Việt Văn Mới
Việt Văn Mới









ĐỒ GỐM CỔ,

MỘT NỀN VĂN HÓA THUẦN VIỆT





Từ Vũ NewVietArt ViệtVănMới trân trọng cảm ơn
nhà thơ, nhà biên khảo Bùi Ngọc Tuấn đã ưu ái cho phép đăng tải toàn bộ công trình biên khảo này.



   C húng ta có rất ít tài liệu về đồ gốm cổ truyền Việt Nam, số người sưu tập đã ít, số sách vở viết về đồ gốm, đồ gỗ, đồ đồng Việt chỉ được phổ biến một cách hạn hẹp. Trong số tài liệu ít ỏi đó, phần lớn được viết bằng bởi người ngoại quốc ở Úc, Anh, Nhật… trong mươi, mười lăm năm gần đây. Nhiều người Việt không biết rằng dân tộc mình có một ngành nghệ thuật thuần nhất, phong phú, kéo dài nhiều trăm năm và rất được yêu chuộng bởi các nhà sưu tập trên thế giới. Những món đồ gốm, hình tượng gỗ, trống đồng này rất đặc biệt Việt Nam, rất đẹp và rất hiếm có. Chúng tôi có cái duyên may là yêu thích ngành nghệ thuật tạo hình đặc sắc này của ông cha, nên trong những năm qua đã có dịp tìm hiểu và sưu tập được khá nhiều món, từ tô, đĩa, đến bình, ấm, lư hương, chân đèn.. Càng tìm hiểu chúng tôi càng say mê hơn và nhận rõ hơn cái giá trị tuyệt vời của nghệ thuật tạo hình cổ truyền Việt Nam. Càng tìm hiểu chúng tôi càng bứt rứt vì thấy ít ai biết đến và ít ai sưu tập những món đồ thật sự Việt Nam, vừa đẹp vừa nghệ thuật, vừa giầu kỹ thuật sáng tạo lại vừa chứa đựng cả dòng diễn tiến của văn hoá nhà qua những món đo.à.. hoặc thường dùng hàng ngày, hoặc khi tế lễ, hội hè, từ thôn quê đến kinh đô. Do đó dù sự hiểu biết còn thiếu xót, dù cuộc nghiên cứu chỉ mới ở mức khởi đầu, nhưng cảm thấy không thể chờ đợi lâu hơn được, chúng tôi đành mang cái biết thiếu xót ấy, mang những vật tích gom góp được để trước là mua vui cho bà con, sau là khơi động lên lòng yêu văn hóa dân tộc, rồi từ đó những cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh sẽ được thực hiện bởi các nhà chuyên môn. Ngõ hầu người Việt chúng ta hiểu rõ hơn, yêu nhiều hơn, rồi cùng chung giữ và trân quí các món đồ biểu hiệu cả một dòng tình tự dân tộc. Hy vọng rằng một ngày gần đây đa số chúng ta biết và yêu những nét chạm khắc trên cột đình cổ, những cái trống đồng, những món đồ Chu Đậu, đồ Lý Trắng, Lý Nâu ... để càng hiểu và yêu thêm cái tâm tình thuần Việt được thể hiện qua bàn tay người nghệ sĩ Việt nhiều trăm năm trước. Để qua những cái đĩa, cái chén, cái trống đồng, các hình tượng ấy, chúng ta sẽ thấy rõ ông cha ta nhìn đời sống chung quanh mình thế nào.


CHƯƠNG IV

Chu Đậu, tuyệt đỉnh của đồ gốm cổ truyền Việt Nam

Thế kỷ 14 - 16


T ừ cuối thế kỷ 14 ta thấy phát triển loại men, loại hoa văn vô cùng độc đáo, rất cao cả về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Đó là thời kỳ tột đỉnh của đồ gốm Việt Nam, loại đồ gốm mà ngày nay được biết dưới tên ‘Đồ Gốm Chu Đậu’ . Tiếc thay nền kỹ thuật và mỹ thuật này đã tàn lụi vào đầu thế kỷ 17, sau những chận triến dữ dội thời Lê Mạc ở nơi đó.

Đồ gốm Chu Đậu chìm sâu trong lòng đất, dưới đáy biển suốt mấy trăm năm. Những món còn được lưu giữ ở các viện bảo tàng bên Châu Âu thì đã từng bị xếp lộn vào đồ gốm Trung Hoa. Gốm Chu Đậu chỉ được biết đến và tìm hiểu từ năm 1980, khi ông Makato Anabuki (thuộc tòa đại sứ Nhật Bản ở Hà Nội) nhìn thấy ở Tokapi Saray Museum, Istanbul, Turkey, một bình cao cổ men trắng xanh, hoa văn cánh sen và hoa mẫu đơn, với câu ‘Thái Hoà bát niên. Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút’ - nghĩa là: ở phủ Nam Sách, năm Thái Hòa thứ tám, họa sĩ Bùi thị Hý vẽ. Từ đây chúng ta gọi bình này là bình Tokapi Saray. Bình này cao 54 cm, tuyệt đẹp. Dù hiện nay thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng chính phủ Việt Nam nên tìm cách xin hay chuộc về làm quốc bảo.

Địa danh Nam Sách châu cho ta biết nơi chế tạo (phủ Nam Sách tỉnh Hải Dương), và chữ Thái Hòa bát niên cho ta biết năm chế tạo (1450 năm Thái Hòa thứ tám, đời vua Lê Nhân Tông). Từ đây những nhà khảo cổ mới hướng về phủ Nam Sách, rồi năm 1983 ở làng Chu Đậu, dưới vườn nhà một nông dân là ông Vang, người ta đào được các di tích lò gốm. Rồi việc tìm kiếm, khai quật bắt đầu, và tìm thấy cả một nền đồ gốm rực rỡ, thịnh vượng kéo dài 3, 4 thế kỷ.

Những khai quật này đưa đến trung tâm của nền nghệ thuật này: Phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ở đây ngoài làng Chu Đậu còn có các lò gốm khác ở làng Vạn Yên, làng Gốm, làng Ngói, làng Phú Điền, làng Phúc Lão, làng Cậy.... Đồ gốm Chu Đậu được phát hiện nhiều trong các ngôi mộ cổ, đình chùa, từ đường và nhiều nhất là dưới các tầu buôn chìm ngoài khơi Hội An, Đà Nẵng...

Từ đây người ta ít gọi các món đồ này là đồ men trắng chàm (nền men trắng, hoa văn màu chàm - màu xanh lơ) mà gọi bằng tên đồ gốm Chu Đậu. Gọi là đồ gốm Chu Đậu, bởi vì đây là nơi di tích các lò gốm cổ sản xuất loại đồ gốm này được khám phá ra trước nhất. Những khai quật trong năm 1986, 1987, 1989, 1991, 1992 và 1993, cho thấy đồ gốm Chu Đậu được sản xuất ở rất nhiều nơi gần bờ sông trong tỉnh Hải Dương mà tập trung nhiều nhất ở phủ Nam Sách.

Công lớn về những khám phá này là của ông Tăng Bá Hoành, giám đốc viện bảo tàng Hải Dương. Người đã nghiên cứu, gìn giữ và viết rất kỹ lưỡng về đồ gốm Chu Đậu tìm được trong các cuộc khai quật này. Đồ gốm Chu Đậu hình dáng thanh tao, nước men trong mà mỏng, hoa văn đầy hình ảnh đời sống thôn làng Việt Nam.

Đồ gốm Chu Đậu bắt đầu được sản xuất từ cuối thế kỷ 14, rực rỡ nhất vào thế kỷ 15, 16 rồi tàn lụi vào đầu thế kỷ 17, trong khi các lò gốm khác ở Hải Dương còn sản xuất những món đồ không men (nồi đất, chum, vại…) cho đến thế kỷ 18, hay cho mãi đến bây giờ như làng Cậy, làng Lâm Xuyên (chuyên làm nồi đất không men).

Làng Chu Đậu từ lâu nổi tiếng về nghề dệt chiếu. Trước đây, ở ngoài Bắc, khi trong nhà có người lập gia đình, người khá tiền thường mua một vài cặp ‘chiếu Đậu’ để cho cô dâu chú rể dùng. Dân làng bây giờ chỉ còn biết làm ruộng và dệt chiếu, họ không biết làm đồ gốm nữa và cũng không ngờ rằng ông cha họ đã từng làm những món đồ gốm tinh xảo, tuyệt mỹ. Các lò gốm ngày xưa nay đã nằm sâu dưới ruộng nương, vườn tược. Một địa danh trong làng là ‘Đống Lò’ nhưng chính dân làng vẫn không biết là lò gì.

Từ đầu thế kỷ 17, nghề làm đồ gốm ở đây như tự nhiên mất tích, không còn lò gốm, không còn người làm đồ gốm. Dấu vết chìm sâu dưới lòng đất, biến hẳn trong ký ức dân làng!

Bao quanh bởi nhiều con sông lớn, người dân làng Chu Đậu có những phương tiện giao thông tiện lợi. Họ có thể chuyển đồ lên Thăng Long, ra Phố Hiến, Vân Đồn để bán trong nước, để xuất cảng ra nước ngoài. Họ có thể chuyên chở đất sét mịn mua từ Hố Lao (Đông Triều, Quảng Yên) chỉ cách đó 30km một cách nhanh chóng, dễ dàng. Thành công về thương mãi, họ có cơ hội, có phương tiện, có động cơ phát huy nghệ thuật và kỹ thuật rất cao. Tiếc thay, thời cuộc đã hủy diệt mất một nền kỹ thuật và mỹ thuật giá trị của dân ta.

Những dòng họ tài danh nhất về đồ gốm ở làng Chu Đậu là họ Đặng, họ Vương. họ Bùi, họ Đỗ. Với những kỳ tài như Vợ chồng Đặng Huyền Thông - Nguyễn Thị Đỉnh, Đặng Hữu, Đặng Tính Không. Ông Tăng Bá Hoành, trong ‘Gốm Chu Đậu’ có trích gia phả nhà Họ Vương câu: ‘Nam Sách phủ, Thanh Lâm huyện, Đặng Xá xã, dĩ đào bát vi nghiệp, hậu nhất chi di cư Gia Lâm huyện, Bát Tràng xã. Cụ Vương Quốc Doanh hưng công dĩ đào bát vi nghiệp’ (họ Vương ở xã Đào Xá huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách làm nghề đồ gốm; Sau một chi di cư về xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, và cụ Vương Quốc Doanh làm hưng thịnh nghề đồ gốm ở đấy).

Đồ gốm Chu Đậu cũng có nhiều thứ như men ngọc (celadon), men nâu, men trắng, men lục. Tuy nhiên tiêu biểu nhất là men trắng trong với hoa văn mầu xanh (men trắng chàm) và men trắng trong với hoa văn ba mầu vàng, đỏ nâu và xanh lục (men tam thái)

Men ngọc, men trắng, men nâu và men nâu đen thường bị lẫn với đồ gốm đời Lý Trần, tuy nhiên, hoa văn trên men Lý nhiều ảnh hưởng Phật Giáo, hoa văn Chu Đậu phản ảnh đời sống nông thôn Việt Nam, hoa văn trên men Lý thường được vẽ bằng cách khắc chìm hay khắc nổi, hoa văn Chu Đậu được vẽ bằng men mầu.

Men ngọc thời Chu Đậu cầm thấy nặng tay, chất đất thô hơn và tiếng gõ không thanh như men ngọc của người Tầu. Bình ấm thời Lý thường có vòi hình đầu rồng, hình vòi voi, hình đầu chim, hình makara, gurada (makara: thủy quái của thần thoại Ấn Độ, gurada: chim thần của thần Vishnu - Ấn Độ giáo)…

Các bát đĩa đời Lý thường còn sót lại dấu con kê rõ ràng, đồ gốm Chu Đậu khéo hơn dấu con kê không còn nữa. Đáy các chén đĩa thời Lý thường để trơ đất mộc, đáy của đồ gốm Chu Đậu thường được quét một lớp son nâu, mầu đậm, thường khi vẫn còn nguyên dấu bút. Lớp son nâu này không phải là men, mà chỉ là một lớp son pha bằng mầu nâu rất mỏng để bảo vệ đáy chén đĩa. Đây là những đặc điểm phân biệt đồ gốm ta và đồ gốm Tầu. Gốm Tầu không bao giờ để trơ đất mộc, hay quét son nâu. Gốm Tầu cũng không bao giờ có dấu con kê. Con kê là một kỹ thuật hoàn toàn Việt Nam. Kỹ thuật này dù làm cho món đồ kém đi chút phẩm chất, nhưng lại là một phát kiến riêng của người thợ Việt Nam nhằm tránh cho chén đĩa không bị dính vào nhau khi nung mà lại tiết kiệm được diện tích lò.

Men trắng Chàm và men tam thái nổi danh và được ưa chuộng hơn cả. Men trắng chàm (nền men trắng, hoa văn mầu xanh biếc) chiếm số lượng cao nhất. Các món đồ vớt được ở ngoài khơi Đà Nẵng - Hội An cũng đều là men trắng chàm. Do đó, khi nói về đồ gốm Chu Đậu, người ta chỉ thường biết về loại này mà ít để ý đến các loại men khác.

Đồ gốm Chu Đậu men trắng chàm thường thấy bây giờ là những món Chu Đậu chúng tôi coi là thuộc hạng kém hơn về phẩm chất. Những món có phẩm chất cao, tuyệt đẹp đã nằm trong tay các nhà sưu tập chuyên nghiệp ở Âu Châu, ở Úc Châu, ở Singapore, ở Hong Kong, ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ, Âu Châu và Ả Rập... Từ giữa thập niên 1980 cho đến giữa thập niên 1990, những nhà sưu tập này đã vào Việt Nam vào mua hết tất cả, với những giá rất rẻ. Loại đồ gốm Chu Đậu hạng nhất này nhiều món đẹp tuyệt vời, bứt xa đồ nhà Minh, và đẹp không kém gì đồ gốm men lam của nhà Thanh bên Tầu.

Vì kỹ thuật giản dị nên mầu đỏ và mầu xanh lục của men tam thái Chu Đậu không bền. Những món đồ này nằm trong lòng đất hay ngâm dưới đáy biển đã bị lợt đi hết. Phần lớn những món men tam thái ta thấy bây giờ là được người ta tô lại chứ hiếm khi là nước men ba mầu nguyên thủy.

Tuyệt vời nhất là hoa văn trên men trắng chàm và men tam thái. Hình ảnh thuần túy Việt Nam. Họ vẽ tàu lá chuối, nhánh rong, chim sẻ, chim chích chòe, con tôm, con cá bống, con cóc, con rùa, cọng rau muống, bông hoa cúc, hoa sen. Cũng như các bình ấm Việt Nam đời trước, thảng hoặc lắm ta mới thấy một vài bình, ấm thời Chu Đậu có quai cầm, còn ngoài ra, nơi quai cầm chỉ là một vật trang trí như con rùa, con cá, bông sen... như đồ gốm Việt Nam các thời trước.

Bình, đĩa Chu Đậu trang trí hình hoa mẫu đơn (Peonie), chim sẻ, chim chích chòe, hoa cúc, lá tre, hình vẽ khi thì phóng túng, phác bút, khi thì tỉ mỉ với nhiều chi tiết. Nét vẽ đậm nhạt khi rõ khi mờ, chứng tỏ người nghệ sĩ đã rất ý thức trong việc sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật nhiều hơn là sản xuất một món đồ dùng hàng ngày. Vì thế cái phóng túng của người nghệ sĩ Việt càng biểu lộ rõ. Những hoa văn hoàn toàn thoát khác hẳn những khuôn khổ Trung Hoa.

Đây là thời kỳ với những bình, những ấm mà khi vẽ vừa xong, men còn ướt, người thợ tạt nước lên cho hình vẽ nhoè đi, mờ mờ, ảo ảo nhìn rất thích mắt. Họ lựa chọn nhũng hình ảnh mà người nghệ sĩ Trung Hoa không bao giờ nghĩ đến (Con tôm, con cua, con chuồn chuồn, chim sẻ, chim chích chòe, cá bống, cá chép hóa rồng ...

Về thứ loại, về hình dạng thì đồ gốm Chu Đậu thật phong phú: Bát chân cao, Bát chân thấp, Tô, Đĩa, Chén, Tước, Bình, Ấm, Âu, Chậu, Lu, Hũ, Chậu, Bát Hương, Bát Trầm, Chân Đèn, Hộp, Lọ, Bình Vôi, nghiên mực thì lại cũng dùng hình ảnh nông thôn như nghiên mực hình con trâu, con cua, rồi lại còn đồ chơi của trẻ em như các hình tượng con gà, con cóc, con lợn, người cưỡi ngựa... thôi thì đủ cả, từ các món đồ dùng trong nhà người dân, trong đình chùa, trong nhà giới trưởng giả, cho đến đồ xuất cảng...

Nhưng xem đồ gốm Chu Đậu mà bỏ qua bình tỳ bà thì thật là uổng. Món này xa lạ với sinh hoạt dân gian Việt Nam. Ngoài các cuộc khai quật ở các lò gốm cũ ở làng Chu Đậu, loại bình này thường được tìm thấy từ các tầu buôn đắm ngoài khơi Hội An - Đà Nẵng. Phải chăng nó chỉ được làm để xuất cảng sang Ả Rập? Người Ả Rập dùng làm gì? Đây là những câu hỏi thú vị.

Như tên gọi, bình tỳ bà có hình dáng giống cây đàn tỳ bà để dựng đứng. Mình thuôn tròn, cổ nhỏ, miệng loe, thân tròn phình to. Thường có bốn tầng hoa văn, trong lòng miệng bình cũng có hình vẽ hoa lá. Tầng thứ nhất ở chung quanh cổ bình hoặc vẽ những tầu lá chuối hay hình cây lúa, tầng thứ hai thì khi hình hoa cúc, hoa mẫu đơn, khi thì những chuỗi hình xoắn ốc đứng, tầng thứ ba lớn nhất là hình chim chích choè, chim sẻ hay là những ô vẽ đợt sóng biển bên cạnh những ô vẽ hình hoa lá, tầng dưới cùng là các ô với những vòng tròn hình bầu dục chồng lên nhau.

Bình tỳ bà to nhỏ khác nhau, nhưng đa số thường có đường kính dưới đáy bình độ 9cm, chỗ to nhất ở thân bình phình ra vào khoảng 14cm, đường kính ở cổ bình là 4cm, và ở vành miệng loe là 8cm, b ình cao khoảng 30, 32cm.

Tước (hay bôi), tức là ly uống rượu chân cao, thì ngoài những tước men ngọc, mầu xanh trong, còn có những sáng kiến kỳ diệu như tước thần kim quy. Ẩn trong chân tước này là một quả nổi để lộ hình rùa thần kim quy ngồi dưới đáy, khi rượu được rót vào, thì hình thần kim quy từ từ nổi lên theo mực rượu trong lòng tước.

Đĩa Chu Đậu rất đẹp, men trắng trong với hoa văn mầu chàm. Có những đĩa tam thái rất lớn (đường kính đến khoảng 50cm), nhưng thường thường thì vào khoảng hơn 25cm đường kính. Hoa văn trong lòng đĩa thường gồm hai phần. Vành đĩa là một vành rộng 5cm vẽ cành rau, nhánh lá, tâm đĩa vẽ nhiều hình rất đẹp: Hình con công, con vạc, con nghê, cá chép vượt vũ môn, hươu chạy trên đồng cỏ, bên khóm trúc, bờ lúa, đôi chích chòe, đàn vịt bơi trên hồ sen, trận thủy chiến, cành mai, đóa cúc, đóa mẫu đơn... đường kính độ 15cm. Vành ngoài thành đĩa cũng vẽ những hình hoa lá rất chi tiết. Hoa văn mầu xanh chàm, đĩa lớn thì thường là men ba mầu (tam thái).

Cùng với bình tỳ bà và bát Chu Đậu, đĩa Chu Đậu là những món đẹp và nổi tiếng, được rất nhiều viện bảo tàng và nhà sưu tập quốc tế ưa chuộng. Tiếc thay! cũng chính vì thế mà không còn bao nhiêu món đẹp trong tay người Việt.

Bát Chu Đậu cũng thường là men trắng chàm, đường kính ở miệng bát từ 14 đến 16cm, cao từ 8 đến 10cm. Nhiều loại hoa văn khác nhau. Khi thì chim sẻ đậu trên cành mai, khi thì đóa cúc, đóa mẫu đơn, khi thì lại là khóm phong lan... trong lòng bát. Vành trong của bát cũng vẽ những vòng tròn hoa lá. Hoa văn ở mặt ngoài bát thường gồm hai tầng, phía trên là một vành hoa mai, hoa cúc cao khoảng hơn 3cm, tầng dưới, khoảng 4cm, là những ô có hình các vòng xoắn ốc tiêu biểu của gốm Chu Đậu, trên vành ngoài của miệng bát cũng có những vòng đồng tâm.

Trôn bát không có men đã đành, vành miệng bát thì cũng thường không có men nữa. Tại sao? Bởi vì nếu hai món đồ tráng men mà để chạm nhau trong lò, khi nung chín, các món này sẽ dính chặt vào nhau, không còn dùng được nữa. Ngoài việc dùng con kê (vòng tròn bằng đất mộc đễ giữa các bát đĩa cho khỏi dính vào nhau, người ta còn chừa vành bát đĩa, trôn bát đĩa trơn, không tráng men. Rồi khi xếp vào lò nung, thì cứ lần lượt, miệng cái xấp úp vào miệng cái ngửa, trôn cái ngửa đặt lên trôn cái xấp, thế là chồng được vài ba tầng mà không bị hỏng. Ngoài ra ta còn những bát có vành men cạo ở giữa đáy bát, với đường kính to bằng trôn bát. Đây cũng là một kỹ thuật tuy kém tinh vi nhưng lại thực dụng vì khi xếp chồng các bát chén này để nung, chúng không bị dính vào nhau.

Một món đồ kỳ thú, có hình dáng nửa đĩa nửa bát. Đường kính miệng độ 11cm, đường kính đáy độ 7cm, cái thấp thì cao gần 4cm, cái cao vào khoảng hơn 6cm. Dùng làm bát thì trẹt quá, dùng làm đĩa thì nhỏ quá mà chân lại cao. Chân chén là hoa văn hình tròn đồng tâm, hay là những đám mây bay, vành ngoài, vành trong là những vòng hoa lá, tâm chén thường có một chữ Hán (chữ Phúc, chữ Chính, chữ Trung, chữ Ngọc, chữ Kim…). Nhiều chén loại này cũng có vành men cạo. Những món này không thấy có trong đồ gốm đời Lý Trần, mà cũng không thấy trong đời sống người Việt. Tới chừng thấy người Ả Rập bây giờ dùng một thứ tương tự để uống trà, ta mới hay đây là đồ dùng để chỉ xuất cảng sang vùng đó.

Cũng làm để xuất cảng sang Ả Rập là các hộp phấn và lọ nước hoa. Hộp phấn tròn, đáy hộp cao 4cm, nắp hộp cao gần 2cm, chỗ phình lớn nhất khoảng 6cm, cũng men trắng trong hoa văn mầu chàm, thân hộp thường để trắng, nắp hộp vẽ cảnh giòng sông, lâu đài hay đóa sen, bông cúc. Lọ nhỏ cũng cao khoảng 6cm, miệng gần 2cm, chỗ phình lớn nhất khoảng hơn 6cm đường kính. Hoa văn trên lọ bao giờ cũng nhiều hơn hoa văn vẽ trên nắp hộp. Vành miệng thường là hoa sen, thân lọ thì là cành hoa, nhành lá rất mỹ thuật. Ngoài những loại men trắng chàm này, đôi khi ta cũng thấy những hộp lớn hơn, mà thấp. Đường kính của các hộp này vào khoảng 10 - 12cm, cao độ 4cm, Có cái không hoa văn, nắp khắc nổi hình vỏ sò, hay bông sen. Có những hộp lớn này, mà cả nắp lẫn thân hộp cũng có những hoa văn như trên các bát đĩa Chu Đậu khác.

Đôi khi ta thấy một loại đĩa nhỏ độ 4, 5cm, có chân, trong lòng không tráng men, nhưng lại có hoa văn rất dầy chạm bằng mũi nhọn làm cho lòng đĩa nhám. Rất nhiều người lầm rằng loại này là một thứ đế kê các chén nhỏ. Nhưng thật ra, đây là đĩa của phụ nữ thời xưa dùng mài phấn bôi mặt. Phấn thời đó được làm thành từng thỏi, khi đánh phấn người ta phải mài phấn vào trong lòng nhám của đĩa để lấy bột phấn xoa lên mặt.

Ngoài ra còn có rất nhiều hồ rượu hoa văn trắng chàm và hoa văn 3 mầu (tam thái). Lại có các hồ rượu hình chim vẹt hình con gà, các chén uống trà có quai cầm là chim vẹt. Lư hương và chân đèn thời Chu Đậu lớn và đẹp vô cùng. Có những chân đèn cao 70, 80cm, lư hương cao 35, 40cm. Một số lớn có ký tên người làm và đề rõ năm tháng, như vợ chồng Đặng Huyền Thông - Nguyễn Thị Đỉnh, vợ chồng Đỗ Xuân Vi, Lê Thị Ngọc, vợ chồng Bùi Duệ, Lê Thị Cận, Đặng Hữu, Đặng Tính Không, Bà họ Đỗ ở Phủ Quốc Oai, Bà Bùi Thị Hý ở Phủ Nam Sách... Chân đèn gồm hai phần chồng lên nhau, chỗ cắm nến rất lớn, đắp nổi hình rồng bốn móng chứng tỏ đây là đồ dùng trong chùa.

Năm tháng đề trên các món này tỏ rõ một giai đoạn lịch sử. Hải Dương là đất tổ của giòng họ Mạc. Những món đã làm khi nhà Mạc chưa lên (1527) thì đề niên hiệu vua Lê. Khi nước ta chia hai thành Bắc Triều (nhà Mạc) và Nam Triều (nhà Lê) thì các niên hiệu trên những món đồ gốm này là niên hiệu của nhà Mạc chứ không phải là niên hiệu nhà Lê nữa. (Một chân đèn ghi rõ: Hưng Trị tam niên, nhị nguyệt tạo, Nam Sách Phủ, Thanh Lâm Huyện, Hùng Thắng xã, Đặng Huyền Thông thê Nguyễn Thị Đỉnh - nghĩa là Đặng Huyền Thông cùng vợ là Nguyễn Thị Đỉnh quê tại xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách tạo vào tháng 2 năm Hưng Trị thứ ba (1590). Chân đèn cũng vẫn là men trắng hoa văn mầu chàm, thường gồm năm tần, dưói cùng là vành hoa sen, có khi đắp nổi hình những bông cúc, rồi đến thân của chân đèn là hai tầng lớn, tầng dưới là những hoa cúc, tầng trên là hình rồng uốn quanh, đắp nổi bằng đất mộc. Đây vẫn là con rồng Việt Nam: mình nhỏ dài, uyển chuyển, vẩy láng, râu dài, mặt hiền chứ không phải con rồng Tầu của đời Nguyễn sau này (mà buồn thay ta vẫn thấy người Việt bây giờ vẽ). Người Trung Hoa khi vẽ rồng, bao giờ cũng chỉ vẽ rồng với mây mà thôi. Người Việt Nam lại thêm hoa cúc, hoa sen vào. Người nghệ sĩ Việt coi mỗi món đồ là một tác phẩm nghệ thuật. Lư hương rất đẹp, nhiều cái hình tròn, nhưng nhiều cái lại hình chữ nhật, rất nhiều hoa văn rất nhiều hình chạm, hình đắp nổi hoa sen, hoa cúc và những biểu tượng Phật Giáo.

Trở ngược giòng lịch sử, chúng ta cần cải chính một hiểu biết sai lầm rất lớn về văn minh Việt Nam: đó là ảnh hưởng Trung Hoa. Qua Nho học, qua những năm Bắc Thuộc, tất nhiên ta có tiếp nhận những nét đại cương của văn minh Trung Hoa. Tuy nhiên phần lớn những ảnh hưởng này chỉ ở trong giới quan lại, trưởng giả mà thôi. Còn quần chúng Việt Nam vẫn cứ giữ nguyên văn minh Việt hoặc khéo hơn, họ Việt hóa những điều đã học được cho phù hợp với tâm tình, nếp sống riêng. Vì thế sau cả một ngàn năm Bắc Thuộc ông cha ta, không những vẫn còn giữ nguyên được tiếng nói dân tộc, mà còn làm cho tiếng Việt phong phú hơn với những từ ngữ Trung Hoa đã được Việt hóa.

Một điểm rõ ràng là trong khi ở Trung Hoa cho mãi đến thế kỷ 20, khi Tôn Dật Tiên thành công trong việc tiêu diệt chế độ quân chủ, thì trên pháp luật quyền của người phụ nữ Trung Hoa mới được công nhận. Trước đó họ không có quyền làm chủ cơ sở thương mại, kỹ nghệ, không được làm chủ đất. Nếu chồng chết đi mà chưa có con trai thì gia tài thuộc về các em trai nhà chồng, chứ họ không được thừa hưởng.

Trong khi đó ở nước ta, bộ luật Hồng Đức của vua Lê Thánh Tông đã cho người đàn bà được làm chủ ruộng đất, hiệu buôn... Rồi ta thấy, Đặng Huyền Thông và Nguyễn Thị Đỉnh ký tên chung trên các món đồ họ làm, bà Bùi Thị Hý, bà họ Đỗ cũng tự ký tên mình trên các chân hương, chân đèn, tên các bà sãi Nguyễn Thị Liên, Vũ Thị Dương cũng được viết lên các món họ đặt cho chùa... (Bà Bùi Thị Hý là người làng vốn hay chữ đã giả trai để đi thi, đậu đến Tam Trường thì bị phát giác. Nên trở về quê, kết duyên cùng ông Đặng Sỹ, người làm chủ một lò gốm lớn ở Chu Đậu. Với tài vẽ đẹp, chữ tốt, bà đã vẽ hoa văn cho rất nhiều món đồ do lò gốm gia đình sản xuất). (8)

Việc coi trọng phụ nữ ở Việt Nam không phải đến đời Lê mới có. Từ thời thượng cổ, qua thời Hán Thuộc, mặc cho người Tầu, mặc Tích Quang, mặc Nhâm Diên, người Việt vẫn cứ coi trọng người đàn bà, người mẹ. Bà Trưng, Bà Triệu dấy binh, cầm quân cầm tướng, có ai là người bảo là không được đâu? Mấy ông anh hùng bên Tầu bên Nhật tìm đỏ mắt cũng không bao giờ có những trang sử oanh liệt như thế. Rồi hãy đọc vài câu ca dao như: Mẹ em tham thúng xôi vò - Tham con lợn béo tham vò rượu tăm.... Bố em đâu rồi, sao quyết định của mẹ lại là quyết định một mình, quyết định tối hậu như thế? Bởi vì người đàn bà Việt mới thực sự là người cầm cân nẩy mực cho các sinh hoạt trong gia đình. Vì thế mà những ông Tú Xương tha hồ rong chơi, khi các bà Tú Xương đã lo toan tất cả mọi thứ, từ tiền nuôi con, từ tiền cho chồng uống rượu, cho đến tiền chồng đi hát cô đầu...

Đồ gốm Chu Đậu, những món tuyệt phẩm, những hoa văn dân tộc, những nước men trong mịn, những hình dạng thanh tú. Khởi đi suốt những ngàn năm lịch sử phát triển dân tộc, quả tình đến đây đồ gốm Việt Nam trở nên những món hàng được ưa chuộng từ trong nước đến ngoài thị trường quốc tế. Nào xuất cảng sang Nhật Bản, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai, Thái Lan cho đến những nước Ả Rập xa xôi. Lại cũng được ưa chuộng, lưu giữ trong các nhà qúy tộc Âu Châu (Năm 1590, Duke of Florence đã tặng cho Prince-Elector of Saxony một bình Chu Đậu men trắng hoa lam hình tròn đường kính 25cm, vẽ hoa sen và hoa mẫu đơn. Bình này hiện nay được chưng trong viện bảo tàng Johannaun ở Thụy Điển).

Người Nhật rất hãnh diện về Trà Đạo của họ, nhưng mấy người Việt biết rằng Trà Đạo với đầy đủ nghi thức chỉ mới xuất hiện ở Nhật Bản từ thế kỷ 16. Và vào thời đó họ chưa biết làm đồ gốm đẹp, các ấm, bát uống trà của Trà Đạo Nhật chính là những món đồ gốm Chu Đậu nhập cảng từ Việt Nam qua. Những tổ sư của Trà Đạo Nhật Bản quý chuộng đồ Chu Đậu hơn đồ Trung Hoa và Đại Hàn. Thời đó chỉ có những gia đình quý tộc, những tổ sư Trà Đạo danh tiếng như Takeno Joo (1502-1555), Sen No Rikyu (1522-1591), Toyotomi Hideyoshi (1537-1598) Tokugawa Ieyasu (1542-1616), sứ quân Yoshiharu Tokugawa (1737-1786).... mới sắm nổi đồ Chu Đậu, mà ngày nay con cháu họ vẫn giữ làm của gia bảo là vài ví dụ điển hình. (1)

Vậy thì tại sao làng Chu Đậu không còn ai biết làm những món đó nữa? Tại sao hai chú cháu họ Vương dời qua Bát Tràng (Hà Nội) cũng không làm được những thứ đồ tuyệt vời này?


Sự bức tử của đồ gốm Chu Đậu


Người ta cho rằng bởi vì vào thế kỷ 17, sau khi vua nhà Minh bỏ lệnh cấm người Tầu buôn bán với nước ngoài, các đồ gốm Việt Nam đã không cạnh tranh nổi và tàn lụi. Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ giả thuyết này. Bởi vì cứ xem những món đồ Chu Đậu trong các viện bảo tàng ở Châu Âu, trong các bộ sưu tập lừng danh, thì đồ gốm ta và đồ gốm Tầu chưa chắc ai đã hơn được ai. Trên trường thương mãi, không ai có thể trong một lúc mà đột ngột mất trọn tất cả thị trường vốn lớn mạnh của mình như thế được.

Vả lại mất thị trường Ả Rập, thị trường Á Châu Thái Bình Dương, thì vẫn còn thị trường nội địa chứ. Đình Chùa vẫn cần lư hương, chân đèn, người dân vẫn cần bát đĩa. Không làm nhiều thì làm ít, lẽ đâu cả làng phải đổi sang nghề dệt chiếu. Lẽ đâu cả phủ Nam Sách chỉ còn người làm nồi đất không men. Lẽ đâu khi chú cháu Vương Quốc Doanh dời về Bát Tràng lại không tiếp tục làm được đồ gốm đẹp như lúc còn ở Chu Đậu. (Làng Bát Tràng nằm bên bờ sông Hồng, ngày nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Mỹ thuật đồ gốm Bát Tràng phát triển gần như song song với gốm Chu Đậu. Có những bình hương, chân đèn ghi niên hiệu nhà Mạc (như Diên Thành, Hưng Trị, Đoan Thái), cũng có những món ghi niên hiệu nhà Hậu Lê, làm vào thế kỷ 17 (sau khi nhà Mạc đã bị diệt) như Vĩnh Tộ thứ 7 (1625), Cảnh Trị, Chính Hòa (1688), Vĩnh Hựu thứ 2 (1736) và nhà Nguyễn (Gia Long 1802-1819).

Nhìn vào những năm tháng cuối cùng của thế kỷ 16, chúng tôi nghĩ rằng: Đồ gốm Chu Đậu bị bức tử. Kẻ bức tử đồ gốm Chu Đậu là Trịnh Tùng. Người thắng cuộc tranh giành quyền lực với nhà Mạc.

Khi viết 13 chữ ‘Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu…’ lên cái bình Tokapi Saray bà nghệ sĩ Bùi Thị Hý đã cho ta biết đó là năm 1450, đời vua Lê Nhân Tông. Đến khi vợ chồng Đặng Huyền Thông-Lê Thị Đỉnh làm những bình hương, những chân đèn (và tất nhiên là nhiều bình, ấm, đĩa, bát tuyệt vời khác), thì ta thấy niên hiệu của nhà Lê không còn được họ dùng nữa (4), mà thay vào đó là niên hiệu của nhà Mạc, như Diên Thành tam niên của Mạc Mậu Hợp, (5), Diên Thành thứ năm (6), Hưng Trị tam niên (7)… thì ta thấy niên hiệu của nhà Lê (Nam Triều) không được dùng nữa, mà thay vào đó là các niên hiệu của nhà Mạc (Bắc Triều).

Tỉnh Hải Dương với nhiều sông nước bao quanh như các sông Thái Bình, sông Thương, sông Luộc, sông Kinh Thầy, sông Kẻ Sặt, sông Đò Đáy...lại cũng không xa gì sông Hồng; Hải Dương nằm giữa vùng đồng bằng và vùng cao nguyên, giữa Hà Nội và Hải Phòng, đã từng là nơi có giá trị chiến thuật rất cao. Nào Đông Triều (nơi nhà Trần dùng làm cứ địa khi chống quân Nguyên) nào Bãi Sậy (căn cứ của Hoàng Hoa Thám chống Pháp), nào Cổ Am (nơi Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học từng chống nhau kịch liệt với quân đội Pháp)… Từ đây tiến đánh Thăng Long cũng dễ mà rút về núi rừng Lạng Sơn, Bắc Giang, Thái Nguyên hay về vùng bờ biển Hải Phòng, Thái Bình lại rất tiện. Thương mãi và nông nghiệp nơi đây luôn phồn thịnh với sông nước, hàng hóa được chở thẳng lên Thăng Long hay xuôi xuống Phố Hiến (để xuất cảng) vừa tiện, vừa gần.

Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, từ bản khắc in năm 1697, các sử thần đời trước đã cho ta rất nhiều chi tiết về giai đoạn máu lửa thảm khốc ấy.

- Từ năm 1504 nhà Lê chỉ còn những ông vua trẻ tuổi, bất tài, hoang dâm, tàn ác, kể từ Lê Uy Mục (vua quỷ) Lê Tương Dực (vua lợn)… Xã hội suy đồi, loạn lạc, giặc giã triền miên, dân tình nghèo đói. Mặc Đăng Dung được coi là kẻ có thể ổn định trật tự xã hội, phát triển đất nước, được phần lớn triều đình và dân chúng hướng theo, Mạc Đăng Dung chiếm ngôi của nhà Lê năm 1527.

- Trong số người không theo họ Mạc có Điện Tiền Tướng Quân Nguyễn Kim. Nguyễn Kim bỏ sang Lào nương náu, tìm cách chống lại họ Mạc. Mãi gần mười năm sau, năm 1533, Nguyễn Kim mới tìm được người con út của Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, Kim lập Duy Ninh lên làm vua là Trang Tông, đóng ở Sầm Châu bên Lào, mưu việc khôi phục nhà Lê. Năm 1543, Nguyễn Kim đưa được Lê Trang Tông về Tây Kinh (Thanh Hóa). Đến năm 1545 Nguyễn Kim bị nhà Mạc cho người đánh thuốc độc chết, binh quyền về tay con rể là Trịnh Kiểm. Nước ta chia làm hai phần, Nam Triều ở Tây Kinh của nhà Lê-Trịnh, Bắc Triều ở Đông Kinh của nhà Mạc. Hai bên đánh nhau rất nhiều lần, suốt từ năm 1533 đến hết thế kỷ 16.

Mạc Đăng Dung lên ngôi năm 1527, truyền qua các đời vua Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên; Rồi Mạc Mậu Hợp lên nối ngôi vào năm 1561. Lúc này binh quyền của Nam Triều (nhà Lê) thuôc trọn tay Trịnh Tùng. Từ năm 1533 đến năm 1623, nhà Mạc và nhà Trịnh (dưới chiêu bài phù Lê) đánh nhau không ngừng. Lúc đầu chiến trận xảy ra ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An, nơi vua Lê và chúa Trịnh đồn trú, nhưng kể từ năm 1587, Trịnh Tùng bắt đầu đem quân ra đánh vào sâu hơn trong lãnh thổ nhà Mạc. Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long năm 1591, Mạc Mậu Hợp rút về Hải Dương.

Vì đất Hải Dương là quê hương nhà Mạc, v́ địa thế chiến lược quan trọng, phủ Nam Sách tỉnh Hải Dương trở nên chiến trường đẫm máu giữa Trịnh Tùng và nhà Mạc suốt từ năm 1533 đến 1623. Chỉ kể riêng từ năm 1592 đến năm 1601 đã có đến 12 trận đánh đẫm máu ở nơi đây. Cứ hễ quân chúa Trịnh đuổi được nhà Mạc, rồi rút đại quân đi thì dân địa phương lại nổi lên theo nhà Mạc để chống lại chúa Trịnh. Mỗi lần quay lại chiếm Hải Dương, quan quân họ Trịnh lại trả thù, tàn sát dân cư không tiếc tay, lần nào cũng giết cả ngàn người. Cùng với những người theo họ Mạc, các giòng họ chuyên về gốm Chu Đậu bị quan quân nhà Trịnh thanh toán hết cả.

Vì thế chúng tôi cho rằng Trịnh Tùng đã bức tử đồ gốm Chu Đậu trong những lần ông cho quan binh tàn sát dân vùng Nam Sách để trả thù việc họ đã dám theo vua quan nhà Mạc

Nói như thế có người sẽ vặn lại rằng: Chẳng lẽ suốt từ thế kỷ 17 đến bây giờ chúng ta không làm đồ gốm sao? Thế còn Bát Tràng, thế còn Thọ Xương, thế còn Thanh Hóa, thế còn Biên Hòa, Bình Dương, thế còn biết bao nơi làm bát đĩa nồi niêu khác? Chẳng lẽ người Việt không còn dùng đồ gốm nữa sao?

Ông cha chúng ta vẫn còn tiếp tục làm đồ gốm để dùng hàng ngày. Tuy nhiên nền nghệ thuật và kỹ thuật cao của đồ gốm Việt Nam từ các thế kỷ trước, từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, và phát triển đến mức tột đỉnh để kết tinh vào đồ gốm Chu Đậu đã biến mất, còn lại chỉ là những lò gốm sản xuất các món đồ tầm thường, có hay không có tráng men (đồ sành).

Từ thời các chúa Trịnh, từ các đời vua nhà Nguyễn, triều đình, quan lại và cả dân gian đã dùng những món đồ đặt làm đồ hay mua từ các lò gốm Trung Hoa, đã nhập cảng các món đồ sứ từ Anh Quốc (3), và sau này là từ Nhật Bản. Nền kỹ thuật đồ gốm ở Bình Dương, ở Biên Hòa... sản xuất ra những món chúng ta vẫn dùng hàng ngày, nhưng đó lại là loại đồ gốm mà những người Tầu dưới sự lãnh đạo của Dương Ngạn Địch sang nước ta tỵ nạn, khi quê hương của họ bị người Mãn Châu chiếm năm 1644 khai lập, chứ không phải là sự tiếp nối nghệ thuật và kỹ thuật của đồ gốm dân tộc nữa.

Dân số của tỉnh Hải Dương, của phủ Nam Sách thời ấy được bao nhiêu? Bao nhiêu người là những tay có học và có tài làm đồ gốm như gia đình họ Đặng, họ Bùi, họ Đỗ, họ Vương…? Cuộc chiến đã làm xáo trộn nếp sinh hoạt nghệ thuật, kỹ thuật và thương mãi của họ như thế nào?

Tuy nhiên dù loạn lạc, binh đao dài lâu hay đau thương thế nào, thì sau khi chúa Trịnh đã toàn thắng thì những người làm đồ gốm cũng sản xuất trở lại những món đồ theo sự truyền dạy của ông cha chứ? Thế nhưng cả làng Chu Đậu quay ra dệt chiếu, thế nhưng cả phủ Nam Sách chỉ còn đôi ba chỗ làm nồi đất niêu đất không men! Thế nhưng dân vùng đó không còn gia phả, ký ức gì về thời cha ông họ là những nghệ nhân tuyệt vời của đồ gốm Việt! Thế nhưng ruộng vườn đã vùi lấp dấu tích của các lò gốm xưa! Dân cư Nam Sách làm nghề dệt chiếu sau này có bao nhiêu phần là người các nơi khác đến vùng ấy cư ngụ sau khi quan quân nhà Trịnh đã bách hại dân địa phương, vì thế không có liên hệ gì đến nghệ thuật gốm Chu Đậu?

Bảo rằng vì vào cuối thế kỷ 16 vua nhà Minh bỏ lệnh cấm người Tầu buôn bán với nước ngoài (7), cho nên đồ gốm ta bị mất thị trường và tàn lụi, là một lập luận sai và yếu. Bởi vì các món đồ gốm Chu Đậu lưu giữ ở Âu Châu và ở Ả Rập có phẩm chất rất cao, men rất trắng, rất mịn, hoa văn rất linh động, sắc sảo. Người ta đã từng nhìn lầm ra là đồ Trung Hoa. Đồ gốm Chu Đậu vốn rất được ưa chuộng ở thị trường Nhật Bản, thị trường Đông Nam Á, và thị trường Ả Rập. Không ai có thể mất trọn vẹn tất cả các thị trường một cách đột ngột như thế được. Vả lại chúng ta vẫn còn thị trường quốc nội nữa chứ, tại sao lại hoàn toàn ngưng không làm các món đồ men trắng hoa văn mầu lam vốn rất được ưa chuộng này nữa? Thiên tai, lụt lội chăng? Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thường kê rõ những năm tháng có lụt lột, thiên tai, mất mùa, nhưng không hề nói gì để cho ta có thể suy ra rằng dân Hải Dương thời ấy bị thiệt hại nặng vì thiên tai. Hay là đất sét trắng (kaolin) ở nơi đây đã cạn, nên đồ gốm tuyệt chủng? Không thể như thế được, bởi vì ngoài các mỏ kaolin địa phương như ở bờ sông Kinh Thầy, ở Trúc Thôn, Hoàng Thạch gốm Chu Đậu còn làm bằng đất mua từ Hố Lao, Đông Triều (cách đó 30km đường sông), mà những nơi này hiện nay vẫn còn được khai thác.

Đích thực Trịnh Tùng đã bức tử đồ gốm Chu Đậu trong những lần ông cho quan binh tàn sát dân vùng Nam Sách để trả thù việc họ đã dám theo vua quan nhà Mạc. Chắc rằng khi Trịnh Tùng giết những người dân vùng Hải Dương chống ông, ông đã giết đi hết những người làm đồ gốm men trắng chàm này của văn hóa Việt Nam. Việc người thắng bạo hành, tru diệt tàn dư của kẻ bại vẫn là những chuyện xảy ra thường xuyên trong lịch sử nước nhà.

Chắc rằng cuộc tàn sát phải ghê gớm và toàn vẹn lắm cho nên chẳng còn ai sống sót mà trốn đi mang nghề nghiệp ông cha đến nơi khác làm ăn, hay dù có người thoát đi được nơi khác (như chú cháu nhà họ Vương đến Bát Tràng) thì họ cũng vì sợ lộ tông tích mà không làm, không truyền nghề cũ nữa. Gia phả của giòng họ bà Bùi Thị Hý cũng chép rõ rằøng: ‘… làng mạc bị tàn phá, con cháu thất tán, không sản xuất được phải cải họ đến 3-4 đời, sau đó nghề vinh của giòng họ thất truyền...’. Chúng tôi nghĩ rằng đồ gốm nhà Minh nhà Thanh đã không thắng được đồ gốm Việt Nam trên thị trường mà chỉ là điền khuyết vào phần thị trường mà đồ gốm Chu Đậu đã bỏ trống thôi.

Than ôi! một nền mỹ thuật và kỹ thuật đặc biệt, tuyệt đẹp của ông cha ta đã không còn được tiếp tục phát triển đến những mức độ cao hơn nữa mà lại tàn biến mất rất ngậm ngùi. Vào thời điểm ấy, năm 1644 người Mãn Châu vào chiếm Trung Hoa, diệt nhà Minh, lập nên nhà Thanh. Đồ gốm Trung Hoa cũng theo thời gian mà phát triển rực rỡ. Cái màu xanh lam đục mờ, đã trở thành màu xanh lam sáng biếc, thành nét vẽ thanh thoát trở nên đặc điểm của đồ gốm Trung Hoa.

Nơi quê ta, thay vì ông cha ta phát triển rực rỡ được nghệ thuật đồ gốm tuyệt vời của mình song song với họ, thì đau đớn thay, cả nền nghệ thuật ấy bị bức tử, đến nỗi con cháu sau này không còn biết gì về nền nghệ thuật ấy nữa. Để rồi sau đó, chính Trịnh Sâm, và triều đình nhà Nguyễn, rồi giới quyền quý, kẻ có tiền phải đặt phải mua bình ấm bát đĩa từ những lò gốm của nhà Thanh bên Tầu! Nào đồ ‘Nội Phủ’, nào đồ ‘Khánh Xuân’, nào đồ ‘Mai Hạc’, đồ ‘chữ nhật’, đồ ‘Ngoạn Ngọc’, đồ ‘Trân Ngọc’, đồ ‘Nhã Ngọc’… Mà lúc ấy đồ gốm Việt Nam đã chết tức tưởi rồi! Và sau đó, từ một xã hội không biết làm đồ gốm, Nhật Bản đã học, đã phát triển mạnh và trở nên bá chủ của thị trường đồ sứ trên toàn thế giới.

Ôi! tại sao lịch sử lại khắc nghiệt với người Việt Nam như thế! Tranh bá đồ vương, chiến tranh, binh lược đã bao năm, đã bao lần làm cho sức sống dân tộc thui chột, làm cho nền văn hóa tuyệt vời của người Việt bị mất đi những cơ hội tiếp tục đơm hoa kết trái, khoe mặt, khoe tài cùng bốn biển năm châu, và có thể trở nên một cường quốc kinh tế, thương mãi, văn hóa, nghệ thuật... Ôi! sự giành giựt triều đình, giành giựt quyền lực của những kẻ tham tàn mù quáng đã làm cho nước ta trở nên một xã hội nhược tiểu chậm tiến về nhiều mặt. Chúng tôi lại nghĩ thêm rằng, ngày nay, nếu chúng ta không nghiên cứu, không tìm hiểu và không phổ biến văn hóa thuần Việt, nếu chúng ta cứ tiếp tục xưng tụng những sai lầm, thiếu xót về lịch sử, về văn hóa ông cha, chúng ta cũng đã vô tình góp phần hủy diệt di sản văn hóa thuần Việt, như họ Trịnh đã lầm lỗi trước đây vậy.

Chú Thích:

1. Từ thế kỷ thứ X, người Nhật bắt đầu uống mạt trà. Tràn tán nhỏ ra như bột, pha vào nước sôi. Mạt trà được nhập cảng từ bên Tầu qua, lúc đầu chỉ được coi là một thứ thuốc (tiên dược) có khả năng giải bệnh hơn là giải khát. Trà được dùng ờ triều đình Nhật từ thời nhà Tống bên Tầu, nhưng đến thế kỷ 14, trà mới bắt đầu trở nên phổ thông, nhưng chén bát uống trà còn lộn xộn, hoàn toàn khác nhau, tùy theo ý người uống. Trà xanh được dùng khi ‘Trà Đạo’ (Chanoyu) được khởi xướng bởi Murata Juko (1452 - 1502). Sau đó Takkeno-Jo O (1502 - 1555) và rồi sau nữa là Thiền Sư Sen Rikyo mới dọn xếp tất cả lại thành trà đạo trong phong tục, văn hóa Nhật.
2. Có người đọc niên hiệu của vua Lê Nhân Tông là Đại Hòa vì chữ này viết không có dấu chấm, theo Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu, thì cách viết này có 2 cách đọc, có thể đọc là Đại mà cũng có thể đọc là Thái. Chúng tôi cho rằng niên hiệu của vua Lê Nhân Tông phải đọc là Thái Hòa, bởi vì những bộ sử đời sau (như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư) dùng chữ ‘thái’ có dấu chấm để ghi niên hiệu của vua Lê Nhân Tông, như cách viết chữ ‘thái’ thường thấy.
3. Một chân đèn có ghi: ‘Hưng Trị Tam Niên, nhị nguyệt tạo, Nam Sách phủ, Thanh Lâm huyện, Hùng Thắng xã, Đặng Huyền Thông thê Nguyễn Thị Đỉnh’, nghĩa là: Tháng hai năm Hưng Trị thứ ba (1590) Đặng Huyền Thông cùng vợ là Nguyễn Thị Đỉnh làm ở xã Hùng Thắng, huyện Thanh Liêm, phủ Nam Sách.
4. Năm 1568, nhằm vào năm Quang Hưng thứ ba đời Lê Thế Tông.
5 Năm 1587, nhằm vào năm Quang Hưng thứ mười đời Lê Thế Tông.
6. Năm 1590, nhằm vào năm Quang Hưng thứ mười ba đời Lê Thế Tông.
7. Nhà Minh cấm dân Tầu buôn bán với nước ngoài từ năm 1371 đến năm 1567, nhà Thanh cấm từ năm 1644 đến năm 1684.
8. Theo gia phả họ Bùi ở Hải Dương thì bà Bùi Thị Hý người trang Quang Anh (nay là thôn Quang Tiền, xã Đồng Quang, huyện Gia Lộc) tỉnh Hải Dương. Bà sinh năm Canh Tý (1420) mất năm Kỷ Mùi (1499), là cháu nội của tướng quân Bùi Quốc Hưng, thân phụ bà là cụ Bùi Đình Nghĩa, cũng là một vị tướng quân dựng nước của vua Lê Thái Tổ (cụ Nghĩa đã hy sinh trong một trận hỗn chiến với quân Minh ở thành Đông Quan). Sau khi bị phát giác tội giả trai để đi thi, bà Bùi Thị Hý trở về kết duyên cùng ông Đặng Sỹ, một đại gia về đồ gốm ở Chu Đậu. Bà có biệt tài làm bình gốm hoa lam, lò gốm của ông bà Đặng Sỹ-Bùi thị Hý sản xuất rất nhiều đồ gốm Chu Đậu xuất cảng khắp nơi. Năm 1452, ông bà về Quang Anh để giúp em trai là Bùi Đình Khởi lập lò gốm ở gần sông Định Đào. Từ đó họ Bùi ở Quang Anh cũng trở nên giầu mạnh về nghề làm đồ gốm cho đến khi cùng với dân vùng này bị họ Trịnh tru diệt.


... CÒN TIẾP ...



. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả đã chuyển từ HoaKỳ .