm 1924 ở Savanakhet, Lào. Thi sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ và lại còn là nhà biên khảo sách triết học. Ở tiền chiến, ông viết nhiều sách khảo luận, triết học. Tác phẩm cùng loại ấy như : Triết học Einstein (Tân Việt 1942), Triết học Descartes (Tân Việt 1943), Triết học Nietzsche (1943), Siêu Hình Học (1943)... và tác giả những bải khảo cứu phân tích thơ triết học đăng trên báo Tri Tân, như Thơ triết học đăng ở số 135, 1944. Thảo luận về thành phần thơ triết, một vài ý kiến quan yếu như : Thơ triết học gồm hai phần rất dễ thấy : một phần thơ và một phần triết học. Nó tham lam hơn thơ, vì muốn có một hình thức đẹp và say sưa. Nhà thơ thường (xin chớ lầm với nhà thơ tầm thường) muốn làm rung động lòng người, nhà thơ triết học tham lam hơn muốn bắt người đọc phải suy nghĩ trong khi say sưa nữa. Vì thế một nhà thơ triết học kém nghệ thuật có thể thất bại khi làm thơ triết học. Kém tài ghép vần xếp nhạc, một nhà thơ triết học không thể làm say sưa kẻ đọc, cũng không bắt người nào suy nghĩ. Trái lại, nhà thơ ấy sẽ chỉ khiến người đọc bực mình. Nhưng một nhà thơ nghệ thuật vững vàng tư tưởng sâu sắc, có thể làm thơ triết học giá trị được không ?Thơ triết học có thể vừa bắt trí tuệ suy nghĩ, vừa ru tình cảm say sưa hay là trái lại ? Thơ có thể đi đôi với triết học...”

Vì thế thơ triết học phải xa lánh thứ triết học giả dối và ảo huyền, vì đó thực ra không phải là thơ triết học mà làm mê tín triết thơ. Còn nếu triết học chính đáng không thể đem vào thơ được vì thiết thực, và duy lý quá. Dùng thơ nói chuyện luận lý vừa buồn cười vừa khô khan. Nên triết học chỉ có một phần có thể đem vào trong thơ: ấy là phần phê bình, phần nói về sự đẹp xấu, sự phải trái , sự thiện ác, chú ý nhất đến phần triết học về nhân sinh. Thơ triết học có một giá trị tư tưởng khi nói về đời người vì trong phạm vi này, lý thì ít mà thiết thì nhiều hết sức...

Trong kháng chiến, ông sáng tác lối thơ mới gọi là thơ tự do. Thơ ông mở đầu cho một sự kiện mới về hướng thơ tự do diễn tiến của nền thi nghệ Việt Nam. Chịu ảnh hưởng từ Nga và Pháp, nhất là Simonov và Éluard, hai thi sĩ ấy đã gợi nguồn cho lối thơ tự do của Nguyễn Đình Thi. Những bài thơ như : Sáng Năm Xưa, Mít tinh, Không Nói... thơ đầy âm điệu tân kỳ có nội dung rất thoát ý. Nguyễn Đình Thi còn là tác giả Diệt phát xít, Thăng Long phi chiến địa... những bản nhạc điệu quân hành, nội dung đề cao sự chiến đấu chống xâm lăng. Trích bài Sáng Năm Xưa, bài thơ mang sinh khí mới của một trong những người kháng chiến đầu tiên năm 1945 đuổi thực dân Pháp tài xâm lăng.

1. SÁNG NĂM XƯA

Sáng mắt trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới.

Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em.

Gió thổi mùa thu vào Hà nội

Phố dài xao xác heo may

Nắng soi ngõ vắng,

Thềm cũ lối ra đi.

Lá rụng đầy.

Ôi nắng dội chan hòa,

Nao nao trời biếc,

Gió đượm hương đồng ruộng.

Hương rừng chiến khu

Tháp Rùa lim dim nhìn nắng.

Những cánh chim non

Trong vời nghìn nẻo

Mây trắng nổi tơi bời

Mấy đứa giết người

Hung hăng một buổi

Tháng tám về rồi đây

Hôm nay nghìn năm gió thổi

Trời muôn xưa

Đàn con hè phố

Môi hớn hở

Ngày hẹn đến rồi

Các anh ngậm cười bãi núi ven sông

Hà Nội !

Ôi núi rừng !

2. VỀ NHÀ

Về nhà chiều ba mươi

Áo ướt đẫm hai vai

Giữa trời mưa đứng sững

Nhìn quanh không một ai

Cỏ dại leo trên thềm

Hàng cau đứng lắng yên

Bếp từ lâu đã lạnh

Vại nước còn đầy nguyên

Đêm khuya ngồi đốt lửa

Ngoài hiên mưa ào ào

Thương vợ suốt đời khổ

Hai hàng nước mắt dài

Em nuôi đàn con nhỏ

Trăm nghìn nỗi gian lao

Suốt đêm trường súng nổ

Em gánh con đi đâu

Sáng sớm ta lên rừng

Mưa bay trên cánh đồng

Ta quay nhìn xóm cá

Xa dần bên bờ sông

Ta nhớ ngày hôm nay

Ta nhớ con sông này

Thắng giặc tao còn sống

Có tao không có mày.

1948

NGUYỄN ĐÌNH THI

(trích lại trong Thơ Kháng Chiến 1945–1954)

Tiết 4

QUANG DŨNG

(1918–1988)

Tiểu Sử.

Tên thật Bùi Đình Diệm (hoặc Dậu). Sinh 1918 ở Phùng, Sơn Tây. Mười tám tuổi sang Trung Hoa theo học ở Trùng Khánh Kháng chiến Đại Học Hiệu rồi tham gia mặt trận chống Nhật của Tưởng Giới Thạch. 1945 về nước giữ chức Ủy viên quân sự Bắc bộ. Sau làm tham mưu Trung đoàn Tây Tiến. Chiến đấu ở Liên Khu Ba. Năm 1951 rời quân ngũ; hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp.

Chất thơ Quang Dũng hào hoa tiểu trí thức, không sắt máu như Tố Hữu ở tiền và kháng chiến; nặng nề phần tình cảm con người. Những vần thơ nhẹ nhàng, hào hoa, thương nhớ hình tượng quê hương mà ông đã đi qua đều phản ảnh trong các thi bản : Đi, Tây Tiến, Chuông Ban Trưa, Đường Dài, Buồn Êm Ấm, Cô Gái Sơn Tây, Lính Râu Ria, Mẹ, Đôi Bờ... Nào là hình ảnh trong thơ có lá chuối phần phật reo, quán nghèo bún riêu bốc hơi ấm áp, chuối tiêu vàng, hoặc đâu đó có nàng thợ cấy, anh Vệ quốc kháng chiến trong lần Tây tiến.... Thơ ông gần gũi với tâm trạng người yêu quê hương khi phải xa quê hương ; bùi ngùi càng hơn nữa khi đọc thơ ông nói về hình ảnh nhớ miền trung châu xa xưa đành rời bỏ lên rừng chiến đấu.

Thơ ông còn phản ánh nếp sống con người mới trong một giai đoạn lịch sử, đây là Ngày Lớn. Những chàng trai trong thời binh lửa đầy lòng tin chính nghĩa tất thắng lên đường giúp nước. Ôi, kỷ niệm chan hòa và lòng yêu tổ quốc lâm nạn nguy cơ. Tôi nói đến Tây Tiến, một trong những bài thơ đẹp nhất hình tượng kháng chiến nói về đoàn quân từ miền trung châu lên rừng núi, từ cảm nghĩ đến nếp sống mới ghi lại thật tuyệt diệu. Và Xuân Diệu đã nhiều lần đem thơ ông bên mình đi các nơi ngâm cho đồng bào, anh em chiến sĩ thưởng thức. Phải nói rằng, nếu kháng chiến không có Quang Dũng quả là một thiệt hại lớn cho bình diện văn nghệ hưng phấn ở độ hứng khởi nhất.

TÂY TIẾN

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lớp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng tha thướt

Nhạc về Viên Chiên xây hồn thơ

Ai đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng thuyền trôi độc mộc

Trên dòng nước lũ hoa đong đưa

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên mũi súng bỏ quên đời

Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp sôi.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt chừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai đi Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.(11)

QUÁN BÊN ĐƯỜNG

Tôi lính quá đường trưa nắng gắt

Nghỉ nhờ đầy quán lệch tường xiêu

Giàn mướp nghèo không hứa hẹn bao nhiêu

Mùa gạo đắt, đường xa thưa khách vắng

Em đắp chăn dầy tóc em chĩu nặng

Tôi mồ hôi ra ngực áo chan chan

Đường tản cư bao suối lạ sương ngàn

Em mê sảng sốt hồng lên má đỏ

Em có một mình nhà hoang vắng quá

Mảnh chăn nào em đắp có hoa thêu

Hàng của em chai lọ xác sơ nghèo

Tôi nhìn lại mảnh quần nâu đã vá

Tôi chợt nhớ chúng ta không nhà cửa

Em tản cư tôi là lính tiền phương

Xa Hà Nội xa nhau từ một thuở

Lòng rưng rưng thương nhau qua dọc đường

Tiền nước trả em rồi nắng gắt

Đường xa xa, mơ mơ núi và mây

Hồn lính vương qua vài sợi tóc

Tôi thương mà em đâu có hay

QUANG DŨNG

Tiết 5

HỮU LOAN

(1916- )

Tiểu Sử.

Tên thật Nguyễn Hữu Loan. Sinh 1916 ở Thanh Hóa, là giáo học ban đầu, sau tham gia chiến đấu trong kháng chiến. Thơ ông giàu nhạc điệu, hình ảnh, rung cảm chân thành, lời nói đưa vào thơ chau chuốt, tự nhiên. Tác giả những thi bản : Gác chuông, Mầu tím hoa sim, Những người đi qua làng, Người quay tơ... Hữu Loan làm thơ tự do, thơ tự do dung dị, nội dung phong phú, phản ánh hình tượng mới trong nếp sống mới. Tình tiết lãng mạn cách mạng hướng thượng, đề cao chiến đấu chống xâm lược. Đọc thơ ông, hương vị buồn man mác, nhưng không phải nỗi buồn tiêu cực. Thơ ông truyền cảm, sâu sắc, không cầu kỳ. Mầu tím hoa xim là bài thơ đưa ông lên hàng thi sĩ có hạng trong bình diện văn học kháng chiến. Bài thơ này lần đầu được đăng đầy đủ trên báo Trăm Hoa, Nguyễn Bính trả nhuận bút 15 đ ( lương công nhân bình quân 27 đ/tháng)

MẦU TÍM HOA SIM

Nàng có ba người anh

Đi bộ đội

Những em nàng có em chưa biết nói

Khi tóc nàng xanh xanh

Tôi người Vệ Quốc quân

Xa gia đình

Yêu nàng

Như tình yêu em gái

Ngày hợp hôn

Nàng không đòi may áo cưới

Tôi mặc đồ quân nhân

Đôi giày đinh

Bết bùn đất hành quân

Nàng cười xinh xinh

Bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về

Cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng đời chiến chinh

Mấy người đi trở lại

Lỡ khi mình không về

Thì thương người vợ chờ

Bé bỏng chiều quê .....

Nhưng không chết người trai khói lửa

Mà chết người gái nhỏ hậu phương

Tôi về không gặp nàng

Má tôi ngồi bên mộ con

Đầy bóng tối

Chiếc bình hoa ngày cưới

Thành bình hương

Tàn lạnh vây quanh ...

Tóc nàng xanh xanh

Ngắn chưa đầy búi

Em ơi !

Giây phút cuối

Không được nghe nhau nói

Không được trông thấy nhau một lần

Ngày xưa ...

Nàng thích hoa xim tím

Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa

Một chiều rừng mưa

Ba người anh

Từ chiến trường Đông Bắc

Biết tin em gái mất

Trước tin em lấy chồng

Gió sớm thu về

Rờn rợn nước sông

Đứa em nhỏ lớn lên

Ngỡ ngàng trông ảnh chị

Khi gió sớm thu về

Cỏ vàng chân mộ chí

Chiều hành quân

Qua những đồi hoa xim

Những đồi hoa xim...

Những đồi hoa xim...

Mầu tím hoa xim

Tím cả chiều hoang biền biệt

Nhìn áo rách vai

Tôi hát trong mầu hoa

" Áo tôi sứt chỉ đường tà

Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu”.

HỮU LOAN


CÒN TIẾP ...




VVM.14.7.2021

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com