Chương
2
GIẢI
THÍCH TỪNG THỜI KỲ
2.1.
Môn Hóa Kỳ (Thần Tắc Kỳ)
Tại
sao gọi là Môn Hóa? Vì cái đặc sắc của thời kỳ này
là dân tộc ta đã chế ra được văn tự là thứ chữ
Môn Thư, chữ Hoa hình như con nòng nọc, ta gọi là lối
chữ khắc dấu mà người Hán đã dùng để chế ra chữ
Hán của họ. Thứ chữ Môn này, ở Mường còn có nơi
dùng, nhưng ở dân Thái thì đã bị pha trộn với chữ
Phạn của Ấn Độ mà biến ra một thứ chữ riêng. Ở
ta dấu tích thứ chữ ấy còn sót lại ở trong quan tài
bà Dương Thái Hậu (vợ vua Đinh Tiên Hoàng sau lấy vua Lê
Đại Hành) tại làng Sơn Dược tỉnh Ninh Bình, muốn biết
gốc tích thứ chữ ấy, ta phải lùi lại thời kỳ hơn
một vạn năm trước.
Theo
sử Tàu thì vua đầu tiên của họ gọi là Hoàng Đế,
theo sử ta thì vua đầu tiên của ta gọi là Viêm Đế.
Hai ông vua ấy là tiêu biểu 2 hành trong Ngũ Hành Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ. Số học của Tàu bắt đầu từ số 1
biểu hiệu của Thái Cực, lúc đó là đời Bàn Cổ (hỗn
độn), sau mới sinh ra Tam Tài là Thiên - Địa - Nhân, Trời
Đất chia ra 5 phương thuộc 5 hành là Đông (Mộc), Tây
(Kim), Nam (Hỏa), Bắc (Thủy), Trung (Thổ).
Năm
phương ấy là do 5 giống người làm đại biểu cho 5 hành
và 5 sắc, nên những người đại biểu đã dùng 5 sắc
mà đặt tên:
-
Bắc Phương (Thủy) sắc đen gọi là Hắc Đế.
-
Tây Phương (Kim) sắc trắng gọi là Bạch Đế.
- Nam Phương (Hỏa) sắc đỏ gọi là Viêm Đế.
- Trung Phương (Thổ) sắc vàng gọi là Hoàng Đế.
Theo thứ tự như trên thì loài người có văn minh trước nhất là giống Bắc Phương (Hắc Đế) tức là nòi Địch, giống người tối cổ ở Sibérie, thứ đến là người Khương ở Tu Di (Palmir) thuộc Tây Phương rồi đến giống người ở Đông Phương (Di) kế đến giống Viêm tức giống Việt ta ở Nam Phương và giống Hán là tập đại thành của mọi cái của các giống trên.
Tóm lại tất cả trên đây ta có thể thu thành đồ biểu:
Thái Cực
Tam Tài (Thiên Địa Nhân)
Thủy Kim Mộc Hỏa Thổ
Đế Bạch Đế Thanh Đế Viêm Đế Hoàng Đế
Văn minh theo sử Tàu, khi có lễ thắt nút tự bao ly (tức Phục Hy) nhận thấy con Long Mã (Rồng) dưới sông Hoàng Hà nổi lên có 55 điềm, bèn ghi lấy rồi chế ra Bát Quái đến đời Hoàng Đế mới sai ông Phương Hiệt dựa vào các dấu của Bát Quái mà chế ra thành chữ. Sau này vua Hạ Vũ lại nhân những vết trên lưng rùa thấy ở Đông Lạc mà vạch ra Cửu Trù. Chữ Hán và khoa số học của Tàu do ở đấy mà ra, mà 2 cái đó gọi làHà Đồ Lạc Thư, nhưng đó là do ghi chép của các sử gia Tàu và căn cứ ở sử Tàu là dựa vào Xuân Thu của Khổng Tử và các kinh sách của Khổng Tử đã san định lại, mà các kinh sách ấy đã bị sai lạc từ đời Phần Diến (hủy các điển tích xưa) trong đời nhà Chu, chứ không phải bị sai lạc sau đời Tần Thủy Hoàng là người đã đốt sách và chôn học trò.
Nhưng dù sao Hà Đồ và Lạc Thư cũng đã có trước đời Hoàng Đế mà chính là của dân Việt ta đã dùng làm vận dụng cho văn hóa khi còn giữ được chỏm Thái Sơn làm hoa địa để khống chế vũ trụ, vì vậy nên cái hèm (totem) của ta đã lấy con Rồng làm biểu tượng.
Sau đời Viêm Đế, khi dân tộc ta đã phải lùi xuống phía Nam, lấy Phong Châu làm hoa địa về đời Hồng Bàng vua Hùng Vương thứ VI còn cống hiến qua Tàu một con rùa chu vi 8 thước, bề mặt và trên mai rùa ghi đủ lịch số, thiên văn, số học, triết học. Sau vua Nghiêu đem kê cứu mà lập ra lịch Rùa (Qui Lịch) và ngay đến thời Lý Nhân Tôn, còn bắt được con rùa trên mai có văn tự, đem khảo sát thì nhận được 4 chữ “Y Bát Thần Khí”, xem đấy đủ biết Hà Đồ (Đồ vẽ trên mình Rồng) và Lạc Thư (Sách trên mai Rùa) vốn xưa là của giống Việt ta.
Trong thời gian chiếm lĩnh núi Thái Sơn làm hoa địa, ngoài cái đặc điểm chế ra văn tự (chữ Môn) dân tộc ta đã tới thời nông nghiệp (theo triết học gọi là thần tắc) còn xã hội tổ chức thì cùng theo lối bộ lạc gọi là Lạc Chế. Dân từng nơi bầu ra Lạc Hầu và Lạc Tướng. Ruộng cấy chia đều gọi là Lạc Điền, dân cấy rồi thì nạp thuế (theo lối bộ lạc bình sản kinh tế), nước thì gọi là Làng nên sau này mới có những danh từ như chữ Văn Lang đời Hùng Vương và Đào Làng đời Lý Phật Tử (chữ Làng ấy sau này theo chữ Hán mới viết đọc là Lang rồi sai lần đi).
Trong thời Môn Hóa này tức là thời kỳ thần tắc, dân tộc Việt đã dùng 2 vật sau này là hem (totem):
1. Rồng: Nghĩa là tỏ ý to lớn nhất lại hay biến hóa và đầy năng lực phấn đấu.
2. Tiên: Tỏ ý cao siêu sáng suốt, trường thọ.
Hai thứ trên là biểu dương của nguyên tố về vật chất và tinh thần. Nhưng chiếm núi Thái Sơn được một thời gian thì lại phải tranh đấu với các giống Di, Khương, Địch và Hán, nhất là với giống Hán từ Thiên Sơn (Altai) tràn xuống khá mạnh nên hoa địa Thái Sơn phải mất và dân tộc Việt phải lùi xuống phía Nam, lấy sông Dương Tử và Ngũ Hồ, Ngũ Lĩnh làm căn cứ địa. Đó là lần Nam Thiên Di thứ nhất, cuộc đấu tranh này đã chuyển từ văn hóa đến vũ lực nên các vũ khí đã tiến lên đến nghề rèn sắt. Vì có rèn sắt nên mới có nam châm, cái gốc chính của địa bàn (boussole).
Cuộc Nam thiên lần thứ nhất này là thời kỳ Viêm Đế, sau cuộc ấy hoa địa đã mất quyền khống chế vũ trụ cũng mất, mà nơi căn cứ mới là miền Dương Tử và Ngũ Hồ, Ngũ Lĩnh lại thấp nên tình thế dân tộc đã bị lung lay về mọi phương diện văn hóa, quốc phòng.
Sự thất bại đời Viêm Đế đã để cho ta những kinh nghiệm sau đây:
a. Mất Thái Sơn là mất cả sinh hoạt về vật chất và tinh thần vì đấy là một trọng địa , nơi nào chiếm được sẽ làm lễ phong thiên chiêu hồn tá (hồn tế?) (tá = phụ tá, tế = chủ) tất cả các tử sĩ và đắp nằm ở trên các ngọn núi đền thờ phụng tổ tiên, lại là một căn cứ quan trọng cho việc quốc phòng, có đủ điều kiện về kinh tế văn hóa để tiến, lui, đánh, giữ.
b. Vì sự thất bại ấy nên mất Hà Đồ Lạc Thư tức là mất vận động về tinh thần và mất cả bản lĩnh sống, cùng sáng tạo và đấu tranh.
c. Sau khi Nam thiên, các bộ lạc bị tan nát về thời kỳ trên, chúng ta có thể tóm tắt lại như sau: Đại Việt Viêm Đế:
1. Trọng điểm: Ngũ Hồ, Ngũ Lĩnh.
2. Kinh tế: Lạc Chế Bình Dân Bộ Lạc.
3. Văn hóa: chữ Môn, Hà Đồ Lạc Thư.
4. Hèm: Rồng Tiên.
2.2. Văn Hóa Kỳ (Đế Tắc Kỳ)
Tranh đấu Nam tiến:
a. Mất Thái Sơn (hoa địa: đất làm nổi, phát huy tinh hoa).
b. Hoạt động: từ quốc gia bình diện đến quốc tế lập thể hoạt động sang quốc gia lập thể.
c. Bộ lạc: Băng hoại phân tán.
Văn hóa: Đế Tắc Kỳ.
Thời kỳ này bắt đầu Nam thiên từ lưu vực sông Dương Tử và lưu vực 5 hồ 5 núi xuống Phong Châu, lấy nơi này làm hoa địa mới, lập ra nước Văn Lang, nên thời kỳ này gọi là văn hóa tức Văn Lang mà ra, đoạn sau khi mất hoa địa Thái Sơn xảy ra, văn minh thời này đã tiến lên sự trừu tượng, tư tưởng đón mọi quan niệm vào một mối do trời định (Đế) nên thời kỳ này gọi là Đế Tắc Kỳ.
Sau cuộc băng hoại của dân tộc Việt về cuối thời Môn Hóa, cái công việc quan hệ nhất của văn hóa là phải liên lạc những phần tử bị tan rồi để gây lại thành một khối, câu chuyện điển hình là một bọc trăm trứng tức là sự biểu tượng cho sự liên lạc ấy. Lưu vực của giống Việt chiếm cứ lúc bấy giờ là suốt từ 5 hồ, 5 núi cho đến hết phía Nam, bao quát cả Miến Điện xuống đến Mã Lai ăn ra các đảo ngoài Đông Hải và Java Phillipine.
Vậy mà về phía người Hán thì phạm vi hoạt động quốc tế của họ, phía Nam chưa ra khỏi núi Hằng Sơn, phía Đông không quá Đông Hải, phía Bắc chưa quá An Sơn (hồ Baikal) và Tây không quá Lưu Xá.
Còn về thời Hồng Bàng thì phạm vi hoạt động quốc tế của ta sau khi lấy Phong Châu làm hoa địa, dân tộc ta đã lấy Ngũ Hồ làm trọng trấn phía Bắc, Miến Điện làm trọng trấn phía Tây. Hiện nay ở lưu vực sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ còn hơn 10 triệu người Thái thuộc giống ta và ở Miến Điện có giống Thái nói nửa tiếng Mường và nửa tiếng Thái.
Tục Hèm về thời văn hóa (tức Hồng Bàng) này là vẽ hình mình, ăn trầu, nhuộm răng, thờ cúng tổ tiên, và các thứ thần, cắt tóc ngắn, quần áo lúc ấy thì lấy mảnh vải khoét lỗ mà chui đầu qua, không tay (như lối áo nâu nhiều miền quê còn mặc khi rước thần) và lối áo giáp ra trận như áo giáp mây khi Mạnh Hoạch chống nhau với Gia Cát Lượng.
Về tín ngưỡng thời này, ngoài việc thờ cúng tổ tiên và các thần còn có việc Chử Đồng Tử tu theo đạo tiên, mà hiện nay di tích còn ở Đầm Dạ Trạch (Hưng Yên) và ở núi Nam Giới thuộc Cửa Sót (Hà Tĩnh) Cam Lộc. Còn việc thần Tản Viên chế ra gậy thần và sách ước, tức là cái triết sáng tạo của ta: gậy thần là vô vi biến hóa, 2 đầu l à biểu hiệu sự sống chết và ở giữa tay nắm để vận dụng dẫn dắt loài người. Sống là bắt nguồn ở cái chết, chết là bắt nguồn của cái sống, vậy cần phải nắm giữ thế nào để vận động sự sống chết để quân bình, tức là sự tiến hóa thích trung, còn sách ước thì nguyên chỉ là tập giấy trắng, trông vào trắng tất phải nghĩ ngợi, tâm lý chung ai ai cũng ước vọng điều hay, điều tốt, do đó mà sáng tạo ra những cái hay, cái tốt và tiến bộ.
Chế độ sinh hoạt về thời này lúc đầu cũng như về thời Môn Hóa tức là theo lối Lạc Chế cùng Lạc Hầu và Lạc Tướng trông coi dân cày cấy (Lạc Điền) nhưng rồi dần dần cũng đi tới trạng thái quốc gia.
Theo một ngạn ngữ ở Nghệ An nói “Ông tát bể, ông kể sao, ông đào sông, ông trồng cây, ông xây rú, ông trụ trời” ta có thể thấy đó là dân tộc vô danh của thời ấy, đã xây dựng nên quốc gia và mưu cuộc lớn cho dân tộc.
Ông tát bể (đại biểu cho dân nông nghiệp) lúc ấy hóa những đồng lầy ở gần biển thành những ruộng cây lúa và trồng trọt, lấp bể mà trồng trọt.
Ông kể sao, đại biểu cho thiên văn khí số, để hiểu biết khu vực phương hướng tìm ra lịch số chỉ về những thời tiết thay đổi.
Ông đào sông, đại biểu sự khai phá giao thông để mở mang ngòi lạch dẫn thủy nhập điền, tránh nạn lụt, thông thương tiện lợi.
Ông trồng cây, bao quát cả về nông nghiệp, trồng trọt, mục súc, săn bắn, di dân.
Ông xây rú, khai phá rừng núi để làm dinh trại (quốc phòng) và trồng trọt, đan cây, xẻ gỗ, v..v..
Ông trụ trời, làm ra nhà để chống mưa nắng.
Sở dĩ làm như vậy được là vì thời ấy nơi trung tâm Văn Lang đã biết dùng sắt rồi. Dân Việt trong những cuộc đấu tranh kịch liệt chiếm giữ Thái Sơn đã vượt qua tuổi thạch khí, đồ đồng đến sắt, nên thời Hùng Vương thứ VII giặc Ân (nhà Ân giống Hán) tràn xuống xâm lấn, Phù Đổng Thiên Vương đã dùng ngựa sắt để chế ngự lại. Trong truyện Thánh Gióng còn dùng cả gậy tre đánh giặc, tướng Ân lúc ấy là Cao Tông Vũ định mang quân xuống ta nên trong Kinh Dịch mới có câu: “Cao Tông phạt quỷ phương, Xích quỷ nam phương tam niên khắc chế” và ở đối diện với đền Gióng ta còn thấy đền thờ Vũ Địch (thờ giặc). Lối đền ấy giống như lối đền Phạm Nhan (Nguyễn Bá Lĩnh), một tên Tàu lai làm gián điệp chỉ đường cho quân Nguyên (Mông Cổ) đã đứng đối diện với đền thờ đức Trần Hưng Đạo (khi lễ Thánh Gióng thì quay mông sang đền Vũ Địch, khi lễ đức Thánh Trần thì quay mông sang đền Phạm Nhan).
Trong cuộc xâm lăng này thì người Ân lại học ta được nghề châm cứu của bà Ma Thị, dùng ngải cứu đốt vào chỗ đau mà trừ bệnh, mà chính bà đã truyền cho quân lính Ân. Về hôn thú thì việc Mễ Nàng (Ba nàng Mỵ Nương) con vua Hùng Vương là Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử là một thứ hôn thú thời ấy có gả và cưới hẳn hoi.
Tóm lại, thời kỳ này là thời kỳ gắng sức của dân Việt để gom góp lại sự tan rã của Đại Việt cũ, xây dựng lại nền móng thống nhất phương Nam.
Đặc điểm của thời kỳ này là liên lạc, sáng tạo và đối phó:
1. Liên lạc hết thảy các phần tử Bách Việt xưa để thành lập một quốc gia phương Nam. Hiện nay những dân tộc cùng giống Việt ấy, ta còn thấy tản mát ở Ba Thục 50 triệu người, ở Vân Nam, Hồ Nam. Phúc Kiến, kể cả Lưỡng Quảng, người Việt xưa còn nhiều rồi người Thái, Mường, Chàm và các giống ở Phillipine và Nam Dương thời ấy cũng là giống Bách Việt cả.
2. Sáng tạo một văn hóa mới như gậy thần sách ước, ông tát bể, ông kể sao, v.v... dựa vào nền gốc cũ xưa, xây đắp một thứ mới để vận dụng cho sự liên lạc trên.
3. Đối phó một giống Hán luôn luôn xâm lấn nên việc quốc phòng là cần thiết, sắt đã phát minh từ khi còn chống giữ Thái Sơn, nên khi xuống Phong Châu đã biết dùng sắt ngay để làm khí giới quốc phòng. Về chuyện Phù Đổng Thiên Vương, nói là đứa trẻ lên ba tuổi vươn vai là biểu tượng lực lượng dũng mạnh kỳ dị của dân tộc, là tỏ ý toàn dân tham gia kháng chiến, nói gậy tre giáo mác là biểu hiện kháng chiến toàn thể dân tộc, áo mặc bằng bông lau (lá lau) biểu hiện sự bình dân. Rồi việc Phù Đổng đánh giặc xong lên núi Sóc Sơn mà hóa là biểu hiện sự cao khiết hy sinh vì nghĩa vụ trọn vẹn rồi thì danh lợi cũng không màng.
Trong
lúc thực hiện ba điều kiện trên đây thì dân tộc Việt
ở rải rác các bộ phận phía Bắc trên sông Dương Tử
từ thời Xuân Thu Chiến Quốc là thời loạn ly của giống
Hán, mà lần lượt mưu tính việc khôi phục lại khu vực
xưa, trước hết là Sở, rồi Ngô, rồi Việt, đều là
những nước Bách Việt cả, tổ chức những cuộc hành
binh lớn lao để lần lượt tranh giành lại đất cũ, đã
từng thắng và chiếm được ngôi bá chủ (Việt) và xưng
hùng (Sở) ở Trung Nguyên.
Bởi
vậy nên từ cuối đời Xuân Thu ở Tàu, bởi văn hóa, họ
đã tìm mọi cách để hủy diệt những cái cũ đi và học
lấy cái mới thông dụng ra, giống Hán thì biên chép lại,
sắp đặt lại cho nó có hệ thống để xóa nhòa những
dấu vết cũ của giống Việt, Di, Khương, v.v... từ
trước, mà coi các giống ấy chỉ là giống mọi rợ.
Người đại biểu cho công việc ấy là Khổng Tử, nên
học thuyết của Khổng Tử đã trái ngược với học
thuyết của Lão Tử ở phương Nam. Về chính trị thì họ
chủ trương Hưng Hoa Diệt Di (có cả Việt ở trong). Lối
nhân nghĩa và đạo đức của Khổng Tử là Hóa và Diệt
các giống khác, nhân nghĩa để liên lạc thay binh đao,
đạo đức thì như câu sách Nho: “Thoái nhi tu đức nhi
hậu miêu tộc từ suy dao, đắc đạo khả dĩ thứ nhân”
nghĩa là lùi không đánh, lấy đức mà hóa làm dân mình.
Cái
thủ đoạn ấy cũng là một lối đế quốc về đời
Chu, nên thời ấy Mặc Tử mới đề xướng thuyết kiêm
ái để đối lại. Thuyết của Mặc Tử cũng giống như
thuyết xã hội ngày nay.
Ngoài
những việc trên này về thời Văn Hóa (Văn Lang), chúng
ta còn ghi được những việc như sau:
1.
Đối Nội: Chính thể Hồng Bàng là từ chính thể Tiểu
Việt (bộ lạc rời rạc lên đến Đại Việt (liên lạc
Bách Việt) chính tự có Hoàng Đế Lạc Long Quân sau là
Hùng Vương hay Lạc Vương (chữ Long của Tàu là do chữ
thuồng luồng của ta), nước là Làng (Văn Làng), dưới
vua là Lạc Hầu tiên chỉ và Lạc Tướng, Lý Trưởng.
Sinh hoạt: Lạc Điền, ruộng của làng được chia đều
(quân điền chế), nòi giống Việt lúc ấy chia làm 3 hệ:
a.
Lạc Việt ở Quý Châu, Tứ Xuyên (Ba Thục)
b.
Xiêm La, Miến Điện
c.
Mã Lai, Java, Phi Luật Tân.
2.
Đối Ngoại: vừa tiêu cực vừa tích cực, đề kháng
tiêu cực bằng xây dựng lại hay báo thù và tích cực
bằng chiến đấu. Trong thời gian này, người Hán còn
mượn của ta mấy thứ:
1.
Đàn Bầu (âm nhạc)
2.
Cung tên (võ khí)
3.
Châm cứu (y dược)
4.
Rùa (Quy Lịch, thiên văn)
5.
Tiên đạo: Tôn giáo học thuyết là Lão Giáo biến thái.
6.
Nghề đúc sắt, Hoàng Đế đánh Suy Vưu Việt tìm kiếm
chế được nam châm.
Tóm
lược Văn Hóa Kỳ:
1.
Đời Hồng Bàng:
a.
Tái kiến văn hóa cũ
b.
Liên lạc dân tộc bị băng hoại
c.
Lập lại văn hóa mới, Gậy Thần Sách Ước đi ngay vào
sự dùng sách để gây dựng quốc gia.
d.
Chế độ quốc gia bình sản kinh tế, Lạc Chế theo chế
độ quân chủ phân quyền.
Hèm vẽ mình, ăn trầu, nhuộm răng, cắt tóc ngắn.
2.
Đối ngoại tắc:
a.
Đấu tranh bằng văn hóa và giao hảo bằng văn hóa với
giống Hán.
b.
Đấu tranh bằng vũ lực nếu bị xâm lăng, hay thừa cơ
loạn ly của giống Hán (ví dụ chống Ân hay Việt bá
Trung Nguyên, Sở hùng Chiến Quốc).
2.3.
Hồng Hóa Kỳ (Danh Tắc Kỳ)
Thời
kỳ này bắt đầu từ Thục Phán là cháu ngoại vua Hùng
Vương từ Ba Thục xuống chiếm Văn Lang làm Âu Lạc.
Trong sử nói, ông ta chiếm đất vua Hùng là theo lời dặn
của ông tổ ba đời thì việc không lấy được Mễ
Nàng, nhưng có lẽ không đúng. Tuy rằng đời Hùng có tục
đồng tính kết hôn (theo thuyết của Aurousseau) việc từ
hôn trên nếu có cũng chỉ là việc trong nhà, không có gì
thái quá như vậy và tuy xác nhận Thục Phán là người
nhà vua Hùng, là đương nhiên lên thế ngôi vua Hùng, không
phải là tranh cướp. Điều mà chúng ta cần chú ý là sau
khi Thục Phán lên ngôi, xưng là An Dương Vương, đổi Văn
Lang là Âu Lạc thì kinh đô lại đổi từ Phong Châu về
Loa Thành (thành trôn ốc gọi là Cổ Loa) từ Phong Châu về
Phúc Yên xa hàng trăm dặm. Thành trôn ốc xây cất kiên
cố cao trăm trượng. Muốn rõ những ý nghĩa ấy ta phải
hiểu bên đối phương giống Hán tình thế ra sao? Lúc ấy
là thời Chiến Quốc, dân Bách Việt giữ trọng trách ở
phía đông Dương Tử đã dồn cả vào một nước Sở là
một nước hùng cường (trong Thất Hùng). Trong 7 nước
hùng cường ấy, Tần là nòi Khương trội hơn hết, đi
tiêu diệt các nước khác, Sở cùng ở trong các nước bị
tiêu diệt. Ba Thục bị Tần chiếm trước tiên, sau khi
thống nhất Trung Nguyên, đối với Hán Tần Thủy Hoàng
cho tiêu diệt văn hóa đế quốc chủng tộc của nhà nho
đi, đối với Địch ở phương Bắc, Tần dùng Vạn Lý
Trường Thành để ngăn cản, đối với Bách Việt ở
phương Nam thì cho người đem quân sang đánh rồi đồng
hóa.
Xem
đây, ta thấy Thục Phán không phải là việc riêng định
thôn tính (hay đổi tên cũng thế) nước Văn Lang để lập
ra nước Âu Lạc mà thật ra là vì việc chống giữ cho
nòi Bách Việt, theo mưu kế của Cao Lỗ. Thục Phán xây
Loa Thành, vòng trôn ốc dài 100 trượng có gắn 9 vòng là
tỏ cái đạo sống tiến hóa của dân tộc từ nhỏ ra
to, từ hẹp ra rộng và Bách Trượng dài là để kỷ niệm
100 giống Việt, còn cái nỏ móng rùa của ông cha ta chỉ
là cái liên nỏ bắn 100 phát một của ta chế ra, người
Hán học được và truyền đến đời Tam Quốc thì mất.
Nỏ ấy là biểu tượng của Linh Cổ Thần Tắc, quân sĩ
tinh nhuệ bách chiến bách thắng, mà sách lược Cao Lỗ
là người đặt ra. Ta để ý điều này của Thục An
Dương Vương dựng Âu Lạc được ít lâu thì Nhâm Ngao
sang đánh. Trước Đà và Ngao, Đồ Thư và Liễu Lộc đã
đem 50 vạn vừa quân vừa dân sang đánh và hóa dân miền
Ngũ Lĩnh. Đồ Thư và Liễu Lộc bị dân Lục Lương (6
giống cứng cổ) đánh cho thua và bị giết, như vậy thì
Thục Phán xây Loa Thành không phải là để tranh ngôi với
vua Hùng, mà ông ta là đại biểu trong Lục Lương vậy.
Trong
thời kỳ Hồng Hóa này việc chống đánh của Lục Lương
là một việc quan trọng. Đáng ghi nhất là việc mở đầu
cho thời kỳ này, theo ý nghĩa của tập thông luận này
vậy. Hành động của Thục Phán vừa là đối ngoại cách
mạng vừa là quốc gia cách mạng. Nhưng rồi Thục Phán
đã thất bại có lẽ là vì đi quá trớn và vì giết Cao
Lỗ đi, mà không đủ sức vận dụng sách lược của Cao
Lỗ, Âu Lạc bị Triệu Đà là tướng Tàu cướp mất,
dân Bách Việt từ đấy lại bị tan rã.
2.3.1.
Hỗn Hợp thời đại
Quân
cách mạng, lực lượng có thể gọi là chính thức bắt
đầu từ khi Tần Thủy Hoàng thôn tính cả 6 nước rồi
cho Đồ Thư sang đánh Ngũ Lĩnh. Từ lúc An Dương Vương
mất Âu Lạc, từ đấy trở đi dân Bách Việt lại phải
một phen băng hoại và lưu tán, nên công việc của dân
tộc lại phải cố để mưu một tương lai thoát khỏi sự
áp bách của dị chủng và khôi phục lại những nền gốc
xưa. Thời đại này là thời đại hỗn hợp bắt đầu
từ lúc Triệu Đà lập ra nước Nam Việt cho đến khi vua
Đinh dựng lại nền độc lập hoàn toàn.
Thời
hỗn hợp này chia ra làm hai thời kỳ: Nam Việt thời và
Tiểu Việt thời:
A.
NAM VIỆT THỜI
Triệu
Đà là quan nhà Tần theo Nhâm Ngao sang thôn tính Bách Việt,
sau khi Đồ Thư, Liễu Lộc chết trận, Phiên Ngung (bây
giờ là Quảng Châu) lại ly Sở cho Đà làm chức lệnh ở
Long Xuyên. Ít lâu sau, Ngao chết, Đà lên thay rồi sau khi
Tần mất nước, Đà chiếm được Âu Lạc mới xưng là
vua, đặt tên là Nam Việt (2072 trước Thiên Chúa?).
Vì
sao Triệu Đà lại lấy tên nước là như vậy? Mà chữ
Việt ấy có đúng không? Theo sách Chúc Phương của nhà
Chu nói về dân bộ thì từ Dương Tử Giang trở xuống có
Cửu Mân, Bát Lạc, Tam Ân là Bách Việt, chữ Việt ( )
này mới đúng là tên của ta, còn chữ Việt ( ) của
Triệu Đà là có ý khinh mạn và nhất là có chữ Nam ( )
ở trên, mới càng tỏ vẻ một tên đặt có chính trị ở
trong. Việc Triệu Đà là nòi Hán sang ta dựa vào lúc lực
lượng suy vong của ta mà lập được nền thống trị
nhưng ở về phía Bắc đang còn có Ngô Việt, Mân Việt,
v.v... nên Đà mới gọi là Nam Việt và sở dĩ Đà lập
được Nam Việt cũng là nhờ tình thế loạn ly của giống
Hán sau đời Tần và các giống Việt ở phía Bắc chống
đỡ cho cách biệt hẳn với Hán, mà Phiên Ngung lại là
nơi hẻo lánh xa xôi. Việc làm của Triệu Đà từ khi
diệt được Âu Lạc mà lập ra Nam Việt lại có hai mục
đích khác nhau.
Lúc
còn nhà Tần thì Đà là một đại biểu cho chủ nghĩa
xâm lược của Tần, chỉ biết theo chính sách của Tần
mà làm tròn bổn phận. Đến khi Tần bị diệt thì Đà
vừa là tình thế, vừa nhân cơ hội loạn ly mới tự
xưng làm vua chiếm cứ một phương, nhưng dù cố ý hay vô
tình, công việc làm của Triệu Đà cũng chỉ dồn vào
mục đích chung của giống Hán là tiêu diệt các dân tộc
xung quanh Hán. Lúc đầu, Đà theo kế hoạch của Tần là
đem quân sang đánh và đem dân sang hóa ta theo họ, nhưng
việc đánh đã gặp nhiều sự khó khăn gian nan do sức
chống đánh và mưu mẹo du kích của dân Lục Lương, còn
việc đồng hóa cũng không đem đến kết quả là bao
nhiêu. Ta cứ xem hiện nay còn một số người Mán nói
tiếng Quan Hỏa ở các miền rừng xứ Bắc Việt thì đó
là di tích sự đồng hóa ấy. Đến khi lập thành Nam Việt
thì Triệu Đà tuy xưng Đế xưng Vương nhưng cũng phải
thỏa hiệp với dân Việt và cũng vào hàng ngũ chống xâm
lăng của Hán sau này. Tuy mục đích của Triệu Đà chỉ
là mưu một nền thống trị cho mình và cho con cháu mình,
nhưng không thể đi trái ngược ý định và nguyện vọng
ở xung quanh của mình đang cai trị, nên chính sách Triệu
Đà lúc ấy chỉ là kiểm soát, không đồng hóa nổi nên
dân Việt vẫn được tự mưu sự sinh hoạt theo lề thói
của mình.
Sách
lược của Triệu Đà lúc bấy giờ ta thấy chú trọng về
quốc nội trong đó có 7 nhân tố như sau:
1.
Liên lạc các giống Việt ở các nơi như Ngô, Sở, Mân
để thành lập đồng minh.
2.
Lợi dụng các giai cấp quý tộc ở Mân, Ngô, v.v... để
kéo cánh về mình.
3.
Kinh tế: Từ Dương Tử Giang trở xuống thực hành chế
độ bình sản kinh tế, lợi dụng để kiến thiết quân
đội địa phương.
Chú trọng đến Trường Sa (Hồ Nam) là nơi mũi dùi rất
lợi hại cho sự xâm lược của Hán từ Bắc xuống Nam.
5.
Đối nội: Lợi dụng lúc bộ lạc cũ để cho tự trị
mưu việc ổn định bên trong.
6.
Ngoại giao: Lợi dụng tình thế còn non nớt của Hán vừa
cứng vừa mềm để giữ vững địa vị của mình ở
phương Nam.
7.
Thừa hưởng được tình thế lúc ấy, các nước theo văn
hóa Hồng Bàng như Đại Chiếm Nam Dương cũng bị suy yếu
nên chỉ lo việc chống Bắc.
Bởi
nhờ 7 nhân tố trên nên chiến lược của Triệu Đà từ
lúc còn Hán Cao Tổ cho đến khi Cao Tổ chết, Lã Hậu
lộng quyền tuyệt giao với Nam Việt và khi Hán Huệ Đế
lên, Triệu Đà lúc bấy giờ thấy có cơ hội thì yên
chí mới xưng thần phụng cống, lúc bị đe dọa thì cùng
với các nước đồng minh phía Bắc cùng làm thế ỷ dốc,
đem quân đánh thẳng vào Hồ Nam (Trường Sa) đánh cho Hán
sợ rồi lại rút quân về phòng thủ, nhưng sau đó Hán
sợ, Hán điều đình, Đà lại xưng thần như trước. Xem
đấy ta thấy sách lược của Triệu Đà chỉ là mưu
riêng cho con cháu mình về sau, và nhân đấy đã vô tình
giúp cho các mưu xâm lược của Hán về sau này vì Triệu
Đà mắc mấy nhược điểm sau đây:
1.
Kiến quốc không triệt để vì Đà là giống Hán, dân là
giống Việt nên giữa kẻ cầm quyền và dân không ai thực
lòng với ai.
2.
Quốc phòng không triệt để, không chiếm được trọng
địa Trường Sa là mũi dùi của sự xâm lược Hán xuống
phương Nam.
3.
Vì đồng minh là Ngô, Sở, Mân sau khi Triệu Đà chết
không liên lạc với Nam Việt mà lại còn thù oán đánh
nhau nữa.
Bởi
3 nhược điểm trên nên sau khi Triệu Đà chết chỉ được
vài ba đời Nam Việt lại bị Hán thôn tính một cách nhẹ
nhàng và khôn khéo, như ta đã thấy việc tướng Việt là
Lữ Gia giết Cù Thị là mẹ Ai Vương và Thiếu Quý là sứ
giả nhà Hán. Việc làm của Lữ Gia chỉ là một phản
ảnh của một sức lực rời rạc của dân tộc Việt,
nên kết quả chẳng ăn thua gì, và mưu xâm lược của
Hán đã đạt được một cách nhẹ nhàng sau khi xóa nhòa
được tên Nam Việt chỉ là cái danh hiệu biến hình.
B.
TIỂU VIỆT THỜI
Trước
Nam Việt của Triệu Đà, Tàu gọi nước ta là Tượng
Quân, khi Hán xóa nhòa được Tượng Quân Nam Việt thì
đổi nước ta là Giao Chỉ Quận, cắt quan sang cai trị.
Lúc đầu thủ phủ của Giao Chỉ là Quy Lân (Thuận Thành
Bắc Ninh) sau dời về Thương Ngô (Quảng Tây) đến cuối
cùng lại dời về Phiên Ngung (kinh đô cũ của Việt). Xem
sự lùi thủ phủ ấy ta thấy một nguyên nhân gì ở
trong chính sách. Hán hay Tần chỉ là quan sang kiểm soát,
đó là lối đế quốc thực quan chứ không phải thực
dân, bờ cõi của quận Giao Chỉ là gồm tất cả Quảng
Đông, Quảng Tây và Nam Việt; sau vụ thất bại của Lữ
Gia không phải cứ im lặng mà chịu sự đè nén của nòi
Hán, mặc dù chính sách của Hán coi Giao Chỉ là nơi cống
hiến các sản vật như quế, ngọc trai, chim Trĩ, v.v...
còn các bộ lạc được tự trị theo lối lạc chế xưa.
Bởi vậy về sau này dưới sự đè nén của thái thú Tàu
là Tô
Định,
ông Thi Sách và Hai Bà Trưng mới có cuộc âm mưu chống
lại. Khi còn tổ chức lực lượng
cách mạng vì sự bị tiết lộ, ông Thi Sách bị giết,
vợ ông là bà Trưng Trắc và em là Trưng Nhị mới thay
ông nắm lấy lực lượng để vừa trả thù vừa mưu
cuộc giải phóng cho dân tộc trong một thời gian rất
ngắn, Hai Bà đã thu phục vào tay 65 thành trì, nhưng chống
giữ được 3 năm thì lại bị tướng nhà Hán là Mã Viện
đem quân sang đánh. Trước sự xâm lăng quá mạnh, Hai Bà
bị thua và tự tử chết, đất nước trở lại sự đè
nén của nhà Hán. Xét sự thất bại của Hai Bà Trưng lúc
ấy là vì dân tộc Việt từ thời Nam Việt của Triệu
Đà đã bị tan nát rồi, khi Hán diệt Nam Việt lập ra
Giao Chỉ quận, tuy chỉ cho quan sang kiểm soát và cai trị,
nhưng có nhiều bọn quan thứ sử như Tích Quang, Nhâm
Diên, Sĩ Nhiếp cũng đã dùng những thủ đoạn đồng
hóa, làm giảm bớt cái tinh thần dân tộc đi nhiều, tuy
vậy vẫn có sự kết lập lực lượng mạnh mẽ chống
lại xâm lăng của Mã Viện .
Việc
thất bại của Hai Bà đã mở đường cho cho nhiều giai
đoạn hay về sau trên lịch sử Việt. Từ cuộc thất bại
của Hai Bà cho đến lúc vua Đinh dựng nền độc lập,
non 1000 năm dân tộc ta không mấy lúc không có những vận
động giải phóng. Bà Triệu đời Tam Quốc, Lý Nam Đế,
Lý Phật Tử, Mai Thúc Loan, v.v... đổ đồng cứ non 100
năm lại có một cuộc cách mạng.
Tựu
trung có một việc ta đáng chú ý nhất là trong thời kỳ
này, ông Khu Liêm dòng dõi Hồng Bàng đem một số dân
thuần túy Việt vào phía Nam đất Nhật Nam (Quảng Bình)
lập ra nước Lâm Ấp, vừa gây dựng lực lượng dân tộc
cũ, vừa ngăn sức tràn ra phía Nam của giống Hán. Dân
Chiêm Thành này về sau này bị dân tộc ta ở phía Bắc
vào tiêu diệt đi, kể ra là một sự đau thương, nhưng
cũng là việc tất nhiên của lịch sử. Non 1000 năm dưới
sự đè nén của giống Hán, dân Chiêm Thành chẳng những
đã ngăn không cho tràn vào phía Nam mà nhiều khi còn mưu
khôi phục lại phía Bắc, về đời Đường đã giúp vua
Mai Hắc Đế chống lại Tàu, gây ra một nước Văn Lang
(Nghệ An). Những hành động của Khu Liêm về sau có thể
nói là cuộc cách mạng thuần túy Việt hết sức tìm
cách tiến lên để khôi phục lại căn bản xưa, đó có
thể nói là một sự sửa soạn cho cuộc quật khởi Hồng
Việt về sau này. Một điều ta còn nên để ý về thời
này là văn hóa phía Bắc cũng muốn mang văn hóa Khổng
Nho xuống nhồi cho ta, bên Ấn Độ đạo Phật (cả Bà La
Môn Giáo) cũng đã tràn lan qua các miền Chiêm Thành, lúc
ấy miền này cũng đã hấp thụ văn hóa Ấn Độ nhiều
rồi, mới chuyển qua Giao Chỉ rồi lên Bắc. Ta có thể
nói văn hóa Ấn Độ truyền sang Tàu do 2 mũi dùi, một
mũi qua Tân Cương Tây Tạng vào phía Tây nước Tàu, còn
một mũi từ Chiêm Thành qua Bắc Việt sang, nhưng trước
khi đạo Phật truyền vào Tàu thì đạo tu tiên của Bách
Việt đã giúp cho văn hóa Tàu nhiều. Đời Tần Thủy
Hoàng rất sùng đạo Tiên, đời Hán Vũ Đế cũng rất
sùng tín. Thần Tiên là đạo gốc của ta thời Tiểu Việt
này, trung tâm hoạt động của dân tộc ta là dồn cả
vào trong Bách Việt trước khi Nam Việt chưa bị Hán diệt
thì hoa địa của ta từ Phong Châu rồi lên Phiên Ngung
trọng địa Ngũ Hồ Ngũ Lĩnh rồi đến Quế Châu (Quảng
Tây) từ khi thuộc Hán, hoa địa và trọng địa thành vô
dụng, lúc này dân tộc ta dồn vào nơi trung tâm hoạt
động là tiền sông Nhị Hà. Sau đời Vũ Đế thứ sử
Sĩ Nhiếp sau một cuộc thuyên dời thủ phủ sang Thượng
Ngô Phiên Ngung lại lấy Quý Sâm (Thuận Thành) làm thủ
phủ, đến đời Đường thì đã bị đổi tên Giao Chỉ
quận (Giao Châu) sang An Nam đô hộ phủ mà thủ đô của
ta lại là Loa Thành (Hà Nội) nên trung tâm hoạt động
của dân tộc ta thời Tiểu Việt đã dồn cả về vùng
Loa Thành, lúc đó Tàu hay ta cũng lấy đây làm đầu não
mà đánh lại với họ và cùng lấy đây làm mục đích.
2.3.2.
Hồng Việt thời đại
Thời
đại này là bắt đầu từ vua Đinh Tiên Hoàng dùng sức
Vạn Thắng (thắng hết cả mọi thứ về lực lượng
cũng như văn hóa) để xây dựng nền độc lập cho dân
tộc Việt. Ta có thể nói cái sức Vạn Thắng của vua
Đinh là bắt đầu phôi thai từ đời hai bà Trưng trở
đi, mà thời quá độ là thời Ngũ Quỷ ở Tàu, các ông
Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ sang Dương Diên Nghệ rồi Ngô
Quyền chuyển biến nó lên đến đời sau của vua Đinh,
cái sức ấy mới vô cùng mãnh liệt. Ngọn cờ Bông Lau
là biểu hiện của dân chúng toàn thể, là tinh thần của
cái sức Vạn Thắng tên Hoa Lư (bông hoa lau) được lấy
đặt cho kinh đô nước Đại Cồ Việt cũng là để kỷ
niệm cái tinh thần toàn dân cùng nổi dậy theo cởi mở
gông xích cho Việt. Nhưng công cuộc cách mạng Vạn Thắng
còn đủ cho ta thấy những đặc điểm về đời tái sinh
cải tạo ấy.
a.
Về văn hóa: Đạo Phật chiếm độc tôn, trên chữ Nho
dùng chữ Nôm.
b.
Về quân sự: Sau việc tiêu diệt sứ quân, quân lính hầu
hết là dân quân đều tập trung vào quyền chỉ huy của
tối cao nguyên soái, thập đại tướng quân Lê Hoàn nên
việc quốc phòng rất chuyên (chuẩn bị).
c.
Về chế độ xã hội: nước hoàn toàn độc lập, tuy nhà
vua có lập lối Phong Điền, nhưng theo lối Lạc Chế quân
điền vẫn thực hiện.
Tóm
lại, kiến thiết rất chuẩn bị, nhất là kinh đô lại
đóng ở Hoa Lư có đủ thiên hiểm để đối nội và đối
ngoại.
Sau
đời Đinh nhà tiền Lê (Lê Hoàn) lên thay có theo chế độ
trước, nhưng Lê Hoàn tuy là quân nhân, lại là giới Nho
học, nên có hơi thiên về Nho, vả lúc ấy, đối ngoại
vừa Tàu vừa Chiêm Thành đều phải dùng vũ lực nên
không cải tạo được bao nhiêu. Đến đời sau là Ngọa
Triều, chính thể lại thối nát, không tiến được bước
nào, cũng như việc kiến thiết cũng thế, nhưng cùng là
một thời kỳ quá độ để chuẩn bị cho nhà Lý về
sau. Lê Ngọa Triều chết, Lý Công Uẩn là Thập Đạo
Tướng Quân lên làm vua, từ đây việc kiến thiết bắt
đầu nảy nở, kinh đô từ Hoa Lư dời ra Thăng Long, rộng
rãi hơn, vua nhà Lý đã xây đắp được nhiều việc đáng
ghi.
Từ
khi chế độ phong kiến bị đổ, chế độ quân điền
lại áp dụng cho toàn dân, văn hóa tuy sùng Phật nhưng
lại chú trọng về Nho có sức ứng dụng vào việc kiến
thiết nhiều hơn, quân đội chú trọng về dân binh, lấy
nông dân làm binh chia ra từng khu huấn luyện để dân có
thể làm lính, chính trị lấy triều đình hợp với quốc
dân, vua thường đến từng làng ăn họp và hỏi ý kiến
dân. Về đối ngoại, nhà Lý thừa dịp nhà Tống có cuộc
chia rẽ tân cựu đảng, sai Lý Thường Kiệt mang quân
sang uy hiếp hai châu Khâm Liêm để làm tan sách lược của
Tàu định lăm le mưu xâm chiếm. Công cuộc này đã gây
một thời kỳ quá độ cho nhà Trần về sau chống Mông
Cổ.
Hết
Lý, Trần lên. Cuối Lý sự xa hoa của triều đình không
vừa lòng dân và vì vua đã tỏ ra chuyên chế độc đoán.
Nhà Trần lên thấy ý dân đã cao, có quan niệm mạnh mẽ
về quốc gia mới nhân đấy lấy vua làm quốc gia, chế
độ phong kiến trang điền bỏ hẳn, chính nhà vua ở Tức
Mạc cũng không có gì, mở rộng trường dạy văn và võ,
cấm ngặt uống rượu và đánh bạc, Nho và Phật đồng
thời thịnh hành và khuyến khích, vua già thoái vị làm
cố vấn (Thái Thượng Hoàng) và đi tu (tránh nạn vua ít
tuổi và non nớt).
Quốc
sử bắt đầu chép lấy gốc từ Triệu Đà dựng ra Nam
Việt, dùng chữ Nho để phổ thông văn hóa, nhờ có sự
cải tạo văn hóa ấy mới chống được Mông Cổ, một
sức mạnh qua thế giới lúc bấy giờ.
Trần
suy, Hồ Quý Ly cướp ngôi, lúc ấy ý thức kiến thiết
Trần đã cằn và trái thời không hợp với quốc dân.
Quý Ly có tài nhưng không thành nên việc xã hội không
làm nổi trừ đạo Phật, cải lương Nho, mở bờ cõi
thiên đô về Thanh Hóa, rút cục gây nội loạn, nhà Minh
thừa cơ hội tràn sang, vì vậy mà mất nước. Xét sự
mất nước này, tuy bấy giờ Hán mới đem binh sang đánh
chiếm, nhưng thực ra từ đời Trần Nhân Tôn trở đi,
nước nhà đã quá thiên về Nho học, kinh tế phần nhiều
dùng toàn đồ Tàu. Nghệ thuật như văn chương ca xướng
cũng đã bị Tàu hóa thì sự mất nước chẳng phải đời
Hồ mà từ trước lúc ấy.
20
năm Minh chiếm cứ, dân bị bắt buộc theo Tàu, phải mặc
áo Minh, sách vở phải bị tịch thu đem về Tàu đốt đi,
bắt dân phải tìm ngọc trai, săn voi trên rừng để cống
hiến mọi thứ thật là đau khổ.
Nhưng
có sự đè nén thì sự quật cường càng cao, vì vậy mà
có cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của vua Lê Thái Tổ bật lên,
hơn 10 năm chống đánh bằng toàn lực hăng hái, khiến
quân Minh phải bỏ đất Việt kéo quân về nước. Cuộc
cách mạng Lam Sơn đã thành công bằng đủ mưu mẹo khôn
khéo của vua Lê. Trong 10 năm nhà Minh đã hà hiếp bóc
lột, dân ta bị hao mòn cả vật chất lẫn tinh thần.
Cách mạng xuất phát được không phải là dễ, nhưng vua
Lê đã khéo léo lợi dụng ngoại giao với Chàm và Lào
làm hậu địa, lại khéo léo biết dùng các cách đánh
chiến thuật nên quân Minh dù mạnh cũng không chống lại
được, vì họ chỉ có quân đội sang đông, thành trì
bền vững, nhưng vua Lê có toàn thể dân chúng ủng hộ.
Vua Lê lên làm vua lúc ấy như trong cái nhà sụp đổ, nên
việc chỉ là sửa soạn, đối nội còn vướng dòng dõi
nhà Trần cùng trăm người ủng hộ, nên đối ngoại cũng
là một việc gian nan về ngoại giao, về phía quốc dân
thì tinh thần đã lên cao, sự cải tạo những chế độ
cũ là cần thiết, nhưng mà vua Lê Thái Tổ không đủ sức
làm thỏa mãn lòng dân, vì vậy mới có việc loạn của
Nghê dân và việc giết công thần. Đến đời Lê Thánh
Tôn, sự kiến thiết mới quy định và thực hiện, các
làng được tự trị (theo Lạc Chế), ruộng đất cùng
chia đều (công điền) nhưng cũng cho những người có
tiền tậu để làm tư sản, chính trị vừa phân quyền
(làng) vừa trung ương tập quyền (triều đình), pháp luật
làm mới lại và rất rộng rãi kỹ lưỡng, giáo dục mở
rộng (24 điều giáo hóa ra khắp dân chúng). Quân lệnh
cũng quy định lại và gia tăng thêm, củng cố quốc
phòng, đất đai khai khẩn thêm, đê điều đắp lại kiên
cố, các nghề nhất là nghề thuốc nam được khuyến
khích.
Một
việc đáng ghi nhất là việc làm lại quốc sử lấy gốc
từ đời Hồng Bàng, có lẽ đó là do các kết quả kê
cứu từ đời nhà Trần đã tìm ra được những gốc gác
xưa mà vì thế quân Minh mới cho thu hết các sách vở của
ta đem về làm lăng chăng? Sau đời Lê Thánh Tôn ít lâu,
các vua kế nghiệp không đủ sức thực hiện các chế độ
trước, các chế độ ấy đã gây ra một sự thể mới
trong dân chúng, rồi Mạc Đăng Dung lên ngôi, Nguyễn
Kim, Trịnh Kiểm phù Lê diệt Mạc, nước nhà chia làm hai
phe tranh giành. Khi Mạc tan, Nguyễn–Trịnh lại đánh nhau
gây ra cái thế một vua hai chúa nội loạn luôn luôn kế
tiếp, sự thống khổ ấy đã luôn luôn hun đúc trong lòng
người dân Việt một ý thức dân tộc thống nhất. Vì
vậy mà nhà Tây Sơn, mấy anh em nông dân xuất hiện ra,
người trội nhất là vua Quang Trung đã thừa cơ hội,
trước sau đánh bại cả hai phe chúa, rồi thống nhất cả
nước. Nhờ có sự thống nhất và lòng dân ủng hộ mãnh
liệt (vì họ đã thỏa mãn) nên vua Quang Trung mới đủ
sức phá cái mưu xâm lăng của Mãn Thanh, đánh cho quân
của Tôn Sĩ Nghị thua liểng xiểng không còn một mảnh
giáp mà rút về Tàu, nhưng rồi nhà Tây Sơn cũng thất
bại. Sự thất bại này do hai nguyên nhân:
a.
Tuy Tây Sơn khi đã thống nhất lại muốn xây dựng quốc
gia theo lối quý tộc của các vua chúa trước, trái với
ý thức dân tộc thời bấy giờ.
b.
Làn sóng Âu Châu đã tràn sang mạnh mẽ, người đón được
làn sóng ấy và chiều theo nó là phe cừu địch của Tây
Sơn, tức là Nguyễn Ánh, dòng dõi chúa Nguyễn có nhiều
âm đức với dân phía Nam nước Việt từ Quảng Bình đến
Cà Mau.
2.4.
Dân Hóa Kỳ
Theo
thời kỳ này có thể bắt đầu từ khi Gia Long nhờ quân
Pháp (do cố đạo Bá Đa Lộc) làm môi giới để dứt nhà
Tây Sơn mà thống nhất cả nước. Như trên đã nói, sở
dĩ vua Gia Long xây dựng được cơ nghiệp tuy có nhờ ở
sự võ trang của người Pháp và Tây Ban Nha nhưng ở trong
lại có bọn quý tộc và sức dân chúng lúc ấy phân tán
sự phản đối của Tây Sơn và phần nào bọn quý tộc
chịu ảnh hưởng của văn hóa Tàu giữ đỡ nên vua Gia
Long lên ngôi rồi thì từ pháp luật cho đến việc học
đều chịu ảnh hưởng Tàu rất nhiều .
Tuy
đến đời Minh Mạng cũng có ý muốn gây một văn hóa
riêng của nước nhà như việc bắt phụ nữ Bắc Việt
mặc quần không được mặc váy, như câu ca dao:
Tháng tám có chiếu vua ra,
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông
Đi thời phải lột quần chồng sao đang.
Những ảnh hưởng của Tây Sơn rất mạnh, thêm vào đó ảnh hưởng của Thiên Chúa Giáo dồn dập đến cũng không kém phần mãnh liệt, vì vậy kiến thiết thời ấy có ba phái:
1. Thiên về Hán học (bọn quan liêu quý tộc).
2. Thiên về chữ Nôm (bọn học giả đi sát dân chúng hay bị ảnh hưởng).
3. Thiên về Tây học (theo đạo Thiên Chúa).
Văn hóa bị ba trào lưu giao động nên việc kiến thiết rất là tròng trành không vững đến đời Thiệu Trị trở đi, thế lực phía Tây (theo đạo) lại mạnh mẽ và thế lực phía theo Hán (triều đình quan liêu) cũng mạnh trở thành xung đột (giết đạo) dân chúng là vật ở giữa bị lợi dụng đã tranh giành, gây ra nạn mất nước từ cuối đời Tự Đức.
Trước cái nạn mất nước ấy phái duy tân cải cách nổi dậy, có cố đạo ủng hộ (Nguyễn Trường Tộ) nhưng phái thủ cựu (bảo thủ) văn hóa Tàu phản đối nên phái trên thất bại rồi Pháp dùng vũ lực can thiệp chiếm nước, sĩ phu (quan lại và học trò) đứng lên chống lại tức là Đảng Cần Vương, nhưng việc thất bại, nhà vua xui hàng, sĩ phu bèn lập ra Văn Thân để chống. Khi Văn Thân thất bại, phái Duy Tân đổi mới lại quật dậy và đại biểu là Phan Sào Nam.
Việc nổi dậy của phái Duy Tân ta có thể chia ra làm 3 thời kỳ:
1. Từ 1900 đến 1918.
2. Từ 1919 đến 1939.
3. Từ 1940 đến 1950 và tiếp đến 1951-2000.
Về thời kỳ thứ I vừa vận động văn hóa dung hòa cả Á lẫn Âu ở trong nước để thức tỉnh dân chúng cùng giác ngộ mưu việc cải tạo xã hội và chống xâm lăng, vừa tìm ngoài viện ở các nước mạnh ở Á Đông để giúp sức cho mà khôi phục lại đất nước. Phong trào cắt tóc ở Nam, Đông Kinh Nghĩa Thục ở Bắc, v.v... là vận động văn hóa. Việc Đông Du (Nhật), Bắc du (Tàu) là cầu viện, v.v... còn trong nước thì nào là việc Đề Thám chiếm cứ Yên Thế, việc Đội Cẩn lấy Thái Nguyên, vua Duy Tân chống Pháp đều là những việc gây ra do sự phản tỉnh của dân chúng theo cái ý thức “cứu quốc tồn chủng” của cụ Phan Bội Châu đề ra trước. Đến thời kỳ thứ II là sau thời kỳ Thế Chiến Thứ Nhất 1914-1918, lúc ấy bộ mặt thực dân của đế quốc đã rõ rệt. Sự ỷ lại vào người ngoài bất cứ về văn hóa hay về vũ lực đều không có ý nghĩa gì, nên từ đấy trong việc cách mạng luôn luôn kháng ngoại (địch), dân tộc đi sang một giai đoạn khác. Vì vậy mà có sự thành lập các đảng phái chính trị xu hướng khác nhau, bọn thân Pháp thì níu lấy chủ nghĩa Pháp Việt đề huề là lý thuyết của một tên Việt gian viết ra rồi đổ ẩu cho cụ Phan Bội Châu là tác giả mà cụ thì không thèm cải chính, phái thân Tàu thì lấy Tam Dân chủ nghĩa của Tôn Văn làm lập trường, phái thân Nga thì chủ trương thuyết Cộng Sản, phái trung lập thì bất cứ chủ nghĩa nào, miễn là đuổi Pháp ra khỏi nước là được và bất kể là Đảng nào họ cũng tán thành và họ chiếm đa số.
Phái thân Pháp cũng có hai phái, một phe chân chính như cụ Phan Chu Trinh, một phe gian tà mưu lợi riêng như Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, còn một phe thứ ba thì nửa thật nửa là lợi dụng tức là phe Tam Điểm France Marcommerue Margennene. Phái thân Tàu như Quốc Dân Đảng, phái thân Nga trước là Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, sau là Cộng Sản Đảng. Phái trung lập như Tân Việt Đảng do Lê Văn Huân lập ra từ 1925 ở Nghệ Tĩnh, v.v...
Sau khi mấy đảng phái này bị đàn áp tan rã, thời cuộc thế giới mỗi ngày một khẩn trương, cuộc chiến tranh của toàn quốc tất phải phát xuất, các đảng phái lại ngấm ngấm nhỏm dậy từ năm 1936 trở đi. Các đảng phái có ba xu hướng, xu hướng Nhật vì Nhật gần hơn và có thể lợi dụng để đánh đuổi kẻ thù chung là Pháp, một số nữa có liên lạc với Cộng Sản và Đồng Minh, quân quốc gia có khuynh hướng Đồng Minh. Nga Tàu gây thành một thế ganh đua chia rẽ thù nhau, tuy vậy trong sự ganh đua chia rẽ ấy gây thành một cuộc liên minh thống nhất các đảng cùng chung một xu hướng Cộng Sản thân Nga, Quốc Gia thân Tàu và một phái quốc gia thân Nhật. Ba phái trên, phái thân Nhật thì hiện nay Nhật thất bại đã mất lập trường. Còn hai phái Cộng Sản và Quốc Gia đương công khai phát động, nhưng ta phải xem chủ trương hai phái ấy có hợp với nguyện vọng của dân chúng và đúng với lịch sử quá khứ và hiện tại không? Lịch sử ta trên một vạn năm nay là một cái dây đấu tranh truyền kiếp, không phải mới gần đây mấy chục năm bị Pháp thuộc, các cuộc cách mạng ấy đều lấy dân tộc làm tất yếu, và muốn đạt được thành công, văn hóa lại là một điều tất yếu hơn nữa, nếu chỉ vận động cho dân tộc giải phóng mà không có văn hóa chắc chắn thích hợp làm xu hướng cho dân tộc (nghĩa là phải có một nền triết học mới, nghĩa là chủ nghĩa mới, v.v...) thì dù có thành công cũng chỉ là tạm bợ mà thôi. Văn hóa của dân tộc căn cứ vào lịch sử, cái quá vãng của lịch sử có lâu dài thì cái tương lai của dân tộc sau cuộc vận động mới được vững bền, như lời nhà nữ văn sĩ Starel về thế kỷ 19 viết rằng: “trong bất cứ một phong trào thời đại nào, người ta phải ngoảnh lại cái quá khứ sâu xa bao nhiêu thì cái công lực phát triển ra tương lai của cái phong trào ấy cũng được dài bấy nhiêu”. Bởi vậy chủ trương của chúng ta là ngoảnh lại cái quá khứ một vạn năm của lịch sử để đặt định một tương lai xa rộng vô cùng cho dân tộc. Nên thời kỳ quyết định của dân tộc Việt là bắt đầu từ đây, nghĩa là từ năm 1939 đến 1950 cho đến 2000.
Chúng
ta phải dựa vào vết đi của lịch sử mà đặt định
một đường lối cho tương lai, nhưng không xa lìa lịch
sử của nhân loại và dân tộc, trái thế chẳng những
là vong bản mà sẽ còn bị tiêu diệt trực tiếp hay gián
tiếp.
................
CÒN TIẾP