I.
C
ầm cuốn kinh thánh Tân ước của chồng lấy ở phòng điều hành xe buýt về, Khuê chợt nhớ ra từ lâu không đến Hội thánh Báp tít thờ phượng. Và nói với chồng: - Mai chủ nhật, gia đình nhà mình đi thờ phượng đi anh? - Ừ, chiều nay anh nhìn thấy cuốn Tân ước Gi-đê-ôn bỏ lỏng chỏng đầy bụi bặm, anh nhớ tới em nên cầm về. Vậy thì mai nghỉ một buổi bán nón, cả nhà đi thờ phượng Chúa em ạ. Đỗ nhớ ngay đến ngày này của mười năm trước, hôn lễ của hai người tổ chức ở Đà Lạt - khi ấy Khuê đã là thuộc viên của Hội thánh Báp tít Trung Tín, và làm ở Phòng đọc sách Báp tít Đa Lạt. Từ ngày gặp lại cho dến ngày cưới chỉ trong vòng hai tháng. Từ Vũng Tầu, theo máy bay C130 chở khóa sinh mãn khoá về Đà Lạt, anh đang lang thang trên đường đến cà phê Tùng, gặp ngay Duật, sinh viên Đại học Sư phạm ở Sài Gòn lên học, đem theo cả vợ, cô Tâm và con gái nhỏ theo. Duật là sinh viên “cụ”, khác hẳn sinh viên cùng tuổi. Gặp Đỗ, bạn quen, bởi Duật là nhà văn trẻ viết báo chung với Đỗ trong một tạp chí văn nghệ, mà chủ nhiệm là bạn chung cả hai người. Duật vồn vã cho Đỗ biết vợ anh mới gặp cô sinh viên học Dược xưa ở Sài Gòn hiện đang ở Đà Lạt, khi nhắc tới Đỗ, cô Khuê ấy nói có biết từ trước khi còn ở Nghĩa Lộ. Đỗ là con ông giáo còn là đồng nghiệp với bố Khuê, từng là hiệu trưởng trường Tiểu học Đa Nghĩa - Đà Lạt trước năm năm tư. Duật cho Đỗ biết địa chỉ nhà riêng ở Phan Đình Phùng, và Đỗ nhớ ngay rằng sau 1954 vào Nam, anh đăng báo tìm người nha trên báo Ngôn Luận, là tìm ông bà giáo Nguyễn Quốc Bảo vào Nam năm năm hai và dạy học ở Đà Lạt. Đỗ rời quán cà phê Tùng, đi thẳng xuống đường Minh Mạng tìm Khuê. Anh nhìn thấy Khuê với chiếc băng đô đỏ trên mái tóc dài mượt mà, khuôn mặt chữ điền, với tà áo dài tha thướt, ngồi trước bàn làm việc thật duyên dáng, Đỗ chưa vào ngay, anh còn ngắm cô bé trên mười năm ở Nghĩa Lộ ở tuổi mười ba, lúc anh ở tạm nhà cô một thời gian chờ bác Bảo xin phép cho Đỗ về Hà Nội học. Khuê có nét duyên dáng của một cô gái học thức, đoan trang, và dưới mắt Đỗ khi ấy đây là “cú sét tình yêu” mất rồi. Mãi sau, Đỗ mới mạnh dạn bước vào, hỏi: - Thưa cô, cô có phải là con bác giáo Bảo xưa kia ở Nghĩa Lộ? - Vâng, anh có phải là anh Đỗ? Trao đổi vài câu chuyện xã giao, Đỗ trở về khách sạn, lòng lâng lâng vui mừng mong chiều tối đến sớm đến thăm hai bác. Đỗ nhớ lại ngày trước khi về Hà Nội học, bác Bảo trai cho ở nhà bác, qua thư mẹ Đỗ gửi gấm. Và Khuê khi ấy mới là cô bé mười ba tuổi, ngoài giờ học, ra chợ phụ giúp bác Bảo gái bán hàng. Hình ảnh Khuê mờ xa trong trí nhớ Đỗ mười tám tuổi, với mái tóc đuôi gà đỏm dáng, thì nay khác hẳn một thiếu nữ chững chạc, duyên dáng. Và cô gái này khi lập gia đình sẽ vượng phu ích tử, và ước mong giá được cô gái này để ý tới tất sự sung sướng tăng gấp bội phần. Có tiếng điện thoại từ tiếp tân khách sạn báo có khách, Đỗ gặp Duật cùng Tâm đến. Tâm nói ngay: - Phải khao bà mối mới được. Gặp cô sinh viên Trường Dược xưa mê tít rồi phải không? Khi tôi làm thư ký Đại học Dược Khoa, anh có nhớ thời kỳ này ở đường Norodom Shianouk sau đổi tên Thống Nhất. Tôi báo cho ông biết là có nhiều khách dòm ngó người đẹp thư viện Báp tít lắm đấy nhé. Đỗ nhìn đồng hồ, cũng sắp tới cơm chiều, bèn mời hai vơ chồng Duật đến Bắc Hương ăn cơm. Tâm nảy ra ý cùng đến nhà Khuê, rồi mời nàng đến Cà phê Tùng. Bản nhạc Green Field từ bữa ấy có Khuê nâng ly cà phê đen cùng ngắm tranh Nghệ sĩ với cây đàn của Vị Ý. Đỗ nhớ rõ là chính anh đem từ Sài gòn lên bằng xe đò vào tháng 11 năm 62. Đoạn đời gắn bó với Đà Lạt như khúc phim hiện dần trong trí nhớ. Trước năm sáu ba, thời đệ nhất cộng hoà, thời tổng thống Ngô Đình Diệm, Đỗ bị coi như là phần tử chống đối, nhà văn bất kham, được in trên báo Tiếng Dân hai cột trang nhất, chung với nghệ sĩ cải lương Năm Châu: “Kịch sĩ Năm Châu và nhà văn Thế Phong được đưa đi tẩy não ...” theo bản tin của Đài phát thanh Sài gòn loan đi vào lúc 7 giờ l5 sáng 21-3-63, cả bản Vietnam Press Pháp ngữ số 4019 ngày 23-3-63: “... D’après le journal (Tiếng Dân) lancé la nouvelle que l’essayiste saigonnaise Thế Phong est actuellement détenu par les autorités Vietnamiennes pour lavage de cerveau ... Les mensonges des communistes ont fait long feu. Tiêng Dân souligne que le monde peut voir Thê Phong dans ses promenades journalières rues Lê Lợi et Tự Do...” Khoảng bốn giờ chiều, Đỗ ngủ dậy, lúc này thuê nhà ở Tân sa châu xóm đạo linh mục Khuê cha xứ, nghe giọng một em bán báo rao lanh lảnh “... mua báo mới đi, nhà văn Thế Phong và nghệ sĩ Năm Châu bị đưa đi tẩy não ở Vĩnh Long ơ ơ...”. Cầm hai đồng bạc mua tờ báo do trung tá Châu chủ nhiệm, và Nha Chiến tranh tâm lý ấn hành, báo đăng tin để cải chính tin từ Hội nghị ở Le Caire do đoàn văn công Giải phóng miền Nam phóng ra, thế là từ nay phải lo cắt đuôi bọn theo dõi, để bảo đảm sinh mạng cho một già Năm Châu đóng tuồng và một trẻ viết văn Thế Phong. Ngày này, Đỗ mới thôi làm cho tạp chí Văn hoá Á châu, giáo sư Thục chủ nhiệm, chẳng biết lấy đâu ba trăm đồng thuê căn nhà cho chủ. Nỗi lo ấy lớn hơn cả việc báo loan tin được đưa đi tẩy não. Đỗ nhớ lại ngay ngày hôm tin ấy loan ra, mà anh chưa hay, khi đến Bộ Canh nông tìm giám đốc Thức, người bạn vong niên cưu mang tiền chi tiêu, tiền ăn sáng; khi anh không chịu nổi cơn đói dày vò. Giám đốc Thức chưa tới, chỉ có anh tùy phái, mà hôm nay sao anh này lại lễ phép với anh cách bất thường. Đành gặp kỹ sư thi sĩ Huy Lực phụ tá giám đốc Thức đưa đi ăn sáng, uống cà phê đỡ lòng vậy. Kỹ sư Lực đưa anh xuống căn tin, và cho biết anh tùy phái sáng nay đọc báo, hỏi anh “có phải ông thường đến tìm gặp giám đốc, là ông được báo và đài phát thanh loan tin không?” Thì ra sự lễ phép khác thường này có lý do từ nơi bác tùy phai, thường ra không mấy coi trọng người bạn trẻ của giám đốc này. Còn kỹ sư Lực, tác giả tập thơ đầu tay, từ nay trở thành bạn của Đỗ không mấy khó khăn, vì trong giới trường văn trận bút, muốn làm quen với anh chẳng dễ dàng gì. Và anh được trong giới coi như kẻ khó tính, cao ngạo. Thời kỳ này, tác giả trẻ tuổi Du Tử ra tập thơ đầu tay muốn có lời vào đề của Đỗ, đã phải cậy nhờ Tuấn Kiệt đưa bản thảo cho Đỗ với lời rào đón thật kỹ càng, để sau này tập thơ đầu tay Du Tử ra mắt có hai câu thơ vào đề của Đỗ; khiến cho tác giả trẻ tuổi này trong một cuốn sách kỷ niệm văn nghệ sĩ đã nhắc lại nhiều đêm Du Tử mất ngủ, chỉ sợ Đỗ không viết tựa rồi lai rêu rao
“... thơ cậu ta được hồi lại với cái lắc đầu viết tựa”. Và trong lúc bị bao vây kinh tế, không còn tờ báo nào cho viết bài đăng, thì lấy đâu tiền ăn, tiền trả thuê nhà, nên Đỗ mua gạo nấu ăn ở nhà trọ. Vào ngày chủ nhật, chỉ đôi khi thôi, người tình Mai A đến thăm, cả hai nấu ăn, suốt một ngày dài chờ anh tỏ tình, như xin cưới chẳng hạn, vì cô sắp tốt nghiệp cán sự xã hội. Cô cũng biết trước rằng nếu Đỗ cho nguời dạm hoi, chưa chắc gì ông cụ đã gả con gái cho “thằng vô nghề nghiệp, viết văn, viết báo lăng nhăng, lại kiêu ngạo. Nó là cái gì, chẳng lẽ tao lại phải rước nó về cơm bưng nước rót như với mẹ mày ngồi trên bàn thờ ấy à?” Đỗ nhìn Mai A nằm trên giường, mắt nhắm như ngủ, một ý tưởng nẩy trong óc, bây giờ anh cứ ôm lấy nàng hôn lên mắt lên môi; rồi sau đó đóng cửa lại, kéo màn gió, thì căn nhà thuê chỉ còn có anh và Mai A quấn quít bên nhau. Và có thể trên chín chục phần trăm Mai A không phản đối. Cả một thứ bẩy hôm qua, trên giường này, anh đã cùng một cô gái được rủ đến làm tình, để mai này người tình đến, anh sẽ không làm hại đời cô. Đó là biện pháp anh thường áp dụng đối với nhu cầu sinh lý đòi hỏi ở tuổi thanh niên. Có lần đi chơi với người khác phái nhiều tiếng đồng hồ, khi về nhà cơn đau phần dưới bụng như lên cơn hành hạ; anh phải tới tìm cô gái quen trong xóm hoa hóa giải. Và anh từng được chứng kiến vợ người bạn ghen tuông tình ái trăng hoa của chồng, thì thường bắt chồng vào phòng the âu yếm xong mới thả cổ cho đi. Còn giờ này đây Mai A đang vít cổ anh xuống, hẳn rằng kho tránh nụ hôn. Anh tự nhích mông ra phía ngoài, và anh ngã xuống đất. Mai A ngoái cổ nhìn theo hỏi: - Anh có sao không - Không. Và anh nhìn đồng hồ gần sáu giờ chiều, anh nói tiếp: - Tối nay đến quán Thăng Long ăn chả cá nhé. Quán ăn này ở Đakao, chủ là vợ nhà văn Hoàng Đạo. Đỗ thường đến đây một mình, hoặc đi với một ai đó là nữ thì chỉ có Mai A. Và anh luôn gặp Lý Thắng, nhà báo có viết truyện dài đăng báo từng kỳ, quấn quít bên người tình bậc chị, như săn sóc thay người anh nghĩa tử qua đời đã lâu. Khi anh và Mai A đến quán, ở quầy thu tiền bà chủ ngồi, bên cạnh cô con gái gật đầu chào Mai A (bạn học cũ trung học) và chàng nhà báo nói giỏi hơn viết đang lăng xăng bên bà chị. Chọn một bàn có hai chỗ ở cuối phòng, bữa nay anh phải tâm sự hết thắc mắc cho cô hiểu, vì tuần tới cô về thăm bố và dì ghẻ ở Ban Mê Thuột, rồi sau đó nhận công tác ra trường. Đỗ nói chuyện rất cởi mở, lần này không bộc lộ hết, tất sẽ không bao giờ còn có cơ hội nữa. Từ chuyện anh viết thư cho ba của Mai A: “... Từ nay tôi sẽ hoàn trả con gái yêu của ông hoàn toàn trinh nguyên, kể cả không một nụ hôn; hẳn là ông hài lòng với điều ước muốn. Tôi chưa là người cha như ông có cô con gái (không thuộc loại đẹp, nhưng với tôi cô thật duyên dáng với tâm hồn đẹp) lớn đến tuổi gả chồng, nhất định không gả cho tôi, một nhà văn trẻ không thể nuôi sống bản thân bằng ngòi bút, sống bằng cách viết báo tài tử. Chỉ mới đây thôi, tôi viết cho tạp chí “Văn Hoá Á Châu”, một trang in được trả hai trăm đồng, phụ trách thêm vai thầy cò, mỗi tháng được trả thêm nghìn năm trăm nữa. Một tháng tôi viết hai bài trên dưới ba chục trang, như vậy hàng tháng kiếm được gần mười ngàn đồng. Tôi ăn cơm xã hội, mỗi bữa ba trăm đồng, tiền thuê nhà ba trăm đồng. Nhưng đó là của ngày này tháng trước chưa thôi việc, bởi tạp chí này được “Asia Foundation” của Mỹ tài trợ cho nhóm giáo sư đại học, trí thức miền Nam làm văn hoá chịu sự điều động của văn hóa Mỹ. Như nhà thơ W. Whitman, tác giả tập thơ “Lá Cỏ”, có vài câu như thế này: Ký tên : ĐỖ. Đỗ nói hết cho Mai A nghe, nàng gục đầu vào vai anh từ bao giờ. Mai A không muốn về trại Caritas , cô muốn trở lại căn nhà buổi trưa nấu nướng cho hai người. Nhưng Đỗ nhất định gọi tắc xi, đẩy cô lên xe, cầm tiền đưa cho bác tài, ra lệnh: - Còn thừa, anh giữ lấy và đưa cô ấy về 38 Tú Xương. Bỗng
Tâm lên tiếng cắt dòng tư tưởng quá vãng của Đỗ:
- Đến nhà ông bà giáo rồi,
ông còn nghĩ ngợi gì mà bần thần vậy?
Duật
phụ hoạ với vợ:
-
Cô Khuê nghe thấy tôi, bà Tâm và Giang nhắc đến
ông, cô ấy hỏi ngay có phải ông này
trước ở Nghĩa Lộ không?
Rồi
Duật kéo giây chuông nhà, trong nhà bật đèn và chính Khuê
ra mở cửa. Bốn người vào phòng khách. Cuộc hội ngộ
này, riêng với Đỗ
vô cùng
quí giá, anh hy vọng sẽ là khúc ngoặt mới cho cuộc sống
của anh.
*
Máy
bay vận tải C130 đáp
xuống sân bay quân sự Vũng Tầu, Đỗ quay sang Văn, em ruột
của Khuê, anh nói:
-
Tôi rủ cậu về, và sáng mai này sẽ giới thiệu cậu làm
hướng dẫn viên. Lương bổng của guide chỉ kém huấn
luyện viên một bậc thang lương.
Văn là
bạn thân nhóm nhạc du ca Đức
Quang được Phạm Duy hướng dẫn ban đầu. Văn đồng ý
xuống trung tâm này
với Đỗ, vì biết nhạc sĩ Phạm Duy thường
có mặt ở trung tâm, sáng tác ca khúc cho khóa sinh hát. Nhạc
phong trào này được
đặt hàng và chàng
nhạc sĩ phù thủy không mấy khó khăn
sản xuất nhiều ca khúc phù
hợp với đường
lối, lại rất thành
công, dễ hát và nung chí khí hùng binh cho khoá sinh. Đỗ còn
gặp Nguyễn Thanh, chang hồi chánh vượt tuyến, có giọng
ngâm thơ lớn tiếng, ấm và có một thời nổi tiếng trong
ban Tiếng thơ của Đài phát thanh Hà Nội. Thanh rủ Đỗ và
nhạc sĩ Duy ra bờ biển Vũng Tầu nghe sóng vỗ, cùng với
lời ngâm thơ âm vang tỉ thí, nghe nhạc sĩ Duy thổ lộ
tâm tình:
-
Hai ông có từng nghe ca khúc: Tiếng đàn tôi của tôi không nhỉ?
-
Tất nhiên là có, Đỗ
trả lời. Rồi sao?
-
Sáng tác ca khúc này động
cơ chính là cho chị
dâu tôi.
-
Phu nhân của tác giả Tà áo Văn
Quân.
-
Không sai.
Nguyễn
Thanh lắng nghe, vì anh này không biết thật. Thời kháng
chiến chống Pháp, anh mới chỉ là thiếu niên, và quan trọng
nhất là khi ấy năng
khiếu văn nghệ chưa phát tiết ra ngoài. Đỗ không nói thêm về hậu trường của ca khúc
kia; bởi trước khi là vợ của anh mình, người ấy không
ít lần làm trái tim bạ ai yêu đấy của nhạc sĩ.
Đỗ
rủ Văn ra quán Aux Délices, nơi Đỗ
thường lui tới uống cà phê, đôi khi ăn trưa luôn không
chừng. Bởi có Tỵ, con gái chủ quán ngay lần đầu anh
nhìn gặp; hình như
"thuyền em bơi lội trong dòng mắt anh". Anh càng
soải đôi cánh tay
ra bắt em, thì như
anh càng đuối sức,
vật vờ. Cô được soi vào
nhiều đôi mắt
đàn ông, đôi ba kẻ mà
anh biết, như Lượt trưởng đồn
quân cảnh, thêm
chuẩn sói tên Trịnh Cùng mới ra trường
Thủ Đức, mỗi
lần đến khoe nghề lính "đáng chán, em biết không,
anh đây là hoạ
sĩ nổi danh tốt nghiệp Đại
học Mỹ thuật Huế".
Thêm một đại úy Lục quân mặt đen sì
gặp Đỗ là "nguýt như cái nhìn
của cô hàng cá muốn nuốt sống ăn
tươi địch thủ".
Văn thấy Đỗ xán
lại trả tiền nơi cô chủ, cười nói thân thiết; cô chủ
đưa cho một tấm giấy nhỏ lọt thỏm bàn
tay. Văn hỏi ngay
khi Đỗ trở về chỗ ngồi:
-
Cô ấy nhìn anh rất khác, cô đưa
thư tình cho anh phải
không?
-
Không, đây là bức họa chân dung cô chủ
qua nét nhìn của hoạ sĩ Trịnh Cùng.
-
Em biết ông này, hình như ông ấy hay lên Đà Lạt chơi, ăn
mặc lập dị, mặc áo manteau đi dạo xung quanh khu Hòa Bình. Mặt mũi non choẹt làm
ra vẻ ông cụ non, bị mấy sinh viên sĩ quan Đà Lạt nạt "... không
biến đi để
nhìn thấy mặt
là có chuyện đó
em". Sau có lần
em gặp ông ở nhà cô giáo dạy vẽ, anh có biết cô Tôn
Nữ Cẩm Quỳ không?
-
Biết, cô ấy bạn học cùng khoá với họa sĩ trẻ Trịnh
Cùng ở Đại học
Mỹ thuật Huế. Và
thường đùa rằng cụ thân sinh đặt tên
công nương là Cấm Quỳ, chứ không là Cẩm Quỳ.
Cô ấy nghe thấy anh đùa vậy tỏ ra không mấy vui.
Và sau cô lập gia đình với một nhà văn trẻ ở Đà
Lạt đấy. Và nhà văn
Thái Lãng có lần tâm
sự thường ra phu nhân anh hay bat cấm quì.
Văn lại vặn hỏi:
-
Nhưng sao cô ấy lại cho anh tấm chân dung?
- Cô ấy âu yếm nói nhỏ "nếu thích thì chiều..."
Nhìn
lại chân dung phác hoạ bất cứ người nữ nào đều có sống mũi cô đầm
xoè. Và Đỗ thấy có hàng
chữ viết la fille Aux Délices rất nắn nót của chàng
hoạ sĩ lùn thước mốt, râu quai nón, ăn
nói lắp bắp, nhưng rất nam tính là
Trịnh Cùng. *
Trung
tâm huấn luyện thuê Hộp thư số l Vũng Tầu, nên vào những
ngày cuối tháng mười hai 1965, mỗi lần nhân viên của
Trại ra Vũng Tầu đi
lấy thư, Đỗ săn đón hỏi thăm xem có thư tư gì của anh không? Bởi anh đang mong tin từ Đà Lạt, sau khi Văn
không làm ở Trung tâm
nữa, về Đà Lạt, đem
theo một sứ mạng của Đỗ nhờ. Và
lần này, anh nhận được
thư của bố vợ
tương lai gửi từ Đà Lạt, anh vô cùng hồi hộp.
Bởi trước đó
anh gửi thiệp hồng cho gia đình
vợ tương lai mà không hề thông báo trước, chỉ nhờ Văn đem về và
nói giúp. Thiệp hồng nhưng in toàn chữ mầu đen,
chữ Véronèze corps
12, giữa in ảnh nhỏ hai người chụp chung ở sân bay
quân sự Cam Ly; khi Khuê tiễn anh lên máy bay Cessna
của hãng Air America đi
Vũng Tầu. Họ gia đình
nhà trai in bên phải, nhà gái bên trái. Thiệp in hai loại,
một số in tên thật, một số in bút danh nhà văn. Tư Cao, chủ nhà in Nguyễn Trọng bên Gia Định; nhà
in nhỏ như một hộp quẹt có hai chiếc máy in duy nhất:
một máy pédal dùng tay đặt
giay in từng tờ một, một máy khác in được tám bát chữ
in ruột sách. Sau 1964, chế độ Ngô Đình
Diệm đổ, đọc
báo Chính Luận,
anh mới biết Tư Cao với tên thật là Nguyễn Văn Cao hiện
bị giam ở khám Chí Hoà. Theo báo đăng,
Tư Cao làm kinh tài
Việt Cộng. Sau 1975, anh ta được
bổ nhiệm giám đốc nhà
in Sài Gòn Giải Phóng. Anh chủ nhà in Nguyễn Trọng
này in thiệp hồng ở máy pédal cực lực phản đối in thiệp hồng mầu đen,
lại in ảnh cô dâu
chú rể, anh chưa thấy ai làm như vậy. Nó không thể được gọi là
thiệp hồng. Tư Cao đoán
là hậu vận không
tốt. Tôi trả lời anh cứ in mầu đen,
vì đã nghĩ kỹ, và chính đây mới là
thiệp cưới trang trọng, có nghi thức nhất.
*
Thư
của ông giáo Bảo, bố vợ tương lai, cho biết tốt nhất
nên hoãn lại, bởi ngày cưới trong thiệp tự định đoạt kia bất ngờ
quá không thể nào
chuẩn bị kịp. Đỗ
cầm thư rồi lấy xe gắn máy phóng ra Vũng Tầu tìm đến Aux Délices, ngồi đây ngắm cô chủ quán để
viết thư trả lời gia đình
bên vợ tương lai. Đại
để, anh bầy tỏ rằng: "trước
sau gì cũng cưới thôi, hơn nữa thiệp cưới đã
gửi cho bạn bè, trong số ấy đa
số là nhà văn, nhà
báo, giáo sư... chẳng mấy ngày nữa báo liên tục đăng tin mừng". Điều
quan trọng nhất là
Khuê, rồi đến
hai bác; thì tiệc cưới
sẽ diễn ra sau Tết âm lịch và cũng chỉ trong vòng năm ngày
sẽ lo đủ đám
cưới, đám hỏi cùng
một lần. Anh giở tờ báo Chính Luận ngày hôm nay,
nơi trang tám đã có hai tin chia vui với nhà
văn chú rể. Chỉ
vài ngày tới báo chí
Sài Gòn nhất loạt đăng
tin mừng. Anh gửi thư
bảo đảm phát nhanh
và anh chắc rằng chẳng
bao lâu sẽ nhận được
tin Đà Lạt trả lời.
Và ba ngày sau, người đi
lấy thư về đã trao
cho anh điện tín:
gia đình bên vợ tương
lai đồng ý như
anh hứa, đám hỏi, đám cưới cùng
một lần theo đúng
nghi thức thủ tục.
Vấn đề được đặt ra trong việc
tổ chức đám cưới của Đỗ thì
về phía nhà trai chỉ có hai người: cô ruột Đỗ Thị Thảo đứng tên trong thiệp, thay mặt bố
mẹ không còn. Phía nhà trai, người anh nghĩa tử nuôi cơm
áo anh từ vài năm
nay. Như lời người anh nghĩa tử nói, để anh khoi phải
lo cơm ăn, áo mặc, chỗ ngủ từ lúc còn
ở xóm đạo Tân
chí Linh dọn đến Ngã
tư Bẩy hiền này. Biết được
anh Huyến nhờ Thế Dung giới thiệu, vì
anh ta thấy Đỗ
lo lắng khi chủ nhà
xóm đạo Tân sa
châu xiết nợ tủ quần áo; không tiền trả nhà
thuê hơn ba tháng. Còn tiền cưới chắc chắn phải đi vay.
“...Anh cầm dương vật của anh
cứng như chiếc đinh sắt
rót vào em
ngàn năm tương lai...”
thì chủ nhiệm tạp chí, giáo sư Nguyễn Đăng Thục cho rằng đây là vần thơ tuyệt tác của nhà thơ Huê Kỳ. Còn thi ca của chúng ta, theo ông ấy, chưa có tầm vóc cao và lớn, hay và đậm đà, vậy thì từ giờ đây (quay sang Lê Xuân Khoa, thư ký toà soạn) tạp chí chỉ nên dịch thơ, chưa vội đăng thơ của nhà thơ trong nước làm gì cho tốn giấy mực, mà phải dịch thơ Mỹ, tầm cỡ W. Whitman ấy nhé! Đỗ nghe đến đây nóng mặt, trả lời ngay rằng, nếu dịch và đăng thơ “porno” kiểu Mỹ trên tạp chí Việt Nam, theo tôi, cũng phải trả tiền như đăng quảng cáo vậy. Giáo sư chủ nhiệm hếch mũi lên, trả lời bốp chát, như cơ quan thính giác ngửi thấy mùi đồng đô la, cứ một đô Mỹ đổi được ba nghìn năm trăm đồng đấy. Và thưa ông Cao Văn Phương, thân sinh bạn gái mà tôi hết lòng yêu dau, nếu tôi là ông, thì cũng chẳng gả con gái cho “nghệ sĩ chẳng có nghề ngỗng gì ra hồn”. Và nay thì tôi đã được cho nghỉ việc, và thư ký toà soạn, giáo sư Lê Xuân Khoa đã bị thay thế. Giáo sư Lê Thành Trị mới tốt nghiệp xã hội học ở Bỉ về, có chân trong đảng “Cần Lao” sẽ làm chủ bút; cùng với giáo sư Thục vẫn là chủ nhiệm. Tờ tạp chí này phải thay đổi từ hình thức đến nội dung, nặng về phần chính trị để giải quyết thân phận con người Việt Nam hướng tới hòa đồng với thế giới tự do văn minh; chứ không nặng về văn nghệ văn gừng nữa. Và thưa với ông “bố vợ hờ”, tôi có thể nhịn ăn đôi ba ngày, nhưng con tôi (có giữa con gái ông), không thể nhịn sữa vai giờ. Vì thế, nên tôi đã phải tự giải giới “vật cứng như đinh sắt” nói theo thơ đại thi hào Mỹ, trước khi hẹn hò với con gái ông, để dầu tôi muốn làm liều trước sự đã rồi, còn có “thắng” hãm lại. Tôi không dám đáp lại cả nụ hôn dâng hiến tự nguyện, cũng là vì thế. Có một điều, tôi phải cảm ơn ông, như đã cho tôi mượn hồn thơ ngây cao thượng con gái ông để có nguồn rung cảm sáng tác. Chủ nhật này, con gái ông sẽ dành cho tôi trọn ngày. Cô sẽ nấu cơm trưa tại nhà tôi thuê, cô sẽ nằm nghỉ trưa trên giường tôi thường nằm, cô sẽ vít cổ tôi xuống đòi hôn, tôi đành quay đi... Có thể người con gái này cũng không thể khác hơn bất cứ ai, yêu nhau đã năm sáu năm, lại không hề đòi ôm người vào lòng, hoặc trao nụ hôn, dù nhiều lần sẵn cơ hội. Trong bóng tối gần kề của rất nhiều lần ở rạp chiếu bóng, cảnh gợi cảm nhất khi cô ngước chờ người tình, để môi ngậm lưỡi như trong phim “Orfeu Negro” chẳng hạn. Hay là anh chàng người tình của con gái tuy là đàn ông thật, liệu có thể nào lãnh cảm giống như phụ nữ. Hay là cái để người ta phân biệt được, nó khác với phụ nữ là không còn cong năng sử dụng? Và người được gọi là người tình của con gái ông, khi còn ở trên Tây bắc, khoảng đâu trên mười tuổi thường nghịch ngợm xuống suối nước trong vắt, chung tắm với các cô gái Thái tắm truồng, váy áo để trên đầu. Khi thấy bạn trai của con gái ông đòi tắm chung, nói: “... ai cho mày tắm chung với tụi tao? / Sao lại không cho tắm chung? / Bởi mày là con trai ...” Bạn trai của con gái ông không vừa gì, cầm “vật chưa cứng như cái đinh” thơ W. Whitman nước Mỹ kéo ra phía sau, trông giống hệt như “Cái của ...” cô gái Thái. Tiếng cười nhất loạt của các cô gái Thái tắm suối cười vang, im lặng như đồng tình cho bạn trai con gái ông tắm chung. Tất nhiên phải nói đó là “tiền thời kỳ”, trước khi quen cô gái con ông trên mươi năm. Có một điều hơi lạ về cách đặt tên cho con cái gia đình gia tộc nhà ông. Các con được đặt tên ở giữa như “middle name” nước Huê Kỳ. Một trong số các con của ông là đứa bé trai Văn Nhân lại không sống được, thì giờ này đây con gái ông có bạn trai với nghề “văn nhân”, nên ông ghét cay đắng; nhất định không gả con gái cho, nếu nó xin cưới. Và nghề thì không có rồi, ngỗng cũng rụt cổ; nó không dám ôm con gái ông vào lòng, để hôm nay là thời hạn cuối, không thể kéo dài hơn nữa, nó gửi thư bảo đảm hoàn trả con gái còn “nguyên trăm phần trăm đấy bố!”, giống như bọn lính tráng bây giờ mỗi khi nốc rượu thì nâng ly hò hét: “một trăm phần trăm em ơi”! Nhưng hai cái này có hơi khác nhau, trả con gái cho ông “còn một trăm phần trăm” là còn nguyên; nhưng ly bia hay rượu “một trăm phần trăm” kia thì không con nguyên vẹn nữa. Trước khi đi gửi thư bảo đảm cho ông, cách đây vài ngày, tôi đã vào trong sân bay Tân Sơn Nhất, đến khu nhà Cư xá Hàng không dân sự, nơi ông và gia đình ở khi xưa, để nhớ lại một đêm vào năm l956, trung úy Hoàng Liên đưa tôi đến thăm con gái ông lần đầu. Nó chở tôi trên chiếc xe gắn máy Suzuki vào sân bay, đến cổng Nhà kiếng bị ách lại, bởi ngay hôm sau Tổng thống Ngô Đình Diệm sang New Dehli thăm nước bạn, an ninh được đặt lên hàng đầu kiểm soát. Nó phải trình thẻ nhà báo quân đội mới đủ bảo đảm được lọt vào sân bay cõng theo tôi. Và thư này đến ông, với địa chỉ Nha hàng không dân sự Ban Mê Thuột, khi nhận được, xin ông tha thứ cho có dòng nào, câu nào, ý nào bất kính thân người viết rất không có ý này. Trong đời tôi không bao giờ quên đuợc, có một lần gần vào dịp tết âm lịch, tôi tiễn con gái ông về Ban Mê Thuột ở bến xe Ngã Bẩy. Cô ấy đưa cho tôi một phong bì chúc tết, mà tôi biết chắc chắn rằng có tiền lì xì ở trong. Một người con trai không muốn để cho bạn gái của mình coi nhẹ, thì nhất nhất không được cầm “ngân ảnh” (nhà thơ con gái ông dùng thay cho tiền) của người nữ. Vậy tôi biết trong đó có tiền sao lại cắm đầu nhận? Bởi năm ấy tôi khốn khó cùng đường, ngày cận tết, nợ đòi tám hướng, từ tiền nhà trọ, tiền mua chịu gạo, nước mắm, củi...Và trước đó tôi cũng phịa ra chuyện nay mai đi du học, vài năm sau về mới nói đến chuyện vợ con. Nhưng chỉ là nói xạo, nào là thân phận tứ cố vô thân, chẳng còn ai gửi hình lưu ảnh đem gửi hết con gái ông. Thưa ông: “bố vợ hụt, tôi cảm ơn ông bà (mặc dầu bà lớn qua đời) sinh ra được cô gái có phương danh Mai A, một trong số con gái của ông bà ...”
Nhưng ai là người có thể cho nhà văn đít nhẵn như đít ếch vay, bởi lấy gì đảm bảo có thể trả được! Cũng may, hiện thời anh đang là giảng viên có lương tháng gần mươi ngàn đồng, chắc là có đôi chút bảo đảm. Như dự tính cho đám cưới này, Đỗ phải có trong tay một trăm ngàn đồng, mà bây giờ chưa biết vay ai? Bỗng anh Huyến bàn với Đỗ:
- Tôi bàn với ông là đến vay ông Phú là được ngay thôi.
- Bác Chánh có ý kiến hay, thế mà sao tôi lại không nghĩ ra?
Phú từng là lính của bài quân nhạc có nhịp điệu "..ta chiến binh Sư đoàn nhảy dù...", từng là chiến hữu đi đào vàng với anh ở Phi Nôm năm sáu tư. Người bỏ tiền Đinh Xuân Cầu và trong số ấy có Đỗ, Phú ... nổi tiếng đến nỗi nhật báo Sống Chu Tử trong mục Ao Thả Vịt; Kha Trấn Ác loan tin hai cột trang nhất và phong cho "nhà văn Đỗ từng được mệnh danh "vua chửi" cùng đi đào vàng ở Đà Lạt với Đinh Xuân Cầu".Đỗ cũng không muốn nhờ tiền bà cô, kể cả bạn bè khá giả, nên vay tiền làm đám cưới là việc hay nhất. Chỉ cần dành dụm vài ba tháng là trả hết nợ thôi. Và số tiền mua vé máy bay cũng là số tiền kha khá, năm trăm một lượt, khứ hồi chín trăm tám. Mua vé cho ba người: chú rể, bà cô, và anh Huyến. Vào thời kỳ này không thể đi đường bộ, chỉ nói riêng tới quốc lộ 20 đi Đà Lạt, ở cây số 135 thường bị phục kích. Số bạn bè là văn nghệ sĩ được mời, sở dĩ đăng báo mừng nhiều hơn là có thể đi Đà Lạt tham dự, cũng vì đường bộ đi lại khó khăn. Và Đỗ ra hãng máy bay Air Vietnam mua ba vé.