P hải là thằng Tuấn, chính thằng Tuấn leo cây hái dừa chứ không được ai khác. Mặc dù thằng Hùng lên tiếng xin cho em, nói nó thấy thằng Tuấn hôm nay trông như không được khỏe, ba nó cứ mực không tha. Thằng Tuấn cũng quen rồi những chuyện đại loại như thế nên cũng cố gắng vì không khéo lại bị những ngọn roi tàn bạo của ba nó vun vút trên lưng. Ăn đòn xong thì cũng phải làm cho xong việc, vậy thì nó chần chừ làm gì.
Nó leo tuốt lên cây chặt những quày dừa trĩu quả, rồi cột dây cho ba và anh nó chuyền xuống xuồng mang ra chợ bỏ mối. Ba nó huấn luyện nó ngay từ nhỏ bằng những đòn roi. Miết, thành ra nó leo rất giỏi, thoan thoát như vượn vậy đó. Nhìn nó leo dừa chuyên nghiệp ai cũng tâm tắt thán phục, dù ở xứ cù lao này leo dừa là chuyện nhỏ.
Chuyện nhỏ nhưng không ít người thành què quặc hay liệt nửa thân người từ những chuyện nhỏ này. Có lẽ chính vì vậy mà nó phải là người chuyên leo trèo trong chiếc ghe mua dừa đem đi bỏ mối của ông Tư Đời chứ không phải là ai khác.
Mười bốn tuổi đầu nó đã biết đời chẳng có gì vui khi trong đầu nó luôn lỡn vỡn những ngọn roi, cái tát rất đau mà kẻ ban phát cho nó không ai xa lạ chính là người đàn ông nó gọi bằng ba. Một an ủi duy nhất trong đời, đó là vòng tay ôm ấp của má nó, những giọt nước mắt nóng hổi của má nó ướt mái đầu xanh của nó mỗi khi biết ba đánh nó hoặc giả may mắn có hôm chỉ có hai mẹ con ở nhà, má nó ôm nó vào lòng mà nước mắt như mưa.
Thằng Hùng lớn hơn nó hai tuổi, anh kế nó mất khi mới chào đời, nó là Út bởi khi sanh ra nó má nó phải mổ vì đẻ khó nên không thể sinh nở thêm. Nó bị hắc hủi ngay từ lúc vừa mới lọt long. Thằng Hùng, anh nó, cũng bắt chước theo ba nên tuổi thơ nó cơ cực, nhọc nhằn lắm. Nhưng càng lớn, như càng hiểu ra sự việc Hùng dần bớt ăn hiếp em hơn. Bênh vực thì không dám, bởi dù gì chỉ là phận làm con.
Còn nó, mỗi khi đón nhận những trận đòn tét da chỉ dám ngẫng mặt lên trời khóc và thầm hỏi vì sao? Vì sao, có ai biết không trời?
Đâu có chuyện gì xãy ra mà không có nguyên do. Nguyên do chuyện nó bị ba nó hành hạ là đây: Đó là chuyện của hai mươi năm trước.
Nguyệt bơi xuồng qua con rạch, mang mớ bông điên điển còn tươi rói sang chợ Vĩnh Long bán. Chỉ cách mấy mươi phút chèo đò mà phân biệt rõ nông thôn, thành thị. Miệt cù lao đèn đóm tù mù, bốn bề song nước còn bên nầy nhà hang, quán xá... Cái chợ thị xã lớn nhất tỉnh nằm sát cạnh bờ sông, nườm nượp ghe xuồng, xe chạy quanh quanh.
- Mèn ơi, Nguyệt! May quá, cho chú em này quá giang tới nhà Hai Thành nghe. Cháu của chú Hai Thành nè!
Nguyệt chưa kịp quay mũi ghe vào bờ đã nghe tiếng dì Sáu Mèn hỏi
- Mà chú em mày tên gì vậy?
Dì Sáu Mèn bán quán tạp hóa ven đường, tính rổn rang mà dễ gần, dễ quen. Người thanh niên đương còn xa lạ với cảnh sinh hoạt của vùng đất song nước này nên hình như khá rụt rè, giọng nho nhỏ:
- Dạ, cháu tên Kha, Vạn Kha!
- Í mèn, tên lạ hén. Dì chỉ tay về phía cô gái chèo xuồng đi bán bong điên điển nói: “Nó tên Nguyệt, nhà kề bên nhà Hai Thành! Quay sang Nguyệt dì nói lớn: Chú em này ở Đà Lạt xuống chơi…
Bao nhiêu câu hỏi dành xả giao dì Sáu Mèn giành nói hết trơn! Nguyệt chỉ biết gật đầu chào, nhoẻn nụ cười dễ thương và hỏi câu rất thừa vì mình đã biết ráo trọi:
- Anh tìm nhà chú Hai Thành hả?
Rồi bơi xuồng sát bờ cho người thanh niên bước xuống.
- Làm phiền cô Nguyệt nghe, tôi không biết chèo!
Nguyệt cười bẽn lẽn:
- Anh quá giang mờ, ai chấp chi
Tiếng dì Sáu với theo lanh lảnh:
- Mèn ơi, nó ở thành phố nên sợ sông nước lắm nghe mậy!
Chú Hai Thành có mấy công vườn chôm chôm nên cuộc sống cũng tương đối khá giả, theo vợ là dân Cù lao về đây lập nghiệp. Vạn kha vai cháu, họ hàng xa. Tuy vậy, chú Hai Thành và ba của anh học chung lại đồng tuổi nên thuở trai tráng cũng là đôi bạn thân.
Chú Hai Thành ngỡ ngàng khi thằng cháu ở miết miền xa đến chơi, mấy năm rồi chú không về quê vì kinh tế ngày một khó khăn. Vạn Kha đậu đại học ở Sai gòn, hè năm thứ ba quen nước quen cái mới lò mò theo địa chỉ ba anh cho, về đây để tìm thăm chú Hai Thành.
Xem mòi, hai đứa cũng xứng, lại được mấy tháng hè thư thả nên chú Hai Thành ra sức vun bồi tình duyên cho cháu.
- Nguyệt sống trên vùng Cù lao này quanh năm suốt tháng, từ nhỏ đến giờ, không biết có chịu rời chân nếu có chồng xa xứ khống á? Nguyệt có ưng không hả? Vạn Kha nói bóng gió, úp mở
- Tui nghèo thấy mồ, ai thèm ngó mà ưng với hỏng ưng!
- Có mà, khi yêu thật lòng ai phân biệt giàu nghèo, Nguyệt ưng tôi nghe!
Nguyệt mắc cở, hồi nào giờ có nghe ai nói chuyện này đâu à, người đâu sổ sàng quá trời. Không trả lời, Nguyệt chạy vào bếp, quét hoài cái nền đất lâu ngày nên nổi vẫy rồng láng cuộn.
Chuyện Nguyệt và Vạn Kha xứng đôi bay đi khắp xóm, Chú Hai thành còn khoe rằng hè năm sau thế nào Nguyệt cũng thành cô dâu xứ Đà Lạt sương mù.
Hết hè, Vạn Kha đi biền biệt, có thể đã quên cô gái cù lao nhưng xứ cù lao vẫn nhớ con Nguyệt hái bông điên điển là cháu dâu hụt của chú Hai Thành.
Nỗi buồn thênh thang theo những tiếng chèo khua. Nguyệt trầm lặng, sợ ai nhắc đến tên người xưa. Đưa xuồng giữa dòng mỗi khi phải qua ngang quán dì Sáu Mèn để đừng nghe dì oang oang nói:
- Mèn ơi, Thằng Kha lâu rồi hông xuống hén mậy, chắc nó sợ sông nước mênh mông này!
Ừ thì sông nước mênh mông, nếu yêu thì sẽ không còn sợ. Như chú Hai Thành nè, chứ có đâu xa. Giờ không nói có ai biết chú người thành phố, chú chạy ghe tam bản lướt sóng sông Tiền đi Vĩnh Long hà rầm đó, sợ gì đâu? Trách là trách lòng người bạc bẽo.
Chú Hai Thành quyết về thăm quê nhưng cốt để hỏi cho ra lẽ cái thằng cháu trời đánh sao đi gieo thương gieo nhớ cho người rồi lẳng lặng như không
Vạn Kha cười khà khà nói là chuyện có gì đâu, hai đứa chưa ra mắt gia đình với nhau, chưa có trầu cau sinh lễ gì thì không có chi rang buột nhau cả. Nhắn Nguyệt có chồng đi, đừng đợi chi nữa.
Ba năm sau đó thì Nguyệt lấy chồng, thì cũng coi như là cho xong duyên phải nợ. Người thanh niên nghèo khó đi đào đất mướn cho nhà chú Hai Thành để lòng thương mang trầu cau dạm hỏi. Có cưới xin đủ lễ dù là đơn sơ, nho nhỏ. Con gái lớn rồi, phải lo yên bề để an lòng cha mẹ
Hai vợ chồng Tư Đời ở xứ vườn nhưng ít đất, thiếu cây. Tât nhiên rồi cái nghèo cũng sẽ đeo theo miết. Con xuồng nhỏ ngày nào hái bong điên điển sang chợ bán phải gánh thêm cây trái cù lao, rẽ sóng về chợ cho mấy miệng ăn mới vừa đủ no.
Ấy là lúc thằng Hùng ra đời vừa ngấp nghé thôi nôi. Năm sau đứa kế cũng ngo ngoe nhưng chưa đầy tháng đã viêm phổi mà chết
Đã xa thì xa đi, ai biểu anh vậy, ai biểu anh về thăm Cù lao nữa mà chi để nhìn nhau ngại ngùng. Cái xứ tù mù đèn đóm này nhà lại ở cách nhau mấy gốc nhãn thôi, hỏi ai không buông lời dị nghị. Nguyệt lúc lánh trong nhà, lúc theo chồng mua trái. Càng tỏ lạnh lùng, xa lạ thì anh chồng Tư Đời càng nghi, mọi người càng ngờ. Tư Đời càng ngấu nghiến, vật vã thân xác vợ rã rời. Đàn ông càng ít nói ghen càng dữ dội hơn thì phải. Kha muốn sang nhà làm quen nhưng thấy Tư Đời cau có, lại thôi, qua lại xem ra không phải là điều tốt trong lúc này nên chỉ hai ngày lưu lại nhà Chú Hai Thành, Kha đi.
Khi con bìm bịp kêu nước lớn, Chú Hai vấn khăn lên đầu hối Kha xuống bến, Kha không cầm lòng được nói vói sang khi thấy Nguyệt khom khom cái lưng quét nền bếp nghe sột soạt:
- Kha biết Nguyệt giận Kha lắm. Xin lỗi, xin lỗi Nguyệt nha, Nguyệt ơi!
Người đàn bà đã qua ba lần sinh nở không nói không rằng khẻ lấy tay chùi nước mắt. Kha chầm chậm quay lưng. Thóang thấy bóng Tư Đời sau vườn cách con mương nhỏ.
Tư Đời vào nhà, Nguyệt quay mặt đi tản lờ làm bếp nhưng hai con mắt đỏ hoe kia của Nguyệt không thể ngụy trang bằng cái gì hết. Nó càng làm cho đôi mắt Tư Đời long lên sồng sộc.
Cái thứ ghen ngầm coi vậy chứ cũng rất đáng kinh sợ không thua gì dao đâm, mác chém. Bề ngoài tỉnh bơ vậy chứ bên trong hừng hực lửa. Bởi vậy, dì Sáu Mèn đâu có biết nên mỗi khi gặp mặt cứ oang oang kể cho Tư Đời nghe chuyện cô cháu dâu hụt của chú Hai Thành, chuyện những buổi chiều lãng mạn Nguyệt và Vạn Kha chèo xuồng ngang đây để ra dọc bờ sông hái bông điên điển, vui lắm. Tư Đời nghe mà ruột lồng lên, rối nùi mà miệng thì cứ hỏi tỉnh khô: Vậy hả dì Sáu?
Kha đi vừa mươi hôm Nguyệt nói mình cấn thai, là Thằng Tuấn được đẻ ra sau này đó. Xem ra nó bị ghẻ lạnh của Tư Đời ngay từ bụng mẹ. Nguyêt càng vất vã trăm chiều khi trong đầu Tư Đời lúc nào cũng nhớ đến năm, đến tháng mà Vạn Kha về cù lao lần thứ hai, lúc nào cũng rõ nồm một cái dáng phong lưu của Kha í ới gì đó sang nhà và nhớ cái cặp mắt đỏ hoe của Nguyệt cố tình quay đi. Tư Đời càng sôi sục cơn ghen.
Tư Đời không vũ phu với vợ bằng roi vọt, đấm đá như những người đàn ông khác mà bằng sự lạnh nhạt thờ ơ và những cú sốc tinh thần. Bao nhiêu đòn roi vun vút trên tấm than gầy yếu của thằng Tuấn. Nguyệt càng xót xa bao nhiêu Tư Đời càng ghen nhiều hơn bấy nhiêu. Trớ truê, thằng Tuấn lại có gương mặt bầu hơn mặt thằng Hùng, cặp mắt tròn hơn mắt thằng Hùng và cái mũi gần như cao hơn mũi thằng Hùng…
Năm lên tám tuổi, đang cuốc khoai thuê trên rẫy nó rũ thằng Hùng bắt cào cào làm mồi cho má nó câu cá, Những con cá rô béo ngầy ngậy trong mương vườn Ông chú Hai Thành luôn làm nó thèm bởi vì má nó kho cá rô rất cừ, mà ba nó cũng thích rau mác non giòn chấm nước cá rô má nó kho nữa mà. Bữa đó ba nó dùng cán cuốc đánh nó thừa chết thiếu sống, bắt nó phải đi bằng đầu gối hết mấy luống khoai mặc cho thằng Hùng van xin ba nó hết lời.
Nó tấm tức khóc khi má nó xức dầu trên những vết đánh chuyển màu bầm tím, môi cắn kìm những cơn đau:
- Má, con có phải là con của ba không vậy má?
Trời đất, đến thằng con rứt ruột sinh ra mà nó cũng nghi ngờ sao? Chỉ là tủi thân nên nó mới hỏi vậy thôi chứ chuyện người lớn dằn vặt nhau nó còn quá nhỏ đâu đủ trí khôn để biết đến.
- Tao thèm mía lắm, Thằng Tuấn đi chặt về một cây coi
Ba nó ra lệnh lúc ấy trời mưa ri rả, chập choạng tối. Đám mía cuối vườn đã cao bộn, thân ngang đầu nó rồi. Bình thường không sao nhưng sang nay người ta vừa chôn người chết phía bên kia vườn cách bụi mía một con mương ranh.
Má nó lại khóc vì biết thừa những ý đồ ba nó. Cũng tại tối ấy trời gió, cái gió miền sông nước mát lạnh mà buồn thấu tim gan. Gió thổi từng chập, gió như cùng những cành nhãn lao xao kể lể làm má nó ngước nhìn ra xem. Và ai biểu dì Năm Trầu chết, rồi anh Thắng của con dì đem chôn đó chi để cho ba nó tối nay thèm mía.
- Nó là con ông mà. Ông ác chi mà ác dữ vậy?
Câu nhắc không làm Tư Đời thức tỉnh mà càng sôi gan. Nguyệt từng quỳ lạy từng thề thốt bán mạng mình để bảo vệ thằng Tuấn, càng quyết liệt Tư Đời càng tin chắc thằng con oan nghiệt kia là giọt máu của thằng tình địch nên Nguyệt thương nhiều.
Tuấn cầm con dao, mặt tái méc, mắt len lén nhìn về phía má. Nó biết má nó sẽ không thể làm gì hơn nhưng tuổi nhỏ mà, gặp chuyện gì cũng muốn bàn tay che chở của mẹ.
- Đi đi mày, đàn ông con trai phải mạnh dạn lên, ma cỏ có gì mà sợ! Tư Đời quát oang oang.
Nguyệt vụt đứng dậy cầm con dao từ bàn tay Tuấn rồi nắm tay dẫn Tuấn ra vườn. Tuấn thúc thít:
- Sao ba ghét con dữ vậy má?
- Ba hiểu lầm thôi. Sau này con lớn, con đừng oán giận ba nghen Tuấn.
Hai mẹ con ôm nhau khóc ngoài vườn. Tuấn còn chưa thôi ấm ức
- Ba đánh con đau quá chừng. Ngày nào con cũng no đòn vậy mà má còn biểu con đừng giận ba. Sao vậy má? Hỏng lẽ con đáng đánh đòn lắm sao?
Nguyệt chỉ biết khóc rồi vuốt lên tóc con:
- Cứ nhớ lời má, sau này con lớn con sẽ hiểu.
Hai má con còn phải chặt mía rồi mau chóng vào nhà. Cầm cây mía ngắm nghía, Tư Đời quật mạnh vào lưng Tuấn nói nó chặt mía non lạt nhách sao ăn rồi vùng vằn bỏ đi vào buồng. Nguyệt biết, nếu lúc nãy mình không đi chắc có lẽ là thằng Tuấn không bị trận đòn này.
Chú Hai Thành đôi lần chứng kiến cảnh Tư Đời hành hạ thằng Tuấn, láng máng nhận ra nguyên nhân. Tin là tin Nguyệt vậy, mấy chục năm ở chung xóm, gần nhà mà chẳng lẽ không biết sao cái nết cái na con nhỏ, Nhưng mở lời sao đây? Chỉ thỉnh thoảng nhắc khéo tư Đời qua những câu tâm sự: Phàm làm việc gì nên suy nghỉ chính chắn, Có những việc khi biết mình sai sẽ dằn vặt lương tâm suốt một đời.
Mười sáu năm đau khổ, mười sau năm sống trong cay nghiệt âm thầm của chồng, Nguyệt lâm bệnh mà chết. Lần cuối, bên vợ đang hấp hối Tư Đời còn hỏi câu cuối cùng thật tàn nhẫn rằng Thằng Tuấn đích thực là con ai? Nguyệt thều thào, câu trả lời một ngàn lần có hơn rồi:
- Tôi không hề trái đạo làm vợ. Sao mình không để tui có ngày vui? Sao mình tàn nhẫn với con ruột của mình vậy hả mình?
Có lẽ đau xót oằn nhói lên tim trong giờ phút cuối mà Nguyệt đi nhanh hơn, nói vừa hết câu mà chưa kịp nghe hay thấy cái gật đầu của Tuấn:
- Tuấn ơi, dù ba có lỗi con cũng nhớ đừng oán trách ba nha con!
Nguyệt đi và không chịu nhắm mắt.
Vạn kha đã đi định cư ở nước ngoài nhiều năm rồi. Hôm về thăm quê được gia đình nhắc đến Hai Thành rồi biết chuyện của Nguyệt. Kha tức tốc về Cù Lao. Căn nhà lá nhỏ năm nào còn nằm đó. Dù có ba con người ra vào, ngó nghiêng ông khách tới thăm nhà Hai Thành kề bên mà sao như lạnh lẽo quá chừng.
Vạn Kha cùng chú Hai Thành sang nhà xin thắp nén nhang cho Nguyệt. Mối tình đầu nên thơ ai dễ quên đâu, Kha biết Nguyệt cũng vậy mà.
- Nguyệt ơi, tưởng xa nhau để cho em có những ngày vui… ai ngờ em đau khổ đến vậy hả Nguyệt?
Tư Đời lắng nghe Vạn Kha kể về mối tình xưa, mắt không còn long sộc mà đỏ au vì khóc. Nguyệt trong trắng lắm, đáng yêu lắm. Hai đứa mơ những ngày hạnh phúc sẽ bên nhau với đàn con. Cha mẹ lưu lạc từ miền trung trong những năm khói lửa nên không biết gốc gác bà con thân thuộc ở đâu. Nhưng sau cuộc chia tay lần đầu đầy bịn rịn Vạn Kha phát hiện mình vô sinh không thể chữa được. Kha quyết định không liên lạc với Nguyệt nữa để Nguyệt không còn hy vọng gì với Kha mà có chồng, sinh con. Ai mà đi nhớ thương kẻ bạc tình
Lần thứ hai về thăm chỉ muốn nhìn tận mắt mái ấm gia đình của Nguyệt cũng là để an tâm sang Pháp định cư.
Chỉ là như thế mà Kha đã vô tình gieo oan trái cho Nguyệt, và gieo mầm đau khổ cho đứa bé bị cha ruột không thừa nhận.
Khỏi cần Kha nói, Tư đời cũng đã tin. Bởi éo le, thằng Tuấn lúc nhỏ không chịu giống cha để khi má nó chết, nó cũng vừa vào tuổi trưởng thành, trổ mã lại giống, giống ơi là giống Tư Đời. Giống từ nét mặt, vành môi. Chỉ đôi mắt là giống má nó mà thôi.
Đôi mắt ấy luôn chưa nỗi buồn xa xăm dù biết rằng bây giờ ba nó đã chịu nhận nó là con.
Tuấn chèo xuồng đưa ba nó sang Vĩnh Long khám bệnh. Bận về, ba biểu ghé tiệm bà Sáu Mèn mua xị rượu uống cho ấm ruột. Mấy hôm nay gió nhiều, trở lạnh nên ba nó ho, ho nhiều lắm. Bà sáu chợt buột miệng nhắc tên má nó:
- Cái thằng tướng chèo xuồng giống con Nguyệt! Mà cái mặt nó y chang bây nghe Tư, thiệt là…
Thiệt là gì hả bà Sáu, hai mảnh đời, hai con người vắt lên nhau để tạo ra nó thì chuyện giống nhau có gì lạ, nếu chịu nhìn sẽ thấy được thôi mà, đâu đợi nó lồ lộ ra ngoài mới gật đầu chấp nhận. Tiếc là ba nó không chịu cân nhắc để cho tuổi thơ nó trôi đi trong đau khổ triền miên.
- Í mèn, sao bây khóc vậy Tư?
Tư Đời lắc đầu không nói, khẻ ôm vai Tuấn
- Ba con mình xuống xuồng về nhà đi con.
Gió vẫn thổi, từng chập mang hơi lạnh từ sông. Dừng lại thì thầm cùng những cành nhãn bên hông nhà. Những lúc này Tuấn nhớ má nó da diết. Tư Đời cũng vậy, ông hay lẳng lặng tuột xuống võng men ra cuối vườn, không phải thèm mía mà ngồi bên nấm mộ người vợ một đời buồn khổ vì ông. Ông lầm thầm câu xin lỗi muộn màng.
Tuấn biết vậy nên cũng thường chậm rãi đi theo sau ông. Đợi ông nói những gì cần nói cho thỏa lòng rồi dìu ông vào nhà nghỉ ngơi. Lần nào ông cũng nói với Tuấn:
- Ba có lỗi với con nhiều, đừng oán giận ba nghe con!
Tuấn không oán giận chẳng phải vì miễn cưỡng nghe theo lời trăn trối của má nó mà vì nó biết chắc chắn rằng nó là con ruột của ba nó, ông Tư Đời. Mà phải chi thuở trước ba nó đừng lầm lẫn đáng tiếc thì gió từ sông đâu có thổi buồn nhiều đến như vậy.