Việt Văn Mới
Việt Văn Mới

HEMINGWAY :

 NHÀ VĂN

CON NGƯỜI VÀ CÕI SỐNG





Đ ến với Hemingway ta có thể tìm thú vui thưởng ngoạn qua các tác phẩm của ông dưới nhiều hình thức. Hoặc ta coi các trang sách của ông thuộc loại truyện kể phiêu lưu mạo hiểm hay ái tình diễm lệ. Bằng cách tiếp cận này, Les neiges de Kilimandjiro hay Le vieil homme et la mer sẽ cho phép trí tưởng tượng ta được tự do bay bổng đi chinh phục đỉnh tuyết Kilimanjaro trắng bóc, hay tới bàu bạn với ông già San Diego một thân một mình lênh đênh trên chiếc thuyền nhỏ giữa biển cả sóng gió. Với L’Adieu aux armes hay Pour qui sonne le glas, trái lại, ta sẽ được dịp chia sẻ niềm đau cô đơn của Patrick Henry sau cái chết của Catherine Baker với đứa con sơ sinh, hay cảm thông với tiếng khóc nức nở của Maria trước sự hi sinh mã thượng của Robert Jordan, người nàng hết lòng yêu thương. Những cảm xúc phiêu bạt hay yêu thương, dẫu sao, cũng chỉ đem lại cho ta vui buồn chốc lát trong tinh thần đọc sách mua vui giải trí. Còn cái thực sự làm nên giá trị văn học nơi Hemingway lại nằm trong ý nghĩa hàm súc ẩn dấu giữa hai hàng chữ, như phần chìm khuất trong lòng đại dương mà ta phải lặn sâu mới thấy được. Có đến với Hemingway bằng cách tiếp cận sau này, ta mới thấy rằng mỗi tác phẩm của ông đều là kết quả của một trải nghiệm trong cuộc sống và mỗi tựa đề chọn lựa còn là một thông điệp Hemingway muốn gửi gấm đến ta. Để bàn về sự nghiệp văn học đa dạng phong phú của Hemingway, có lẽ phải cần tới hàng pho sách, chưa chắc đã nói hết. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đề cập tới hai cuốn L’Adieu aux armes và Pour qui sonne le glas mà thôi. Để cho thấy sách của Hemingway không chỉ thuộc loại truyện kể nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí. Trái lại, chúng còn là những tác phẩm có giá trị văn học cao đem lại cho ta cái nhìn nhân bản và sáng suốt về hiện thực xã hội loài người.

Thoạt đọc hai tác phẩm kể trên, ta có thể xếp Hemingway vào loại các nhà văn phản chiến. Thực ra, Hemingway không hề là con người hiếu hòa hay phản chiến. Phản chiến có tính cách phong trào hay cá thể. Như khi một cá nhân vì lý do riêng tư hay ý thức hệ lên tiếng chống đối hay từ chối tham dự vào một cuộc chiến nào đó. Chẳng hạn thái độ chống đối của Jane Fonda về sự tham dự của Mỹ vào chiến cuộc Việt Nam. Hemingway, trái lại, không phải là nhà văn phản chiến : ông không ngại dấn thân vào cuộc xung đột giữa Áo và Ý trong Đệ nhất thế chiến. Và nhờ có tham dự vào cuộc chiến này ông mới mang tâm trạng chống chiến tranh. Chúng ta còn nhớ, vừa xong trung học Hemingway đã có ý nhập ngũ để mong được đóng góp vào cuộc chiến tại Âu châu bên cạnh liên minh Anh-Pháp-Ý, mà ông tin là phục vụ cho lý tưởng tư do, dân chủ. Nhưng vì chưa đủ tuổi luật định, nên ông đành nhận làm lính tải thương cho Hồng Thập Tự quốc tế. Chỉ sau một tháng có mặt trên chiến trường Ý, ông mới trở thành nhà văn mang tâm trạng chống chiến tranh.

Không được là lính tác chiến, nhưng Hemingway lại tìm thấy ở cương vị lính tải thương nơi tiền tuyến một vị thế ưu đãi để biết được hậu quả của chiến tranh và nỗi thiệt thòi mất mát của con người, đúng ra là của những con người trong chiến tranh. Lính tác chiến chỉ lo giành được chiến thắng hay thoát khỏi hòn tên mũi đạn, là đã quá đủ. Chỉ có lính tải thương nơi tiền tuyến mới có điều kiện được thấy tận mắt cảnh thịt rơi máu chảy của những thân hình co quắp, được nghe bằng tai những tiếng rên la cầu cứu « Ôi ! Mẹ ôi, mẹ ôi ! (Oh ! Mamma, mamma mia !) hoặc những tiếng rên xiết cầu khẩn vì không chịu nổi đớn đau «Lạy Chúa, xin giải thoát cho con. Mẹ Maria ơi, hãy giải thoát cho con !” ( Dio ti salvi, Maria. Dio ti salvi, Maria!” – L’Adieu aux armes - Gallimard, 2013, coll. Folio 27, chap. Ĩ, p.57). Đó là những gì Hemingway học hỏi được, không chỉ bằng tai nghe mắt thấy, mà còn bằng trả giá bản thân khi ông bi thương nơi đầu gối do miểng đạn pháo cối. Nhờ được cọ sát với thực tế chiến trường, lại với cặp mắt quan sát tinh tế và cảm quan bén nhọn, Hemingway đã rút được từ thời gian công tác ngắn ngủi hai bài học bổ ích cho sự nghiệp văn học của ông. Trước hết là tính chính đáng bề mặt của chiến tranh, hay đúng ra là những lý lẽ người ta nêu ra và nhân danh chúng để gây hấn và xô đảy con người vào các cuộc chém giết khốc liệt với kết quả thường là « nhất tướng công thành vạn xác khô ». Tiếp đên, chiến tranh không phải là phương tiện hữu hiệu để giải quyết mọi tranh chấp, mọi bất đồng, đặc biệt là về mặt ý thức hệ. Thay vì dẫn đến một xã hội tiến bộ hơn, làm cho con người trở nên tốt đẹp hơn, chiến tranh thường lại là guồng máy khổng lồ nghiền nát con người, đúng ra là những con người bị cuốn hút vào chiến tranh. Đê trình bày quan điểm thực tiễn chống chiến tranh của mình, Hemingway không cần nhiều lời giải thích, mà chỉ mượn vài mẩu đối thoại tâm tình của người trong cuộc. Khi người ta phải trải qua những trạng huống sống khắc nghiệt và có cơ hội tâm sự với nhau, thì dăm ba lời để trút bàu tâm sự ấy có khả năng thuyết phục gấp mấy lần những bài diễn ngôn khoa trương hùng biện. Có hai phần đối thoại trong L’Adieu aux armes đáng để ta chú ý.

Trước hết là chương IX, khi Patrick Henry nghe được mấy người lính dưới quyền tán gẫu với nhau về cuộc chiến, trước khi một quả pháo rơi trúng hầm trú ẩn khiến một người lính thiệt mạng và Henry bị thương. Gọi là tán gẫu chứ thực ra mỗi người đều biểu lộ tâm tình chán ghét chiên tranh như nhau. Có đọc kỹ những lời họ cùng nhau tâm sự (Sdd. ch.IX, tr. 50-53), ta mới thấy đằng sau những lời lẽ quê mùa mộc mạc, mấy người lính ấy đã có tiêng nói của thiên lương (la voix du bon sens) về thực chất và tác hại của cuộc chiến tranh do tham vọng của nhóm người chủ động gây nên. Kế đến là phần tâm sự của cha tuyên úy (l’aumônier) khi đến thăm Henry (Sdd, ch. XI). Vì là mục sư nên ông trở thành đối tượng chọc quê cho đám sĩ quan chỉ biết đánh giặc rồi về bàn chuyện du hí để quên đời. Thông cảm với tình cảnh của họ, những lời riễu cợt ấy không làm cho vị tuyên úy tức giận mà chỉ mỉm cười vị tha. Tuy nhiên lần tới gặp Henry, ông lại tỏ ra mệt mỏi xuống tinh thần. Vai trò của ông, cha tuyên úy, là phải kiếm lời ủy lạo và khích lệ binh sĩ. Nhưng trò chuyện với Henry, ông lại để lộ tâm trạng mệt mỏi buồn nản, không mấy tin tưởng vào mục tiêu chiến đấu và chỉ mong cuộc chiến sớm chấm dứt. Nhìn vị mục sư lủi thủi ra về, Henry nhớ lại những gì ông nói về Abruzzes, quê hương ông. Đó là một mảnh đất hiền hòa, người dân sống lễ độ, cư xử thân ái với nhau. Ban đêm không ai được thổi sáo để tránh làm giao động những cô gái tới độ xuân thì. Dân tình cởi mở hiếu khách, coi như một vinh dự nếu mời được bạn ở lại dùng bữa với họ. Hình ảnh một mảnh đất hẻo lánh hài hòa nhưng đậm đà chất thơ thôn dã đã giúp Henry nhẹ nhàng đi vào giấc ngủ… Đọc Hemingway, nếu ta chỉ quan tâm theo dõi câu chuyện tình éo le gút mắc giữa Patrick Henry với Catherine Baker mà lơ là vài mẩu đối thoại kể trên và đặc biệt là đoạn văn chót của chương XI, có thể ta đã bỏ lỡ cơ hội thưởng thức ý vị văn chương nơi Hemingway.

Lý do dẫn đến chán ghét chiến tranh nơi những người lính thường mà lới lẽ thô thiển không nói lên hết được, hoặc mong mỏi thầm kín sớm thấy chấm dứt chiến tranh mà cha tuyên úy không dám bộc lộ, Hemingway đã mượn lời của Henry nói lên giùm họ qua đoạn văn tuy ngắn ngủi nhưng hàm súc trăn trở suy tư như sau : « Tôi luôn luôn bối rối trước các lời nào là thiêng liêng, nào là vinh quang, nào là hi sinh, hoặc thành ngữ « vô ích » (l’expression « en vain »)… Chúng tôi thường phải đứng nghe, đôi khi dưới mưa, những lời ấy, hầu như không phải từ cửa miệng người nói, mà chỉ rặt những tiếng hô vang mà thôi. Chúng tôi cũng được đọc những lời cổ võ đó trên những bích chương cũ rích còn được dán chồng lên những bức chương khác. Tôi chẳng thấy gì là thiêng liêng cả, và điều người ta gọi là vinh quang chẳng thấy gì là vinh quang, còn cái được gọi là hí sinh thực ra cũng giống như những lò sát sinh tại Chicago, chỉ mỗi khác biệt là những tảng thịt lại đem dành cho nghĩa trang. Có nhiều lời ta nghe khó lọt tai cho nổi và, xét cho cùng, chỉ có một vài địa danh là còn giữ được phần nào phẩm cách. Số tên của một vài đơn vị hay của một vài ngày tháng nào đó cũng vậy. Chỉ những con số đó, cũng như một số địa danh mới đáng coi là còn phẩm cách. Còn những từ ngữ trừu tượng như vinh quang, danh dự, dũng cảm hay thần thánh đều trở thành trơ trẽn (indécents), nếu đem sánh với cái tên cụ thể của các ngôi làng, của những con lộ, con số của mấy trung đoàn hay của ngày tháng. » (J’ai toujours été embarrassé par les mots sacré, glorieux, sacrifice, et par l’expression « en vain »... Nous les avions entendus debout, parfois sous la pluie, presque hors portée de l’ouïe, alors que seuls les mots criés nous parvenaient. Nous les avions lus sur les proclamations que les colleurs placardaient depuis longtemps sur d’autres proclamations. Je n’avais rien vu de sacré, et ce qu’on appelait glorieux n’avait rien de gloire, et les sacrifices ressemblaient aux abattoirs de Chicago avec cette différence que la viande ne servait qu’à être enterrée. Il y avait beaucoup de mots qu’on ne pouvait plus tolérer et, enfin de compte, seuls les noms des localités avaient conservé quelque dignité. Il en était de même de certains numéros et de certaines dates. Avec les noms de localités c’était tout ce qui avait encore un semblant de dignité. Les mots abstraits tels que gloire, honneur, courage ou sainteté étaient indécents, comparés aux noms concrets des villages, aux numéros de routes, aux noms des rivières, aux numéros des régiments, aux dates.- Sdd 177-178).

Đọc Hemingway, ta không nên đọc vội vã theo kiểu đi ăn Mac Do, hay liếc mắt đọc như khi đọc tin nhắn trên smartphone, trên laptop. Có thế ta mới không bỏ lỡ cơ hội được thưởng thức ý vị văn chương của ông qua thủ pháp tiết kiệm lời nhưng giàu ý, dồi dào cảm xúc. Để nói lên quan điểm chống chiến tranh của mình, Hemingway không cần tới hàng trang giấy để biện minh thuyết phục. Trái lại, chỉ cần một vài hình ảnh cụ thể với thủ thuật châm biếm trào lộng là đủ (les sacrifices ressemblaient aux abattoirs…, dont la chair ne servait qu’à être enterrée). Ta hãy tưởng tượng quang cảnh một khoảng đất lớn với những hàng lính đội ngũ chỉnh tề, đôi khi dưới mưa, đứng nghe cấp chỉ huy trên bục có mái che, hùng hồn diễn thuyết hay ban huấn lệnh. Nhưng vì khoảng đất trống trải hay vì tiếng mưa rào, nên lời lẽ chẳng đến tai, họ đành chỉ biết, theo dấu hiệu, hô to các khẩu hiệu « thiêng liêng », « vinh quang », « chiến thắng », « dũng cảm »… Cảnh tượng ấy với ngần ấy khẩu hiệu vẫn lập đi lập lại không biết bao lần. Có khác chăng là mỗi lần lại thấy nhiều khuôn mặt mới để bổ sung cho số lính cũ đã bị đem « nướng » trong các trận đánh ác liệt để giành giật một quả đồi, một ngọn núi không biết bao lần đổi chủ mà kết quả chẳng đi tới đâu, chỉ tội cho những người lính đã bị hi sinh vô ích (en vain). Ngoài đời, ta cũng được đọc những lời lẽ cổ vũ tương tự trên những bức chương rách nát dán chồng lên nhau, chẳng khác chi các tờ quảng cáo cho mấy loại thuốc gia truyền chuyên trị bịnh hôi nách hay ghẻ cóc cả. Bởi vậy từ ngữ càng mang ý nghĩa cao cả chừng nào, ta càng phải biết quí trọng và sử dụng thận trọng chừng nấy. Để bảo toàn ý nghĩa thanh tao cho chúng, chỉ nên sử dụng trường hợp cần thiết, chính đáng như trong Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo hay tiếng hô vang « hi sinh », « quyết chiến », « quyết thắng » của các bậc bô lão tại Hội nghị Diên Hồng. Còn đem sử dụng một cách tùy tiện bừa bãi, chẳng mấy chốc ta khiến chúng mỗi lúc thêm giảm giá, mỗi lúc thêm sa đọa chẳng khác gì chữ « yêu » thốt ra từ miệng lưỡi gã sở khanh, hay câu mở miệng « Mô Phật » của mấy ông sư hổ mang hay mấy bậc « cẳng » tu chuyên nghề buôn thần bán thánh.

Nhưng làm sao để xác định dược một cuộc chiến là chính đáng, là có chính nghĩa, để phân định được ai là chính ai là tà. ? Đây là câu hỏi gai góc, khó tìm ra câu trả lời, nhất là ở kỷ nguyên tin học thuận lợi cho các chủ nghĩa, các ý thức hệ, các phe phái tôn giáo đua nhau bành trướng như thời đại chúng ta. Bên nào cũng cũng cho mình là có chính nghĩa, cũng giành phần lẽ phải về mình. Mà những kẻ tà tâm lại là những kẻ thích giương cao lá cờ chính nghĩa hơn ai hết. Đó là trường hợp những kẻ mắc chứng cuồng vĩ ôm mộng dược tôn lên hàng đại diễn viên lịch sử, những kẻ đầu cơ chính trị hoặc những tập đoàn lái súng coi chiến tranh là một thị trường kinh doanh lấy cái chết người khác làm cơ hội gây dựng sự nghiệp cơ đồ, mà hậu quả khốc liệt vẫn là hủy diệt sự sống : môi trường, đô thị, di tích lịch sử, thậm chí những cái được coi là tốt đẹp nhất cho đời sống con người : tình yêu, hạnh phúc, tình gia đình, tình người… Hai cuộc Đệ nhất, Đệ nhị thế chiến không nói làm chi, chỉ cần nhìn vào chiến cuộc còn tiếp diễn tại Trung Đông, đặc biệt tại Syrie là đủ thấy. Lại mới đây thôi, Kim Jung Un lãnh tụ Bắc Triều tiên cũng ôm mộng dược làm thánh nhân như Tần Thủy Hoàng, Hitler, Staline, Mao Trạch Đông hay Pol Pot : Trong khi người dân trong nước phải sống lầm than cực khổ trước nạn đói thường trực đe dọa, bao nhiêu tiền của đều dồn vào việc chế tạo vũ khí nguyên tử để dương oai diễu võ chọc tức thiên hạ. Báo hại cho các hội viên Bảo An Liên Hiệp Quốc lo sốt vó, hết bàn lại họp tìm cách can giải. Chỉ sợ thứ người học làm bạo chúa đang nảy mầm (tyran en herbe) còn trẻ người non dạ ấy, trong lúc tinh nghịch, lỡ bấm lầm một đầu đạn nguyên tử tới một quốc gia lân cận khiến có thể gây ra đại họa thế chiến thứ ba. Khi đó không biết bao nhiêu con người vô tội sẽ bị thiệt mạng oan uổng. Thế mới biết tư tưởng gia kiêm khoa học gia Blaise Pascal (1623-1662) đã không bấm quẻ sai tí nào khi ông lên tiếng cảnh báo ngay từ đầu thế kỷ 17 : « Con người không phải là thánh thần mà cũng không phải là con thú. Bất hạnh thay kẻ nào muốn làm thánh thần, kẻ đó sẽ biến thành thú. » (L’homme n’est ni ange ni bête, et le malheur veut que qui veut faire l’ange fait la bête » . Blaise Pascal, Pensées 358 – Classiques Garnier 1961, p.164).

Là nhà văn thiên chức, Hemingway không cho mình có sứ mạng đem rao giảng một học thuyết chân lý cho đời, mà chỉ nói lên những sự thật biết được ở đời. Bởi vậy ông không mấy quan tâm tới việc xác định thế nào là cuộc chiến có chính nghĩa hay không chính nghĩa. Vả lại theo ông, chính hay tà thường do nhận định chủ quan, có thể thay đổi với thời gian, tùy giai đoạn, đôi khi còn do tính toán lợi ích riêng tư. Bởi thế ta mới thấy diễn tấn tuồng có kẻ đang hết lòng giúp ta nâng cao lá cờ tự do chính nghĩa, bỗng bỏ rơi ta làm đồng minh tháo chạy. Cũng như trường hợp mấy kẻ ngày nào còn cùng ta cất cao lời ca hẹn một ngày về, nay lại bỏ ta về trước, về một mình. Cũng chỉ để hát hỏng thôi, nhưng vì tưởng có điều kiện được thêm no cơm ấm cật. Xét cho cùng, lòng người có sớm đổi thay nay trắng may đen, thì cũng dễ hiểu thôi. Đời mà. Chỉ tội cho hai chữ « chính nghĩa », mới ngày nào còn trên lá cờ phất phới tung bay, nay phải mang cái mùi khang khảng chỉ vì gió đã trở chiều. Nhưng dù gì, ai muốn làm gì, thi các từ ngữ thanh cao ấy, trước sau vẫn là những bông sen, « gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn ».

Vậy đó, chữ nghĩa với Hemingway không chỉ có là phương tiện thông tin hay truyền đạt, mà còn là một phong cách diễn tả nữa. Mỗi từ vựng, với ông, còn có đời sống tinh thần riêng. Bởi vậy nhà văn không thể sử dụng chữ nghĩa nhất nhất theo từ điển được. Từ điển chỉ là cẩm nang để học sinh tra cứu mỗi khi làm luận văn nộp cho ông thầy ; nó cũng hữu ích cho một vài nhà làm văn hóa chỉ thích trưng tước vị đại học theo nghĩa từ điển mà không chịu trau giồi thêm kiến thức, để cái miệng được bô bô, nói cho thật kêu nghe sao thật nổ, mà không biết vì bên trong cái đầu hãy còn nhiều khoảng trống. Nhà văn cũng cần tới từ điển, có khi còn cần tới hơn ai hết. Nhưng nếu ông ta chi tra cứu từ điển để rồi cũng sử dụng chữ nghĩa đồng phục, đồng loạt như mọi người, chẳng mấy chốc ông ta sẽ biến chúng thành những xác chết ướp khô. Chỉ có nhà văn sáng tạo mới biết phả hơi thở đời sống vào chữ nghĩa, giúp chúng từ một bộ xương khô khốc, trở nên có thân xác, có linh hồn để chúng được hội nhập đời sống xã hội. Bản thân mọi chữ nghĩa đều hiền lành vô tội như lời nói trẻ thơ đầu đời, hay như cái nhìn bỡ ngỡ của ông An Dong, bà E Và trước khi cắn phải trái cấm. Còn xấu đẹp, hay dở ra sao, một phần do phong cách người sử dụng, phần còn lại do nơi bộ não người đọc. Không tin, cứ đi hỏi Bà Hồ Xuân Hương thì biết. Còn muốn chắc ăn, ta hãy tạm lấy các từ « điêm thúi » và « cao sang » làm thí dụ khảo sát. Mỗi lần nhắc tới « điếm thúi », chẳng cần tra từ điển, ai cũng hiểu từ đó muốn nói gì, chỉ định ai. Còn từ « cao sang » thường chỉ dành cho những kẻ giàu sang, quyền thế được coi là thuộc giai tầng thượng lưu xã hội. Nhưng có thực bao giờ chỉ ở chốn thanh lâu mới có hạng người điếm thúi ? Và chỉ tại những khu biệt thự sang trọng ta mới gặp toàn những kẻ được mô tả con nhà đài các kiêu sa ?

Giả dụ một cô gái nhà nghèo, gia đình sống trên mảnh đất bị sức mạnh của đồng tiền hay thế lực trục xuất để dựng lên những tòa biệt thự nguy nga hoành tráng. Vì muốn giúp cha mẹ già có phương tiện sinh sống và nuôi bày em nhỏ, cô đành chấp nhận kết hôn với một người nước ngoài. Chẳng may cô rơi vào một đường giây buôn người, nên trở thành một gái thanh lâu. Vậy khi thấy cô, do nghề nghiệp, phải đóng vai lả lơi với khách, ta có nên ném về phía cô cái nhìn thành kiến xã hội để bĩu môi chê là đồ điếm thúi ? Trái lại, trước cảnh mấy cô chiêu cậu ấm ngày ngày ra vào tại khu biệt thự sang trọng vừa được cất lên : Cô, cũn cỡn trong bộ đồ đúng mốt thời trang ngoại nhập « thịt thừa vải thiếu », nhưng lại điệu bộ « em chã em chã » ra đều ta đây con nhà gia giáo nết na. Cậu, nghênh ngang bên chiếc xe đắt tiền, điệu bộ ga lăng tây phương, cũng ra điều ta đây con nhà giòng dõi được cho du học nên người văn minh tiến bộ. Học hỏi để trở thành những Bill Gates Việt Nam, đem cái tinh hoa tiếp thu nới xứ người về đóng góp cho phát triển đất nước và công bằng xã hội đâu không thấy ; chỉ thấy đua đòi chạy theo mấy thói sống rởm khoe khoang phách lối, sao mà nhanh thế, sao mà tài thế. Họ đâu biết rằng càng phô trương cái vỏ văn minh kiểu cách chừng nào, họ càng chứng tỏ chưa trút bỏ được mặc cảm tự ti nhược tiểu chừng nấy. Bởi thế họ mới trâng tráo đua nhau khoe tiền khoe của, chắc gì được gây dựng bằng công sức mồ hôi nước mắt, hay chỉ bằng thủ đoạn lọc lừa hoặc mua chuộc quyền thế. Cứ tưởng được khoe khoang như thê, trước cảnh đa số người dân lương thiện vẫn phải tất tả ngược xuôi kiếm miếng ăn vi muốn trung thành với truyền thống dân tộc « đói cho sạch, rách cho thơm », là chứng tỏ ta đây đã thành công, vậy ắt là phải thành nhân. Thành công ư, chưa chắc. Còn thành nhân đâu không thấy, chỉ thấy rặt một bày vĩ nhân (từ « vĩ », theo tôi hiểu, trong tiếng Hán hình như còn có nghĩa là cái đuôi thì phải). Vậy mấy cậu ấm cô chiêu mô tả trên có đáng gán cho từ ngữ « cao sang » không ? Hay biết đâu khu biệt thự họ vẫn ra vào ấy lại chẳng là nơi chứa chấp không ít ổ « điếm thúi » ?

Có nắm được sự khác biệt giữa chữ nghĩa như là phương tiện truyền đạt và chữ nghĩa như là một phong cách diễn ta nêu trên, ta mới hiểu được tại sao Hemingway lại viết ra có lúc không chịu nổi hay dung thứ nổi (tolérer) một số từ trừu tượng như danh dự, dũng cảm, vinh quang hay chính nghĩa. « Tolérer », theo từ điển, có nghĩa là chấp nhận, chịu đựng hay dung thứ. Vậy mà tôi lại dịch nhóm từ « ne plus tolérer » ra là « không hửi nổi ». Dịch dung tục như vậy, không cốt chỉ để gây xốc, mà vì muốn làm sáng tỏ quan điểm chống chiến tranh của ông. Bằng cách sử dụng chữ nghĩa nêu trên, Hemingway không có ý chống đối mọi cuộc chiến tranh. Cái mà ông không chịu nổi là chủ mưu của những kẻ núp sau ý nghĩa cao quý của các từ ngữ đẹp đẽ để thực hiện ý đồ của mình. Bởi vậy, Hemingway không đánh giá con người theo đường ranh phân định giữa chính và tà, : kẻ nào chung chiến tuyến với ta đều là chính, luôn luôn được coi như trắng bóc ; kẻ nào đứng về phía địch chỉ có thể là tà, ắt lúc nào cũng phải tối thui. Lối phân biệt chủ quan, triệt để như vậy, lại thêm tầm nhìn bị giới hạn bởi nhũng cặp kính cận thị mang đủ loại nhãn hiệu chủ nghĩa, ý thức hệ, tôn giáo cực đoan…, chẳng những không giải quyết được gì, mà còn khiến cuộc chiến thêm dai dẳng, hận thù thêm chồng chất. Do được cọ sát với thực tế chiến trường, Hemingway không đánh giá theo kiểu đó. Chính hay tà, với ông, không do đường ranh phân định danh nghĩa, mà là ở cái tâm, là do nơi lòng người. Bởi vậy Henry, trong L’Adieu aux armes, mới có cái nhìn cảm thông và vị tha với Gino là người y được cử tới thay thế : « Gino là con người yêu nước, do đó anh ta hay nói ra những điều đôi khi phân cách chúng tôi ; nhưng anh ta là một con người dễ thương và tôi hiểu được lòng yêu nước của anh. Anh ta sinh ra đã là con người yêu nước. » (Gino était un patriote, aussi disait-il des choses parfois nous séparaient ; mais c’était un gentil garçon et je comprenais son patriotisme. Il était  patriote. Sdd, tr. 178). Cái nhìn tỉnh táo và vị tha ấy đã soi tỏ quan điểm chống chiến tranh của Hemingway : Ông chỉ chống lại những cuộc chiến do mưu đồ vị kỷ của những kẻ chủ mưu gây ra ; trái lại, ông dành thiện cảm cho những ai dấn thân vào cuộc chiến do thiện tâm, thiện ý và tin tưởng vào nghĩa vụ cao quí của mình. Sự đánh giá khách quan về chính, tà nơi con người, hay đúng ra nơi mỗi con người trong chiến tranh sẽ được Hemingway trình bày cụ thể hơn qua một số nhân vật trong Pour qui sonne le glas. 

Pour qui sonne le glas hay Chuông nguyện hồn ai là câu chuyện về Robert Jordan, một công dân Mỹ chuyên viên về châm ngòi nổ. Vì lý tưởng tự do dân chủ, anh tình nguyện gia nhập đạo quân quốc tế chiến đấu bên cạnh chính phủ Cộng Hòa Tây Ban Nha chống lại nhóm quân phiệt nổi loạn do Franco cầm đầu. Jordan được giao phó nhiệm vụ đánh sập cây cầu trong vùng đồi núi hiểm trở Ségovie nhằm chặn đường tiếp viện của quân phát xít. Công tác thực ra chẳng có gì khó khăn nếu không có đòi hỏi ngặt nghèo sau : chỉ được đánh sập cây cầu khi có tiếng máy bay quân chính phủ như là dấu hiệu cuộc tấn công bắt đầu. Để thi hành sứ mạng, Jordan được sự tiếp tay của một nhóm nghĩa quân trên danh nghĩa do Pablo cầm đầu, nhưng trên thực tế lại do cô vợ là Pilar chỉ huy. Thời gian ba ngày sống cùng toán dân quân trong một hang đá hốc hiểm, Jordan làm quen với một thiếu nữ tên Maria, cha mẹ đều bị quân phát xít sát hại. Mặc dù tấm thân đã bi một bày lính phát xít làm hoen ố ; nhưng lời nói, cử chỉ của Maria chứng tỏ một tâm hồn ngây thơ trong trắng đã chinh phục được Jordan. Là con người phong sương dạn dầy nhưng tâm hồn mã thượng, Jordan hứa sẽ cưới Maria sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Cuộc tình duyên chỉ kéo dài được ba ngày vi sau khi đánh sập cây cầu, Jordan bị thương không thể cùng đồng đội chạy trốn, nên quyết định hi sinh một mình ở lại để cản đường quân phát xít truy lùng. Trước lời khuyên chân thành của Jordan và cũng để đáp ứng nguyện vọng của người yêu, Maria đành nức nở gạt nước mắt lên ngựa theo Pilar về nơi trú ẩn mới.

Trên đây là tóm lược nội dung cuốn sách của Hemingway. Do kết cấu bi thảm của câu chuyện tình, lại diễn ra trong một khung cảnh không gian giới hạn (một khu đồi núi hiểm trở), thời gian giới hạn (ba ngày), Pour qui sonne le glas hội đủ yếu tố để dựng nên một bi kịch cổ điển tây phương như của Corneille hay Racine. Nhưng Hermingway lại mượn thể loại truyện kể để viết ra một cuốn sách dài ngót nghét năm trăm trang. Có lẽ vì vậy lần đầu đọc, tôi chẳng thấy cuốn sách có gì dặc sắc so với những hình ảnh ấn tượng được thấy trên màn bạc : nào là những pha phi ngựa đuổi nhau bắn súng cắc chíu pằng pằng, nào là cảnh Jordan hối hả lo đánh sập cây cầu trong khi đoàn chiến xa phát xít rầm rộ tiến tới. Rồi lại còn cảnh Pablo tổ chức sách động quần chúng tham gia vào vụ sát hại các viên chức trong guồng máy hành chánh phát xít bị bắt giữ nữa chứ.(1) Chu choa, thấy mà ghê. Cảnh tượng này làm tôi nhớ tới những câu thơ sặc mùi gió tanh mưa máu của Tố Hữu nhằm kêu gọi tận diệt điền chủ, cường hào ác bá trong cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc. Đó là không kể bên cạnh đó, còn có những pha tình tự yêu đương thắm thiết giữa Maria và Jordan trong khung cảnh đồi núi âm u, chỉ kéo dài có ba ngày để rồi kết thúc oan khiên với những tiếng khóc nức nở của Maria…

Có lẽ vì thế, khi ấy, tôi chỉ chú ý đọc những đoạn có liên quan tới các xen ấn tượng được thấy trên màn bạc ; phần còn lại tôi chỉ đọc lướt qua, có khi còn đọc theo kiểu nhảy cóc. Nay đọc lại, tôi mới thấy đọc theo kiểu tôi hồi đó quả là thếu sót, quá hời hợt. Bởi vì những cảnh, những xen dù có hấp dẫn đến mấy, cũng chỉ cho ta cái thủ thưởng ngọn một tác phẩm nghệ thuật thành công. Còn giá trị cuốn sách về mặt văn chương, tư tưởng lại thuộc về phần nằm trong lòng đại dương, mà ta phải chịu bỏ công ngụp lặn mới có cơ hội thưởng thức. Phải đọc, chú ý đọc một số chương, một vài đoạn trong sách ít được nhà đạo diễn khai thác, có khi còn bỏ qua vì cho là không lấy gì làm hấp dẫn để đưa lên màn bạc. Nhưng đó mới là những chương, những đoạn nói lên quan điểm chống chiến tranh của Hemingway, cũng như cái nhìn nhân bản, vị tha của ông về thân phận con người, về những con người trong chiến tranh.

Đáng chú ý nhất, có lẽ phải kể đến cái chương nói về ông già Anselmo trong vai khiêm tốn là kể dẫn đường cho Jordan (ch.XV). Là một nông dân thất học, tuổi sấp sỉ thất tuần, đêm đó ông có nhiệm vụ đứng gần cây cầu để quan sát và báo cáo mọi điều động của quân phát xít. Một mình phải đứng rét run hàng giờ giữa cơn bão tuyết mà chẳng thấy động tĩnh gì, đã có lúc ông tính bỏ về. Nhưng nghĩ lại, ông cho hành động như thế là vô trách nhiệm, nên quyết định không rời vị trí quan sát. Trong khi chờ đợi, ông nhìn về phía trạm canh ở giũa cây cầu với những người lính gác sinh hoạt trong đó. Nhận ra họ đều là người cùng quê với mình, ông đâm bối rối khi nghĩ rằng ngày mai những người lính ấy có thể phải chết do chính tay ông. Vốn chất phát hiền lành lại là con chiên ngoan đạo, ông cảm thấy áy náy khi phải hành động sát nhân, vì như vậy là trái với điều răn trong Kinh thánh. Hơn thế, ông thầm nghĩ : « Những kẻ đó không phải là phát xít .Ta họ gọi vậy, nhưng họ không phải là vậy. Họ cũng chỉ là những kẻ khốn khó như ta. Lẽ ra họ không nên chống lại ta, và nghĩ tới phải chém giết, ta chẳng thích thú gì…Họ không thể đào ngũ vi, khi ấy, người ta sẽ xử bắn gia đình họ. »(Ces hommes-là ne sont pas des fascistes. Je les appelle comme çà, mais ils ne le sont pas. Ce sont des pauvres gens comme nous. Ils n’auraient jamais dû combattre contre nous et je n’aime pas l’idée de tuer…Ils ne peuvent pas déserter parce que, alors, on fusillerait leurs familles ». Sdd, tr. 217). Nhưng tin tưởng công việc mình làm là một đóng góp cho lợi ích chung, ông tự nguyện sau này sẽ làm lễ sám hối để chuộc lỗi.

Chương này (XV), trước đây tôi đọc lơ là vì chẳng thấy có gì hấp dẫn. Nay đọc lại, tôi mới thấy nó là một trong những chương đặc sắc nhất, ý vị nhất đem lại cho tôi nhiều thích thú. Thích thú, trước hết cho chính bản thân. Tôi, con người trái tim đã từ lâu sỏi đá cái đầu lại cũng đã đầy sạn mất rồi, tôi như bỗng được làm cuộc hành hương về nguồn trước những ưu tư trăn trở đầy cảm thông của một ông già phúc hậu ; cũng như cái lần tôi bị lúng túng trước thắc mắc tưởng là ngớ ngẩn của đứa bé còn nhân chi sơ tính bản thiện. Thích thú, bởi ý vị văn chương trong lời lẽ đạm bạc không pha dầu chế mỡ Hemingway dùng để phản ánh đúng trầm ngâm suy tư của một ông già quê mùa thất học. Thích thú bởi cái nhìn vị tha ăm ắp tình người của ông già Anselmo đã soi tỏ cho tôi quan điểm chống chiến tranh của Hemingway, đồng thời giúp tôi nhìn ra giá trị văn học nhân bản trong tác phẩm của ông. Và tôi mới hiểu được tại sao ông lại chọn cho cuốn sách cái tựa Pour qui sonne le glas cũng như ý nghĩa thông điệp ông có ý gửi đến ta.

Khởi thủy, Hemingway có ý viết một cuốn sách để chỉ nói về những gì ông ghi nhận được trong thời gian làm phóng viên cho tờ North American Newpaper Alliance về cuộc nội chiến Tây Ban Nha (1937-39). Bởi vậy ông chỉ muốn thuật lại những gì nhận biết được về những con người độc đáo, với những phong cách sống dị thường đậm đặc bản sắc địa phương như Pilar, Maria, Anselmo, El Sordo, thậm chí cả Pablo nữa. Bởi vậy ông đã có ý chọn cho cuốn sách cái tựa The Undiscovery Country (Miền đất xa lạ). Nhưng khi viết dược quá nửa, tới chương XXXIII, tình cờ ông đọc được đoạn văn như sau trong bài giảng của John Donne (1572-1631), một mục sư người Anh : « Nul Homme n’est une Isle complète en soy-même, tout homme est un morceau de Continent, une part du tout… ; la mort de tout homme me diminue, parce que je suis solidaire du Genre Humain. Ainsi donc, n’envoie jamais demander : pour qui sonne le glas, il sonne pour toi. » (Không Người nào có thể coi mình là một ốc đảo, mỗi Người trong chúng ta đều là một mảnh đất của cùng một Lục địa, một phần của tổng thể…, cái chết của bất kỳ ai đều là một mất mát cho tôi, bởi vì tôi thuộc Loài Người. Vậy đừng cho người đi hỏi : chuông nguyện hồn ai đấy : nó còn là cho chính ngươi đó ».)

Đoạn văn này đã làm Hemingway thay đổi ý định sáng tác ban đầu, và ông không ngần ngại dùng nó làm lời dẫn nhập cho cuốn sách của mình. Hơn thê, ông còn mượn lời của John Donne Pour qui sonne le glas dùng làm tựa sách, thay thế cho cái tựa The Undiscovery Country dự kiến. Duy có điều khác biệt, lời của John Donne là lời giảng của một mục sư nhằm nhắc nhở tình đoàn kết, tình thương yêu đùm bọc con người với nhau trong tinh thần bác ái tôn giáo : Cùng một chủng loại, chúng ta không thể chỉ mưu cầu hạnh phúc riêng tư, mà phải biết sống san sẻ, lấy cái vui của mình làm cái vui cho người khác, lấy cái đau khổ mất mát của người khác làm cái đau khổ mất mát của chính mình. Không phải là nhà truyền giáo, chỉ là nhà văn muốn nói lên sự thật, viết ra những sự thật được biết, Hemingway lại có ý mượn lời của Jonh Donne để chỉ nhắc nhở ta về tình người, kêu gọi ta cần có thái độ cảm thông, vị tha giữa con người với con người trong chiến tranh, cho dù họ không đồng quan điểm, không cùng chung chính kiến với ta. Từ những gì chính mình dược ta nghe mắt thấy qua từng trường hợp cụ thể, ông muốn lưu ý ta rằng, trong bất kỳ cuộc xung đột nào, đằng sau bộ quân phục khác màu, nhũng người lính đối địch cũng là những con người như ta, là người chồng, người cha, người con, người anh, người em như ta. Đó là thái độ cảm thông vủa Henry với Gino trong L’Adieu aux armes, lòng trắc ẩn của ông già Anselmo với những người lính phát xít trong Pour qui sonne le glas. Bởi vì, biết đâu viên đạn mà ta tưởng chỉ dành cho kẻ thù, lại nhắm vào người có thể là bạn ta, như vào chính bản thân ta. Đó là ý nghĩa ẩn dụ của đoạn kết trong cuốn Pour qui sonne le glas, mà Hemingway chủ ý gợi lên cho ta : Trước khi tử thương do đạn pháo cối của quân phát xít, viên đạn cuối cùng Jordan dành cho địch, trớ trêu thay, lại để bắn hạ trung úy Berrando, một sĩ quan giàu nhân tính biết thương lính, binh vực, che chở cho người lính dưới quyền khỏi phải hi sinh vô ích trước đòi hỏi kiêu căng hợm hĩnh của viên đại úy Moro (Sdd. ch.XXVII, tr. 341- 343).

Thế nhưng Hemingway không chỉ mượn lời giảng của mục sư John Donne cốt nhắc nhở ta cần có thái độ cảm thông, vị tha với những con người tự nguyện dấn thân hay bị lôi cuốn ngoài ý muốn vào mọi cuộc xung đột vũ trang. Khi chọn nhóm từ Pour qui sonne le glas làm tựa cho cuốn sách, ông còn muốn mượn ngụ ý của John Donne để biến câu truyện ái tình phiêu lưu mạo hiểm ấy thành một bản anh hùng ca cho thời đại chúng ta. Bản anh hùng ca thời đại, câu truyện kể về hoạt động phá hoại lén lút của một nhóm du kích tại một vùng đồi núi cheo leo chẳng ai thèm biết tên ? Bản anh hùng ca thời đại với nhân vật anh hùng sử thi cái nhóm người vô danh tiểu tốt ấy, kẻ sống thì chạy trón lui trón lủi, còn kẻ chết thì hi sinh lãng nhách chẳng đem lại chút thành công cơm cháo gì ? Vâng, chính mẩu tin chiến sự vụn vặt ấy, với dúm người thuộc loại tép riu, lau sậy ấy, mới chính là những yếu tố đáng cho Hemingway khai thác để viết lên một bản anh hùng ca. Bản anh hùng ca của thời đại chúng ta, hay đúng hơn là để dành cho thế hệ chúng ta.

Đã qua rồi, thời kỳ trí tưởng tượng loài người ở buổi sơ khai còn cần đến những câu truyện thần kỳ với những anh hùng huyền thoại như Ulysse trong Iliade của Homère, hay Phù Đổng Thiên Vương trong lịch sử dựng nước ta, để khơi dậy ý niệm quốc gia và nuôi dưỡng tinh thần yêu nước. Cũng đã qua rồi, và cần phải cho qua luôn, thời kỳ của mấy anh hùng sử thi cận đại và hiện đại với câu chuyện hoang đường về những nhân vật người hùng khổng lồ chân đất thó đem thân mình bịt lỗ châu mai, làm tắc họng súng địch để đồng đội tạo chiến công hiển hách. Hoặc câu chuyện mấy anh du kích, nhờ quyết tâm, chỉ với súng trường cũng bắn hạ được chiến đấu cơ phản lực của địch. Những câu chuyện thần thoại dựng đứng ấy, viết theo toa đặt hàng chỉ có tác dụng phục vụ cho tham vọng hoang tưởng của những kẻ ôm mộng cải tạo thế giới : Nhân danh một thế giới thiên đường, một xã hội công bằng lý tưởng, họ hô hào phải đập cái cũ để xây dựng cái mới, nhưng thực chất lại là một xã hội ngày càng vô cảm với hai giai tầng xã hội giàu, nghèo phân ranh rõ rệt như hai đường thẳng song song không muốn thấy nhau để khỏi phải lưu tâm tới nhau. Bài học hai trận Thế chiến vừa qua, rồi những gì đã diễn ra tại Liên Xô, tại Trung quốc, cũng như những gì đang diễn ra tại Trung Đông tưởng đã quá đủ để chúng ta được thấm đòn trước những lời gào thét đòi cải tạo thê giới ấy. Có thấm đòn ta mới hiểu tại sao, trong L’Adieu aux armes, Hemingway lại viết ra có lúc ông không « hửi nổi » (ne plus tolérer) một số từ ngữ thanh cao trừu tượng ; trái lại, chỉ có tên « cụ thể » của một vài địa danh, con số « cụ thể » của một vài đơn vị, của một vài ngày tháng, với ông, mới giữ được phần nào phẩm cách. Và có biết thấm đòn ta mới nhận thức được tại sao vấn đề cấp bách của thời đại chúng ta, của thế hệ chúng ta không phải là cải tạo thế giới mà là giữ cho thế giới khỏi bị tan rã, như Camus đã lên tiếng kêu gọi thế hệ ông : «Hẳn là mỗi thế hệ đều cho mình sứ mạng phải tái tạo thế giới. Thế nhưng thế hệ của tôi lại biết rằng nó sẽ không làm thế. Nhiệm vụ của nó có lẽ, vì thế, lại cao cả hơn : đó là giữ cho thế giới khỏi bị tan rã » (Chaque génération, sans doute, se croit vouée à refaire le monde. La mienne sait pourtant qu’elle ne le fera pas. Mais sa tâche sera peut-être plus grande. Elle consiste à empêcher que le monde ne se défasse.  A. Camus .- . Essais, Discours du 10 Décembre 1957, Bibliothèque de la Pléïade, Gallimard 1965, p. 1073).(2)

Lời kêu gọi này, Camus tưởng chỉ dành cho thế hệ ông, thế hệ lớn lên và trưởng thành qua hai Đại thế chiến với những hậu quả khốc liệt của chúng, ai ngờ lại có giá trị thời sự hơn bao giờ hết.

Giữ cho thê giới khỏi bị tan rã, nhiệm vụ xem ra có vẻ tầm thường hèn mọn làm sao, so với sứ mạng rêu rao của những kẻ ôm mộng cải tạo thế giới. Nhưng trước những gì đang diễn ra tại Trung Đông như cuộc thánh chiến giữa hai hệ phái Hồi giáo chiite và sunnite dẫn đến hủy hoại cả tâm hồn lẫn cơ sở vật chất hay, ngay trước mắt, hiểm họa một cuộc thế chiến thứ ba do mưu đồ tham vọng bành trướng của Trung quốc để thiết lập một đế chế Hán tộc mới. Vâng, trước những tìm tòi tiến bộ khoa học nhằm phục vụ hạnh phúc thực sự cho con người thì ít, mà mưu cầu tìm kiếm lợi nhuận hay phục vụ cho tham vọng cá nhân thì nhiều, dẫn đến nguy cơ hủy hoại môi trường, thậm chí còn dẫn đến nguy cơ đe dọa cuộc sống thế gian, ta mới thấy lời kêu gọi của Camus là sáng suốt, không chỉ dành cho thế hệ ông, mà còn cho cả chúng ta nữa. Mà để hoàn thành nhiệm vụ hèn mọn tầm thường này, ta đừng trông mong gì ở những kẻ tự xưng người cầm lái vĩ đại, những kẻ ôm mộng tạc tượng lịch sử cho mình. Nhiệm vụ hèn mọn, tầm thường nhưng rất cao cả ấy, như nhận xét xác đáng của Camus, ta lại chỉ thấy ở những con người bình thường thuộc loại tép riu, những thân phận lau sậy bèo bọt nhưng lại vô cùng cao cả bởi vì, như Pascal đã sáng suốt đánh giá, đó là những cây sậy biết suy tưởng (roseau pensant)(4). Ta có thể thêm rằng là những cây sậy còn có trái tim. Đó là nhưng con người như ông già Anselmo quê mùa , thất học nhưng phúc hậu. Như El Sordo tha thiết với cái đẹp tự nhiên của thê gian này : Biết rằng mình không thoát khỏi cái chết khi máy bay phát xít tới oanh tạc, El Sordo, không lo tới chuyện phải hi sinh, mà chỉ luyến tiếc phải giã từ cuộc sống thế gian với những cảnh đẹp thiên nhiên quyến rũ : « Chết không có nghĩa gì hết, và ý nghĩ không gợi lên trong hắn hình ảnh khiếp đảm nào trong đầu. Nhưng sống, là để được thấy cánh đồng lúa đong đưa lưng đồi lộng gió. Sống, là được thấy con chim ưng bay lượn trên trời… Sống, là được hai chân kẹp lưng ngựa, khẩu cạc bin trong túi da, mắt hướng về phía quả đồi, về phía thung lũng với con suối cây xanh bóng mát, và bên kia thung lũng, vẫn là đồi nối tiếp đồi trùng trùng điệp điệp.  »(Mourir n’était rien et il n’en avait aucune peinture terrifiante dans l’esprit. Mais vivre, c’était un champ de blé balancé dans le vent au flanc d’un coteau. Vivre, c’était un faucon dans le ciel… Vivre, c’était un cheval entre les jambes ,une carabine dans les fontes, et une colline, et une vallée, et un ruisseau bordé d’arbres et l’autre bord de la vallée avec, au loin, d’autres collines.  Sdd. ch. XXVII, tr.337). Và như Robert Jordan, nhân vật người hùng (3) : Biết mình bị thương nơi hai đầu gối, không thể ngồi trên lưng ngựa để cùng đồng đội chạy trốn, Jordan quyết định hi sinh ở lại để cản đường truy lùng của quân phát xít. Tuy hãi hùng với ý nghĩ phải giã từ cõi thế, Jordan đã tìm được an ủi trong mãn nguyện tự hào : « Ta đã chiến đầu từ một năm nay cho điều ta tin tưởng. Nếu chúng ta chiến thắng tại đây, chúng ta sẽ dành được chiến thắng cùng khắp. Thế giới này đẹp đẽ và đáng để ta chiến đấu cho nó. Và ta hãi hùng phải giã từ nó. (Je combats depuis un an maintenant, pour ce en quoi je crois. Si nous sommes vainqueurs ici, nous serons vainqueurs partout. Le monde est beau et vaut la peine qu’on se batte pour lui et j’ai horeur de le quitter.  Sdd. ch. XLIII, tr. 495)

« Giữ cho thế giới này khỏi bị tan rã », phải chăng là cái thế giới còn có tình người chưa bị những toan tính tham lam ích kỷ hủy hoại hủy diệt, cái thế giới còn có những ông già Anselmo quê mùa thất học, nhưng giàu tình người, giàu lòng vị tha, muốn được coi kẻ cầm súng đối diện là bạn chứ không phải là thù ? « Giữ cho thế giới này khỏi bị tan rã », phải chăng là cái thế giới còn giữ được những cảnh đẹp thiên nhiên khiến El Sordo phải luyến tiếc khi biết phải giã từ nó ? Vâng, « giữ cho thế giới này khỏi bị tan rã », chính là cái thế giới của những con người thuộc về đời sống thế gian, cái thế giới mà Jordan có « may mắn » được sống ba ngày vừa qua (Tu as une vie aussi bonne que possible grâce à ces derniers jours ».- Sdd, tr.495). Chỉ cần ba ngày được tiếp xúc với đời sống chân thật tại một vùng đồi núi hoang dã, bên cạnh những con người như Pilar, như Anselmo, như El Sordo, thậm chí cả với Pablo, và nhất là ba ngày được sống tình yêu trọn vẹn bên cạnh Maria… Ngần ấy thứ cũng đủ giúp Jordan nhìn ra ý nghĩa cuộc sống thế gian, và sẵn sàng hi sinh, không phải để thay đổi nó theo lời rêu rao về một thiên đường hoang tưởng của những chủ nghĩa, những ý thức hệ, những hệ phái tôn giáo cực đoan… Không, Jordan sẵn sành hi sinh không phải để chạy theo những thiên đường hoang tưởng đó, mà chỉ để mong sao gìn giữ cái thế giới của ba ngày hạnh phúc thế gian ấy khỏi bị tan rã, và đóng góp vào cải thiện nó mà thôi. Phải chăng đó mới chính là những yếu tố để Hemingway muốn biến Pour qui sonne le glas thành một bản anh hùng ca thời đại ? Nếu quả đúng vậy, ta có thể coi Hemingway là một nhà văn tiên phong có những bước chân đi trước cả « Les Justes » (5) của Camus, trước cả lời nhà văn Pháp lên tiếng kêu gọi tại Stockholm. Và phải chăng cũng chính giá trị văn học nhân bản ấy nơi ông mới là yếu tố khiến Hàn Lâm Viện Stockholm quyết định trao tặng giải văn học Nobel 1954 cho ông, chứ không phải riêng vì trong các sách của ông có những pha gay cấn cụp lạc như phi ngưạ đuổi nhau bắn súng cắc chíu pằng pằng ?

Kết

Viết tới đây xong, đọc lại, tôi giật mình đánh thót một cái và tự nhủ : «Ừa, mà mình có giây mơ rễ má gì với nhà ông Ernest Hemingway đâu, mà sao chịu khó bơm ông ta lên quá sá dzậy ! Người ngoài không biết lại tưởng mình tính giở trò « thấy người sang vơ quàng nhận họ ». Nhưng nếu tôi có tìm lới bốc thơm, cũng chỉ để bốc thơm nhà văn Hemingway thôi. Chứ còn về phần con người Ernest í à, xin lỗi nhờ anh tí, không có em đi hàng đầu. Bởi vì, nếu chỉ nhìn vào đời tư Hemingway, của đáng tội, tôi thấy ông ấy cũng chả khác với tụi mình là mấy ; nếu có hơn thì cũng chỉ hơn chút đỉnh thôi. Này nhá ! Về đường tình ái, ông mới trải qua có bốn đời vợ thôi. Điều này cho thấy Hemingway không chỉ có đa tài, mà còn đa tình, đa đoan nữa. Ngoài ra ông ta có đa thêm cái gì khác chăng ? Khoản này xin chịu, sức mấy tôi biết được. Mà không chỉ có háo sắc, Hemingway cũng háo danh đáo để ra phết lắm cơ. Bằng chứng là ông tỏ ra rất hãnh diện được chính phủ Ý tặng cho tấm huy chương bạc, dù chỉ bị thương khi làm công tác phát bánh kẹo cho binh sĩ dưới giao thông hào. Sở dĩ được phần thưởng cao quí này, nghe đâu nhờ người bạn y sĩ Ý làm báo cáo theo đó, dù bị thương, Hemingway vẫn cố lết kéo một đồng đội về tới trạm cấp cứu rồi mới ngất đi.

Thời gian đầu trở về Mỹ, không ngày nào Hemingway lại chẳng khoác bộ quân phục Ý với tấm huy chương gắn trên chiếc áo choàng như để lấy le với bà con lối xóm. Mãi về sau, trong L’Adieu aux armes  Hemingway mới mượn lời Henry để thanh minh thanh nga rằng ngay sau khi bị thương đã ngất đi, làm sao cứu nổi ai. Rồi tới khi thành danh, tiền bạc vào như nước, Hemingway đã biến trang trại mua trước đây ở gần La Havane, thủ đô Cuba, thành một dinh thự hoành tráng đặt tên la Finca Vigia làm nơi đón khách viếng thăm đủ mọi thành phần. Từ những ngôi sao màn bạc tiếng tăm như Ingrid Berman, Ava Gadner, Tyrone Power, Gary Cooper … tới khách ngưỡng mộ cũng như phóng viên đủ loại. Khỏi phải nói, đây là thời gian sống say sưa bù khú với những buổi tiệc tùng đình đám tưng bừng. Ở ngoài nhìn vào, thấy Hemingway sống hưởng lạc trong khung cảnh xa hoa vương giả ấy, ai mà chẳng thèm. Nhưng phải ở trong chăn mới biết trong chăn có rận. Họ đâu biết rằng, càng ngập ngụa trong hơi men đình đám chừng nào, mỗi lần tỉnh giấc Hemingway lại thêm một lần rơi vào chán chường tuyệt vọng. Chán chường tuyệt vọng, do thương tích bịnh hoạn lại thêm tác hại của thức đêm rượu chè, Hemingway cảm thấy cơ thể ngày một mỏi mệt, sinh lực mỗi lúc thêm kiệt quệ như cái đồng hồ tới lúc hết pin : cây kim đang chạy đều, vừa chỉ đùng sáu giờ rưỡi bỗng khựng lại, vỗ về cách mấy nó cũng không chịu ngo ngoe ngóc cổ dậy. Họa vô đơn chí : thân xác bỗng dưng cụt vòi làm cái đầu cũng đâm tịt ngòi theo. Do sức khỏe không cho phép tung hoành ngang dọc như xưa, Hemingway không tìm ra được nguồn cảm hứng sáng tác. Mà ông cũng không thể làm theo lời dạy khôn của một vài người ông quen biết : Dại gì đi đó đi đây. Cứ ở nhà rờ tí vợ, rồi dùng bộ nhớ và óc tưởng tượng để tha hồ phóng tác, ấy mới là người khôn. Là nhà văn thiên chức, không phải để rao giảng một lý thuyết chân lý cho đời, mà chỉ để nói lên những sự thật biết được ở đời, ông thấy không thể viết lách theo kiểu đó được. Để tìm khuây khỏa, Hemingway bèn quay ra thú chơi mèo. Nghe nói trong nhà ông có lúc tá túc tới cả trăm con mèo lận. Nhưng mèo đây là mèo thứ thiệt biết kêu meo meo, chứ không phải như mấy con mèo để các bà vợ rình đánh ghen đó nghen.

Nhưng tiệc tùng nào chả tới lúc phải tàn canh, xoa lông mèo riết rồi cũng có lúc chán. Mỗi lần say sưa thức tỉnh, lại một lần Hemingway thêm chán chường cuộc sống phù du ảo ảnh trong khung cảnh giàu sang tù túng ấy. Quanh đi quẩn lại vấn từng ấy tiệc tùng, vẫn ngần ấy khuôn mặt ; người thân chí tình thì ít, vo ve tiếng đám ruồi bu thì nhiều. Và ông đâm tiếc nuối « cái thuở ban đầu lưu luyến ấy ». Cái thuở ông cùng người vợ đầu tên Hadley tới sống vô danh trong căn phòng chật hẹp thiếu tiện nghi số 74 đường Cardinal Lemoine tại Paris. Tiếc nuối, vì ông nhận thức được đó mới là thời kỳ sống vàng son huy hoàng thực sự. Vàng son, bởi vì có gì quí giá trên đời bằng tình yêu của một người hết lòng tận tụy cho mình. Huy hoàng, bởi vì có nguồn vui sống nào bằng niềm tin phấn khởi trước viễn ảnh một tương lai rực rỡ đang vẫy tay mời gọi. Đó mới chính là cái thực sự giàu sang, cái thực sự hạnh phúc trong bần hàn, mà biểu tượng là hình ảnh Hadley được ông gợi lên trìu mến : « Nàng có khuôn mặt được tạc khả ái, và đôi mắt nàng và nụ cười nàng rạng ngời tưởng chừng các dự tính của tôi đều là những món quà tôi đem tặng nàng ». (Elle avait un visage joliment modelé, et ses yeux et son sourire s’illuminaient comme si mes projets étaient autant de cadeaux que je lui présentais ».- Paris est une fête.- Folio 5454, Gallimard 2011, p.48).

Chả lẽ cứ sống mãi trong tiếc nuối với chán chường tuyệt vọng hay sao ? Bởi thế cái gì sẽ đến phải đến : một sớm mai đẹp trời (2-7-1961), trong lúc chợt bừng tỉnh khi vừa thức giấc, Hemingway đã tự kết liễu đời mình bằng một phát súng săn, như để thực hiện phương châm sống của một nhân vật trong Pour qui sonne le glas, và chắc ông cũng muốn mượn làm lời trăn trối : « Thà chết đứng còn hơn sống quì » (Il vaut mieux mourir debout que vivre à genoux  . – Sdd. tr. 332). Vậy đó. Dẫu có là nhà văn thiên chức, thiên tài, con người Hemingway cũng không thoát khỏi vòng hệ lụy tham, sân, si ; cũng nếm đủ mùi ca ngâm hỉ, nộ, ái ố, và cũng trải qua đủ bốn giai đoạn sinh, não, bịnh, tử như bất kỳ thập loại chúng sinh nào phải (hay được ?) sống lưu lạc trầm luân trong cõi thế gian ta bà. Chữ não ở đây xin hiểu theo nghĩa phiền não, ảo não như trong từ điển, chứ không phải chữ lão do tôi đọc ngọng mà viết thành não đâu nhá.

Chết là hết chuyện ! Đành rằng là thế. Nhưng ở đời, đôi khi có những điều ta nghe tưởng vậy, té ra chưa hẳn đã là vậy. Bởi vì phàm ở đời, cái gì dù có là gì hay chẳng ra gì, thì ở cái gì cũng còn lại chút gì đó. Cũng vì thế cho nên, con người và cuộc đời Ernest có ra sao, thì nhà văn Hemingway cũng đáng cho ta nheo mắt dòm. Và để kết thúc bài viết này, tôi xin mượn lời của chính Hemingway viết vể Paris để nói về ông như sau : Không thể có bài nhận định hoàn tất nào về Hemingway cho được. Những ai có đọc Hemingway đều tìm ra cho mình những cảm nhận thích thú riêng. Hemingway rất đáng cho ta đọc. Và nhà văn Hemingway sẵn sàng đãi ngộ những ai có lòng đến với ông.

(Bắt đầu đọc để viết ngày 30-4-2017. Viết xong, đọc lại để bổ sung và sửa đổi cho hoàn chỉnh ngày 12 - 3 – 2021)
Tài liệu tham khảo :
Ernest Hemingway : Œuvres romanesques, Tome I et II, Bibliothèque de la Pléïade , Gallimard 1966.
Luce Michel : Ernest Hemingway à vingt ans, Edition Au diable vert 2011.
Gérard de Cortanze : Hemingway à Cuba, Le Chêne, 1997 (Folio No 3663)
Jérome Charyn : Hemingway, portrait de l’artsite en guerrier blessé – Découvertes Gallimard 1999
Chú thích :
1. Vì muổn đảm nhiệm thiên chức nhà văn của mình là nói lên những sự thật được biết, nên cảnh mô tả cuộc tàn sát này đã bị bộ máy tuyên truyền xô viết thời đó cực lực chỉ trích và nghi ngờ Hemingway là người của CIA gài vào để bêu xấu quân chính phủ Cộng Hòa Tây Ban Nha, được Liên Xô ngấm ngầm yểm trợ. Trong khi đó Hemingway lại bị chính quyền Mỹ lúc đó nghi ngờ là thiên cộng và ghi vào sổ đen để theo dõi vi hầu hết các nhân vật trong cuốn sách lại được mô tả như là những con người lương thiện đấu tranh cho lý tưởng tự do dân chủ ( Hemingway, Bibliothèque de la Pléiade, tome II, Gallimard 1969, pp. 1670-1671)
2. Trích đoạn trên đây được lấy từ bản diến văn thứ nhất đọc ngày 10-12-1957 tại tòa Đô chính Stockholm nhân dịp bế mạc lễ trao giải thưởng Nobel. Bên cạnh vấn đề trước mắt đặt ra cho thời đại chúng ta, Camus còn nêu ra hai khó khăn chủ yếu của nhà văn để đảm nhiệm chức năng của mình như sau : « Le rôle de l’écrivain, du même coup, ne se sépare pas de devoirs dificiles. Par définition, il ne peut se permettre aujourd’hui au service de ceux qui font l’histoire ; il est au service de ceux qui la subissent… Puisque sa vocation est de réunir le plus grand nombre possible, elle ne peut s’accommoder du mensonge et de la servitude qui, là où ils règnent, font proliférer les solitudes. Quelques soient nos infirmités personnelles, la noblesse de notre métier s’enracinera toujours dans deux engagements difficiles à maintenir : le refus de mentir sur ce que l’on sait et la résistance à l’oppression. ».- Sddd. Tr.1072. (Vai trò của nhà văn, do đó, không thể tách khỏi các nghĩa vụ khó khăn. Ông ta không thể dùng ngòi bút để phục vụ những kẻ muốn làm ra lịch sử : ông ta phải đứng về phía những người chịu đựng lịch sử… Cũng vì chức năng của ông ta là tập hợp được càng đông người cảng tốt, chức năng đó không cho phép ông ta được dối trá hay tòng phục, bởi vì hai điều này, bất kỳ nơi nào chúng ngự trị, sẽ làm nảy nở nỗi cô đơn. Dẫu mỗi (nhà văn) chúng ta có khuyết tật ra sao, thì chức năng cao quí của nghề nghiệp vẫn là phải xây dựng trên hai cam kết khó mà giữ được :  Đó là không dối trá về sự thật được biết và chống đối lại áp bức. In đậm do tôi, NBH) Đối chiếu phát biểu trên của Camus với nội dung ý nghĩa của hai cuốn L’Adieu aux armes (1929) và Pour qui sonne le glas, liệu ta có thể coi Hemingway là nhà văn mở đường cho Camus hay không ?
3. Nếu như các nhân vật khác trong truyện có thể phần nào là nhân vật hư cấu, thì Jordan, nhân vật người hùng, đã được phỏng theo một nhân vật có thật ngoài đời ; Đó là Robert Merriman công dân Mỹ, giáo sư kinh tế chính trị học tại Berkeley, từng đảm nhiệm chức tham mưu trưởng Lữ đoàn Quốc tế 15 trước khi tử trận trên bờ sông Ebre năm 1938 (La Pléiade, t.II, p 1970)
4. « L’homme n’est qu’un roseau, le plus faible de la nature ; mais c’est un roseau pensant. Il ne faut pas que l’univers entier s’arme pour l’écraser : une vapeur, une goutte d’eau suffit pour le tuer. Mais, quand l’univers l’écraserait, l’homme serait encore plus noble que ce qui le tue, parce qu’il sait qu’il meurt, et l’avantage que l’univers a sur lui ; l’univers n’en sait rien. » Blaise Pascal :  Pensées, Classiques Garnier, 1961, p.162) (Con người chỉ là một cây sậy, sinh vật yếu ớt nhất trong thiên nhiên ; nhưng là một cây sậy biết suy tưởng. Không cần cả một vũ trụ trang bị để đè bẹp nó : một làn hơi, một giọt nước cũng đủ. Nhưng, dẫu cho vũ trụ có đè bẹp được nó, con người lại cao cả hơn kẻ đã diệt nó, bởi vì con người biết được mình phải chết, trong khi vũ trụ lại chẳng biết gì về ưu thế của mình đối với con người, ) Phải chăng những suy tư của Anselmo, của Ẹl Sordo, của Jordan trước khi chết đều có thể là những minh chứng cho các nhận định suy tưởng trên đây của Pascal ?

ĐỌC LẠI : Phần Thứ I





| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com