Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
         


NHỮNG MẢNH GHÉP




     Tiểu thuyết NHỮNG MẢNH GHÉP được hoàn thành: Tôi xin chân thành cám ơn tới Tập Đoàn CN Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã nhiệt tình giúp đỡ. Trong tiểu thuyết NHỮNG MẢNH GHÉP là những hình ảnh, sự việc được tái hiện trong những năm tháng công tác tại vùng mỏ với thể loại hư cấu văn học. Nếu trong tác phẩm có những sự việc đề cập đụng chạm đến tập thể, cá nhân nào đó thì coi đây chỉ là một sự trùng hợp vô tình trong quá trình hư cấu xây dựng tác phẩm này. Rất mong được sự hoan hỷ sẻ chia của bạn bè và ban đọc.
     NHỮNG MẢNH GHÉP có thể chưa được khít mạch, chưa được phẳng nhẵn còn gập ghềnh gồ ghề nhưng cái đích của người viết vẫn là sự tri ân tới bạn bè, ngợi ca cái tình người đằm thắm mặn mà của người Vùng Mỏ…

Tác giả Nguyễn Chính Viễn

     Lời giới thiệu

     Những mảnh ghép là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Nguyễn Chính Viễn, sau cuốn “Chuyện của Kiên” được Nhà xuất bản Lao Động ấn hành năm 2020. Những mảnh ghép là những câu chuyện nối tiếp của các nhân vật và sự kiện diễn ra ở tập I. Nhân vật Nguyễn Đình Kiên được coi là nhân vật xuyên suốt từ tập đầu đến “Những mảnh ghép” của cuốn tiểu thuyết..
     Gắn bó với Ngành than trên nửa thế kỷ, không chỉ với những trang viết của hai cuốn tiểu thuyết kể trên, Nguyễn Chính Viễn đã ra mắt bạn đọc hàng chục đầu sách viết về than. Than đối anh như một duyên phận. Dù ở thể loại nào của văn học thì trong tác phẩm của anh cũng có bóng dáng của than: Với “Mối tình muộn, Thư gửi lại mai sau, Cảm nhận và đợi chờ, Dấu ấn thời gian, Vùng đất tôi yêu, Thợ mỏ viết văn, Sự giả dối hoàn hảo… Đây là những tác phẩm mà anh đã lần lượt gửi đến bạn đọc từ những năm 2010 đến nay nội dung đều nói về than và đất mỏ Quảng Ninh.
     Có người bảo, tác giả sống và làm việc ở ngành than thì viết về than là lẽ đương nhiên. Xin được tiết lộ, Nguyễn Chính Viễn quê ở Ba vì (Hà Nội) từ rất sớm anh đã đam mê văn chương, và đến nay ở vùng đất Hà thành nơi anh ra đời và lớn lên đã có nhiều bạn bè cùng trang lứa với anh họ theo nghiệp văn chương không ít người đã thành danh. Còn với Nguyễn Chính Viễn theo ng hiệp làm kinh tế và đến cuối đời anh mới có được cơ hội thực hiện sự đam mê của mình với văn chương. Và văn chương đối với Nguyễn Chính Viễn theo tôi nghĩ những tác phẩm của anh dẫu là muộn mằn. Nhưng đó là những trái quả chín muộn còn đầy hương sắc.
     Phải chăng vì yêu hay vì duyên phận với vùng đất đầy nắng, đầy gió và gian khổ này đã gắn bó anh với Than như một định mệnh. Với hai cuốn tiểu thuyết “Chuyện của Kiên” (tập I) và “Những mảnh ghép” được coi là tập tiếp theo viết về than cũng đủ nói được tấm lòng của anh đối với vùng đất. Đọc tiểu thuyết “Những mảnh ghép” được viết tiếp theo ta thấy tác giả còn dồi dào (vốn sống) nên anh đã tạo dựng được đời sống người thợ mỏ và những người làm than một thời gian khó của những năm (70-60) thế kỷ 20 khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng. Với những trang văn tâm huyết viết về lịch sử vùng than của những năm (39-36) khi vùng mỏ còn tạm chiếm giúp thế hệ trẻ hôm nay hiểu thêm về vùng mỏ sau giải phóng và thời kỳ khôi phục xây dựng mỏ ở vùng than Đông Triều, Uông Bí, Vàng Danh, Mạo Khê, theo tôi đây là tư liệu là bức tranh cần thiết để thế hệ mai sau họ thấy rõ hơn vai trò to lớn của người thợ mỏ khi dành được tự do trên mảnh đất (vàng đen) của mình từ tay nhà cầm quyền Pháp và những nhà tư bản độc tài đã diễn ra ở vùng mỏ thời Pháp thuộc. Thông qua những trang văn về lịch sử ngành than, tiểu thuyết của Nguyễn Chính Viễn đã tái hiện được bức tranh chân thực của ngành than trong quá trình xây dựng mỏ thời kỳ đầu của những năm 70 khi đất nước bước vào giai đoạn khôi phục Nganh than nói chung và vùng than Đông Bắc được coi là vựa than của đất nước.
     Náo nức theo tiếng gọi của than, tuổi trẻ ở các tỉnh vùng quê phía Bắc như Nam Định, Thái Bình, Nam Hà, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Giang… lần lượt rủ nhau đến Quảng Ninh xây dựng vùng mở. Nguyễn Đình Kiên là nhân vật xuyên suốt của tiểu thuyết này cũng là một điển hình trong lớp trẻ hồ hởi ra vùng than. Kiên sinh ra và lớn lên ở một làng quê thuần nông ngoại thành Hà Nội. Cùng với trang lứa là Tự, Thiện, Khiêm, Sơn (bạn trai) và các bạn gái là Hận, Bình, Ninh, Trinh… là những nhân vật được miêu tả trong tiểu thuyết này, họ không hẹn mà nên để rồi họ đều có mặt ở vùng than. Đây là hình ảnh đẹp của tuổi trẻ ra vùng mỏ thời bấy giờ với tinh thần “làm than như quân đội đánh giặc” vào thập niên (60-70) của thế kỷ 20. Quảng Ninh như một miền đất hứa về một vùng quê vùng mỏ giầu đẹp.
Đọc các chương 5-4 có tiêu đề “Vùng Than Đông Bắc” và “Vùng Mỏ” trong tiểu thuyết này chúng ta thấy rất rõ không khí này của tuổi trẻ ở giai đoạn ấy. Xin được trích đoạn viết về nội dung này: “Vào những ngày tháng 11 năm đó, Kiên chia tay với bạn bè ở Công trường Mở rộng Trường trung cao cơ điện xách va ly đi đến với mỏ. Kiên ra bến xe Long Biên xếp hàng mua vé về Uông Bí.
     Trước lúc lên đường đến với mỏ, Kiên đã được nghe những huyền thoại lãng mạn về vùng mỏ thật cuốn hút lòng người. Kiên càng muốn đi nhanh đến mỏ để biết mỏ như thế nào? Nghe câu hát “mỗi khi lò thủng đón cơn gió nồm nam mát rượi” trong lời bài hát (Tôi là người thợ lò của Hoàng Vân) càng tăng trí tò mò của Kiên.” Còn với Bình bạn gái của Kiên, cô gái này ra mỏ là do Bộ công nghiệp nặng kêu gọi thanh niên đi vùng mỏ để khôi phục xây dựng vùng than theo tinh thần mới của Đảng và nhà nước (mặc dù bố mẹ cô khuyên là con gái không nên đí ra mỏ vì xa xôi) Nhưng Bình đã ghi tên tình nguyện ra mỏ rồi. Ta hãy nghe họ trao đổi với nhau qua lá thư như thế này: “Kiên thân! Thế là Bình đã xa Hà Nội 3 tháng lẻ hai ngày rồi, vì là Công trường mới hình thành nên còn rất ít người và đầy rẫy khó khăn trong sinh hoạt và làm việc… Hầu hết nhà cửa là tranh tre nứa lá… đến đây mới biết gió Vàng Danh như thế nào, nó gầm rít và xoáy lốc kinh hoàng… chắc Kiên vẫn nghe người ta nói “Ruồi vàng, bọ chó, gió Vàng Danh” rồi chứ. Bây giờ ruồi vàng, bọ chó thì không còn nữa, nhưng gió thì vẫn còn…
     Chỉ bằng đôi dòng này, chúng ta đủ thấy hình ảnh khó phai mờ của tuổi trẻ khắp nơi vào thời điểm đó, họ hồ hởi với tâm hồn trong sáng như thế nào khi đã đi vào trang viết tiểu thuyết của Nguyễn Chính Viễn như một nhân chứng của thời xây dựng vùng than Đông Bắc. Nếu ở giai đoạn những năm (60-70) vùng mỏ sôi nổi âm vang trên các Công trường, xí nghiệp xây dựng mỏ với khí thế sôi động phát triển sản xuất và khôi phục mỏ than nhằm gia tăng sản lượng than phục vụ cho ngành công nghiệp cả nước, thì đến năm (86-80) vùng than lại đón nhận những phương thức và lề lối làm ăn tự chủ theo tinh thần đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước. Đây là giai đoạn vùng than bắt đầu thực hiện sản xuất, quản lý theo mô hình kinh tế thị trường. Từ mô hình quản lý tập trung quan liêu bao cấp dần dần chuyển sang nền kinh tế tự chủ buổi đầu không tránh khỏi sự lúng túng trong quá trình thực hiện đổi mới cung các làm ăn ở các công trường, xí nghiệp thuộc ngành than. Vùng than Uông Bí (Vàng Danh); Đông Triều (Mạo Khê) giai đoạn này được chỉ đạo kiện toàn lại sản xuất, quản lý theo mô hình mới nên lao động dôi dư - năng suất thấp. Một số đơn vị làm ăn kém hiệu quả phải sáp nhập giảm biên chế. Thực tế này đã dẫn đến những tư tưởng buông xuôi tiêu cực. Nội bộ biểu hiện mất đoàn kết thanh trừ nhau, đặc biệt là những người có năng lực dám đấu tranh vì lẽ phải thì bị trù úm. Trường hợp của Nguyễn Đình Kiên một cán bộ quản lý (tài vụ kế toán) vì năng động và trách nhiệm trước tập thể (trong việc lo cơm áo gạo tiền) cho công nhân đã vi phạm kỷ luật do thao tác sai lầm khi chuyển đổi ngoại tệ sang VNĐ mà bị kỷ luật đáng tiếc. (Hãy nghe một trích đoạn nội dung này trong tiểu thuyết nói về nhân vật Kiên):
     “Nguyễn Đình Kiên đã vi phạm điều 221 Bộ luật hình sự về tội lạm dụng quyền khi thi hành công vụ. Qua điều tra, không có biểu hiện tham mô của Kiên, xét mức độ phạm tội Tòa án nhân dân tỉnh đã xử Nguyễn Đình Kiên 2 năm tù cho hưởng án treo”
     … “Ngay sau khi tòa tuyên án kết thúc, có vị luật sư đã lắc đầu nói với Kiên: Tội danh của ông chỉ có vậy sao ông không thuê luật sư cãi hộ? Im lặng giây lát vị luật sư nói tiếp: tôi nghĩ đó là việc làm có trách nhiệm, muốn công nhân nhanh có lương thế là tốt; vả lại Công ty đã giao quyền cho ông, ông thực hiện như thế là đúng. Nếu chỉ vì chữ ký vượt quyền, không báo cáo chỉ nên xử lý hành chính mới đúng”. Sau này mới biết, Kiên bị Giám đốc thanh loại vì sai phạm nhỏ này. (Chương 10 - Họa vô đơn chí).
     Qua đây ta có thể thấy giai đoạn 1986, nền kinh tế xóa bỏ tập trung bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường. Bức tranh xã hội nói chung, ngành công nghiệp than nói riêng. Sự mâu thuẫn, xung đột giữa cái cũ và cái mới về quản lý kinh tế cũng như tổ chức con người khi sắp xếp lại bộ máy hoạt động sản xuất ở các đơn vị, xí nghiệp xảy ra như trường hợp của Nguyễn Đình Kiên trong chuyện này không phải là cá biệt trong quá trình đổi mới - hóa thân.

     Sau khi bị vi phạm việc chuyển đổi ngoại tệ ký vượt quyền chủ tài khoản. Giám đốc Lê Thiều đa tuyên bố: Nguyễn Đình Kiên (Kế toán trưởng) với ba điều kiện: Một, anh Kiên có thể làm đơn xin nghỉ hưu. Giám đốc không những vẫn giữ lương cho anh mà còn tăng cho anh một bậc lương nữa. Hai, anh có thể xin đi khỏi công ty. Ba, Nếu vẫn muốn làm việc tai công ty thì phải hạ hai bậc lương…
     Suy nghĩ nhièu đêm, cuối cùng Kiên đã xin chuyển về Trường Đào tạo Nghề mỏ. Với kinh nghiệm quản lý của mình, Kiên vẫn được một số giám đốc doanh nghiệp thành viên mời đến giảng về quản lý hạch toán tinh tế cho họ. Trong bước thăng trầm của mình ở vùng than, khi về trường mỏ có lần Kiên đã tâm sự với Hiệu trưởng Bùi tiến Ân một người sống đẹp có lòng vị tha: Anh Ân à, người ta bảo tuổi tôi (tức Kiên tuổi Thìn) “Tấn thì vi quan lùi thì vi sư” có lẽ đúng! Và Kiên mới về Trường mỏ được 2 năm, thì Hiệu trưởng Ân ra đi vì căn bệnh nhồi máu cơ tim. Phàm người tốt bụng thường hay chết sớm…
     “Những mảnh ghép” tiểu thuyết của Nguyễn Chính Viễn gồm 12 chương, nếu những chương đầu tác giả miêu tả về một vùng quê Ba Vì - Việt Trì thật đẹp trong ký ức của tuổi thơ, thì ở các chương sau, tác giả dành nhiều thời gian tâm huyết cho vùng Than. Một vùng mỏ đầy sôi động của những năm (60-70) thế kỷ 20 trong thời kỳ xay dựng khôi phục mỏ. với nhiệt huyết của tuổi trẻ cho ngành than. Nhưng đến những năm bắt đầu đổi mới nền kinh tế thị trường thì ngành than cũng là những đơn vị đi đầu trong việc “thoát xác” lối làm ăn cũ sang hạch toán kinh tế tự chủ đầy thách thức, bởi nền kinh tế thị trường đầy thách đố…
     Trong “Những mảnh ghép” Kiên là nhân vật được xâu chuỗi các sự kiện trong tiểu thuyết không chỉ mang tính cách cá nhân, mà thông qua các nhân vật cùng tuyến ta thấy được toàn cảnh đất nước trong các giai đoạn thập niên (60-70-80) thế kỷ 20 ở các vùng đất công nghiệp đang xây dựng phát triển đó là Vĩnh Phúc, Việt Trì, Phú Thọ, Quảng Ninh. Đặc biệt là vùng mỏ - một ngành Công nghiệp Than - Điện sản xuất đầy sôi động. Đây là thời kỳ ngành than cùng cả nước Đổi mới tư duy trong quản lý kinh tế-góp phần tạo nên diện mạo mới cho nền kinh tế thị trường đầy thách thức.
Qua những trang văn hàm chứa nhiều sự kiện “Những mảnh ghép” trong tiểu thuyết của Nguyễn Chính Viễn đã giúp bạn đọc thấy lại hơi thở chân thực của ngành than một thời. Đó là sự việc, con người trong thời kỳ đổi mới đầy thách thức nhưng không thiếu sự ngọt ngào nồng ấm của hồn đất, hồn người vùng than một thời gian khó, mà chính tác giả là người chứng trải những vui buồn trước cuộc sống đã ghi lại những mảnh ghép, những tầng vỉa của than dẫu là gian khó nhưng luôn tỏa sáng.

     Duy Nguyễn
     (Nhâm Dần xuân 2022)



  CHƯƠNG I : LÀNG

 

K iên sinh ra và lớn lên ở một làng quê thuần nông. Tên làng là thôn Phú Thịnh xã Phú Cường. Các cụ bô lão của làng muốn dân làng mình, con cháu mình đời đời kiếp kiếp giầu có thịnh vượng hùng mạnh nên đặt tên làng tên xã như vậy chăng? Kiên có được nghe các cụ kể lại: Xa xưa gọi là Trang Thanh Lãng (Sóng sanh) Thanh Trì (Đầm sanh) sau đến thời Trần - Lê được đặt tên nhị xã Thanh Lãng Thanh Trì, tổng Thanh Lãng, huyện Tiên Phong, Phủ Quảng Oai, Trấn Sơn Tây (Xứ Đoài). Phú Thịnh là vùng bài bồi được tạo nên từ hàng triệu năm trước, nơi hợp lưu của 3 dòng sông, hữu ngạn dòng sông Hồng phía dưới là sông Thao, sông Đà, phía trên là sông Lô chảy vào sông Hồng. Thời Vua Hùng nơi đây là những hồ nước, bãi bồi trải dài từ Bắc xuống Nam xen kẽ có những dòng chảy nối sông qua làng. Từ đầu làng có các xứ Chỗ Xã, Giộc Gio, Giộc Mạt, Gò Đồng, Giộc Gi ang chảy qua nền đình vào Chằm Cố. Tục truyền trang Thanh Lãng được nổi lên giống hình Phượng đeo kiếm, trang Thanh Trì có dáng hình Hổ thú.

Làng Phú Thịnh ngày nay là làng văn hóa có hơn 40 dòng họ, có trên 600 hộ gia đình, gân 3.000 nhân khẩu với nghề thuần nông là trồng lúa và làm màu. Nơi đây được gắn với nền văn minh lúa nước cách trung tâm lúa nước có tên gọi Minh Nông (Việt Tri) có Làng Lú (Nú) - gọi chệch của chữ Lúa chỉ cách nhau dòng sông Hồng. Kiên còn được nghe trước khi có tên Phú Thịnh, Phú Cường làng Kiên còn có tên gọi phe Thanh Lãng - phe Thanh Trì… Kiên cũng chẳng hiểu tại sao các các cụ nhà mình lại gọi nhau là “phe”. Không hiểu có phải gọi phe phái để phân biệt đẳng cấp không? Phe Thanh Trì giầu có hơn, còn phe Thanh Lãng nghèo hèn hơn. Khi lớn lên Kiên đã được nghe ông già bà cả truyền khẩu nhau: Thanh Lãng trống thủng chuông rè. Cả họ toét mắt cả phe kèm nhèm. Nhang án ba chân gỗ, một chân tre…

Bây giờ xã Phú Cường cũng có hai thôn, Thôn Phú Thịnh, thôn Chiểu Dương…

Làng Phú Thịnh nằm trong con đê. Con đê được đắp lên để ngăn nước sông Hồng. Đầu làng cuối làng có điếm canh nước. Nói về con đê Kiên đã được học sử, Kiên biết hệ thống đê điều ở nước ta được vua Trần Thái Tông quan tâm từ năm 1248: “Để bảo vệ tài sản cũng như ruộng đồng Trần Thái Tông đã ban lệnh đắp đê phòng lụt từ đầu nguồn đến tận bờ biển gọi là đê Đỉnh Nhĩ (quai vạc). Đặt quan Hà đê chánh sứ, phó sứ trông coi việc đê điều..”.

Làng Kiên được bao bọc bởi lũy tre, có cổng làng cũng làm bằng tre, chống lên hạ xuống khi cần thiết. Có điếm canh gác cổng làng, cũng là nơi trú chân cho các bác thợ cày, các bà các cô đi cấy nhưng còn quá sớm cổng làng chưa mở.

Cánh đồng làng Kiên rộng thẳng cánh cò bay, cứ mỗi khi gặt hái xong, những thửa ruộng gần lũy tre làng, được dân làng đem gà ra thả để chúng nhặt thóc rơi, còn tụi trẻ thả trâu bò cho chúng gặm cỏ, chia hai phe dùng đất ném nhau hò hét ầm ĩ, hoặc đánh khăng, đánh chắt. Những anh con nhà giầu chơi thả diều sáo kêu vu vu vang vọng cả khoảng trời thật thích thú hoặc cưỡi ngựa phi theo bờ làng trông thật oách.

Theo chân những con trâu con bò đang thanh thản gặm cỏ là những chú cò trắng nghiêng nghiêng ngó ngó bắt ruồi muỗi, xa xa khoảng giữa cánh đồng là những đàn Sếu hàng trăm con vừa xà xuống nhặt thóc rơi vừa kêu “ta… ac, ta..ac” thật vui tai.

Kiên được nghe các lão nông trong làng gọi tên các khu vực đồng làng với cái tên hay hay, ngồ ngộ: Gò Sương Rồng, Gò Mưa Bui, Quán Đổ, Quán Mới, Chằm Cố. Ở Chằm Cố có một khuôn viên có nhà cửa kiến trúc theo kiểu Tây bằng gạch, có trồng tre bao quanh, dân làng kể đây là nhà cửa của các vị cố đạo đến ở để tuyên truyền thành lập làng đạo giáo ở vùng này.

Giữa cánh đồng làng nổi lên một xóm trại khoảng có 30 nóc nhà, các cụ kể dân ở xóm trại là những người dũng cảm đã nhiều lần đánh tan tác bọn cướp bằng những chùm lưỡi câu quăng ra, có những cái tên nổi danh như ông Ba Lư, Ông ba Hảo, Bà Ký Phục…

Sau ngôi đình Đương là khu rừng Cấm mà dân làng gọi là Gò Đống, có những cây Nhội to, dây dợ chằng chịt. Người ta nói Gò Đống là nơi đất tốt, đã có gia đình giầu có đêm đêm ra đào huyệt chôn trộm mồ mả nhà mình để hy vọng phát lộc phát tài. Ngoài Đình Đương, còn có Đình Bắc, Đình Đoài, Đình Thượng, Văn Chỉ… Cột đình nào cũng hai đứa trẻ ôm mới xuể.

Ngôi chùa làng nằm nép vào chân đê, trông thật bề thế. Có thờ Ông Ác Ông Thiện với đôi mắt sáng quắc, có thờ Phật nhịn ăn để mặc, người gầy nhom, thờ Phật nhịn mặc để ăn béo mẫm.

Cổng làng có cây gạo mọc nghiêng gốc to xù xì 4 đứa trẻ ôm mới xuể, hằng năm đều ra hoa kết qủa, hoa gạo đỏ rụng đầy dưới gốc cây, những hoa kết quả treo lủng lẳng trên cành, quả già nứt toác những lọn bông gạo trắng phau bay lả tả theo chiều gió vể phương trời xa thật bắt mắt…

Những tối mùa hè thanh thiếu niên trong xóm gần cổng làng thường ra cổng làng để tụ tập hóng mát tán tỉnh, nói chuyện và hú gọi ma trơi đang lập lòe dưới khu Chầm Cố…

Phú Cường là xã có truyền thống cách mạng, được Nhà nước phong tặng “Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp”. Ở đoạn sông làng có nhiều cán bộ, du kích đã hy sinh khi vượt sông về hoạt động.

Cả 2 thôn Thanh Chiểu và Phú Thịnh đều được công nhận là Làng văn hóa. Một nét đẹp văn hóa mà người dân nơi đây duy trì nhiều năm là truyền thống ăn Tết Độc lập, mừng ngày Quốc khánh 2-9. Các thế hệ người dân xã Phú Cường đang lao động, sản xuất tại địa phương cũng như con em đi công tác xa đều tự hào về quê hương mình vì duy trì được ngày Tết Độc lập rất có ý nghĩa, thể hiện tinh thần dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước.

Ở xã Phú Cường còn có một nét văn hóa độc đáo nữa là truyền thống ăn tết ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10-3 âm lịch, trong khi các nơi khác lại ăn tết vào ngày 3-3 âm lịch (Tết Hàn Thực)…

Trong ngày Tết Độc lập, người dân xã Phú Cường thường nấu bánh chưng, bởi nếu không có bánh chưng thì không phải là Tết. Nếu như trong ngày Tết Nguyên đán, bà con thường gói bánh chưng bằng lá dong, thì trong ngày Tết Độc lập, bánh được gói bằng lá chuối.

Những đòn bánh chưng hình tròn mịn màng, thơm dẻo cùng với các món chế biến từ thịt lợn được bày ra đĩa để thắp hương tổ tiên. Sau đó, các thành viên trong gia đình cùng nâng cốc chúc sức khỏe và mừng ngày Quốc khánh.

Mỗi người con xã Phú Cường đi công tác xa đều ghi dấu kỷ niệm về ngày Tết Độc lập, nét đẹp văn hóa của quê hương - nơi có cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay và những vườn táo trải dài ven sông Hồng.

Kiên là đứa con trai nhà nghèo, thuộc diện con một nên được chiều chuộng hết mức. Bố Kiên làm thợ sơn, suốt năm tháng vắng nhà, chỉ về nhà những ngày giỗ tết rồi lại đi biền biệt, bố Kiên có người em gái tên là Y. Nguyễn Thị Y… nhưng rồi đi đâu làm gì cũng chẳng ai biết, người thì bảo cô đi Sài Gòng, người thì bảo đi Xiêm, Kiên chỉ được nghe nói có 2, 3 lần bà gửi tiền về cho gia đình rồi không thấy nữa, người ta đồn bà đã chết mất xác ở đâu đó.…

Mẹ Kiên cũng chỉ ở nhà khi làng bắt đầu vào mùa vụ cày cấy, gặt hái, đập đất làm màu, khi xong lại đi làm thuê ở xa xứ hoặc làm vú em nuôi con người ta. Đôi khi cũng làm hàng xáo một thời gian năm bữa nửa tháng. Kiên có hai chị gái, nhưng khi Kiên lên chín lên mười thì hai chị đều đi lấy chồng. Dân làng kể hai chị hoàn toàn khác tính khác nết nhau, chị cả thì hiền lành, chị hai thuộc loại đáo để.

Nghe mẹ Kiên nói bà sinh nở nhiều lần nhưng đều bị chết yểu. Kiên cũng có người em gái đặt tên Lũng, khi lên 4 tuổi em cũng ra đi. Lúc đó Kiên đã lên 8 tuổi, khi em chết Kiên đã gào lên và khóc tức tưởi bắt mẹ phải đẻ em cho Kiên. Sau này Mẹ nói vậy!…

Ông bà nội chết sớm. Mẹ Kiên thường đón bà ngoại về chăm sóc cơm nước cho Kiên. Trong một lần Kiên ngủ với bà, Kiên đã bị một cơn ác mộng: trước mặt Kiên là một con người khô đét những cái xương khô khốc ghép lại với nhau, đến đứng cạnh giường Kiên, nhìn Kiên với đôi mắt sâu hoắm, nhe những cái răng dài đen và cười “hềnh hệch” với Kiên, rồi dùng hai bàn tay xương xẩu xoa xoa vào mặt Kiên, Kiên đã thét lên…

Cũng từ hôm ấy ngủ với bà Kiên rất thính, bà dậy là Kiên cũng dậy theo, bà đi đâu Kiên đi đấy, sau đó Kiên đã mắc tiếng oan, bà đã nói với mẹ Kiên: “Thằng con chị nó ghê gớm lắm nó sợ tôi lấy cắp của nả của nhà chị nên tôi đi một bước nó theo một bước”… Mẹ chỉ cười vì Kiên đã kể cho mẹ về cơn ác mộng rồi.

Mẹ Kiên nói Bố Kiên cũng thuộc “typ” đàn ông đào hoa lắm đi làm thợ đã có vợ theo về, nhưng cũng chỉ ở nhà được mấy tháng rồi cũng bỏ đi vì nhà nghèo ăn đói. Mẹ Kiên nói bà ấy gọi mẹ là chị, hai người đã hợp sức trồng được năm cây cau trước nhà.

Bố Kiên cũng vào loại có học ít nhiều, biết xem sách chữ nho và chữ quốc ngữ, sách Tử vi Tướng số. Bố đã dạy Kiên những câu châm ngôn: “Công cha như núi Thái sơn, công mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, Giữ tròn chữ hiếu mới là con ngoan”. “Muốn sang thì bắc cầu Kiều, Muốn cho hay chữ phải yêu mến thầy”. “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. “Ăn vóc học hay”, “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”, “Lành cho sạch rách cho thơm”… từng câu chữ trong châm ngôn đều được bố Kiên giảng giải kỹ lưỡng.

Khi dạy chữ những buổi sơ khai bố Kiên đọc những câu ca rất vần để cho Kiên dễ nhớ: Để nhớ các chữ i, t; o,ô; o. a bố Kiên dạy: “i, t có móc cả hai- i ngắn có chấm (.) - t dài có ngang (-).” “O tròn như quả trứng gà - Ô thì đội mũ (^) - Ơ là thêm râu (’). “o, a hai chữ giống nhau - Chữ a khác bởi móc câu bên mình”…

Bố đã dạy Kiên về nhận biết các loại dấu “Huyền ngang (-) sắc dọc (/), Hỏi còm (?), Nặng tròn chấm dưới (.), Ngã cong đôi đầu (). Khi tập viết bố Kiên đã mua vở về viết chữ bút chì cho Kiên tô.

Khi Kiên đi học đã hỏi bố, những con số “không” nằm giữa những con số khác gọi là gì, bố Kiên đã trả lời không cần suy nghĩ bảo đọc là “linh” rồi bố Kiên ví dụ cho Kiên hiểu, nếu thấy con số “một- Không- Hai” (102) thì đọc là một trăm linh hai. Kiên lại hỏi thế là con số “Một-Không-Không-Hai” (1002) thì đọc thế nào… Bố Kiên lại trả lời, đọc là một ngàn linh trăm linh chục hai đơn vị, bố còn nói thêm cứ đọc con số không là linh, Kiên lại hỏi, thế những con số “không” (0) đứng trước thế nào? Bố cười: Thì con cứ vứt nó đi…

Bố Kiên cũng có một giá sách truyện, Kiên biết chuyện Trạng Lợn, Trạng Quỳnh, Bợm lại mắc Bợm, Tấm Cám, Phạm Công- Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa, Truyện Kiều... từ cái giá sách của bố. Và có lẽ cũng vì thế lớn lên Kiên thích xem báo xem chuyện và thích viết là vậy. Bố Kiên cũng là một Đảng Viên Đảng Lao động Việt Nam.

Bên cạnh nhà Kiên là một nhà giầu, có nhà khách, có nhà thờ, có nhà ngang cửa khém cho người ở ra vào, có hai người con trai đều biết tiếng Pháp, đều theo nghề dạy học. Nhà to sân gạch rộng, chiều chiều tụi trẻ con hàng xóm được tự do chạy nhảy hò hét đánh trận giả trong cái sân rộng mệnh mông ấy. Kiên có hai cái sẹo ở má, ở cằm là chứng tích những cuộc rượt đuổi nhau ở cái sân này.

Tám tuổi Kiên được mẹ cho đi học. Bạn học Kiên thời đó là Thành, là Vu, là Thụ… cứ mùa hè là chúng kéo nhau đi vào các khu vườn người ta để xục xạo tổ chim. Sau này Thành đi bộ đội, lon trung tá thì về hưu, Vu làm công nhân xây dựng khu công nghiệp Việt Trì, Thụ là con nhà giầu nên về Hà Nội học, sau trở thành kỹ sư Hóa chất làm việc ở nhà máy Cao Su Sao Vàng… Kiên tuy mọi người cho là nhanh nhẹn, nhưng vào loại lười, ham chơi hơn ham học, đến lớp nhiều khi bài không thuộc, chỉ mong sao thầy giáo không hỏi bài là mừng. Nhưng là học sinh làm sao mà tránh được chuyện thầy không hỏi bài… Một lần thầy gọi hỏi bản cửu chương: 3 lần 7 bao nhiêu? Kiên trả lời một cách thông thạo: Thưa thầy 21 ạ. Thầy hỏi tiếp với giọng có nhấn mạnh đôi chút xem trò có nhanh trí hay không: Thế 7 lần 3… Kiên trả lời một cách rứt khoát tỉnh bơ, ráo hoảnh: Thưa thầy bản cửu chương bẩy thầy chưa bảo học, cả lớp đã cười ồ về câu trả lời ngô nghê của Kiên.

Một lần khác thày gọi lên bảng đọc bài. Kiên đã nói dối thầy một cách cũng ráo hoảnh: Hôm ấy con nghỉ ạ! Thầy ngạc nhiên vì xem sổ điểm danh Kiên không vắng. Thầy giáo bảo Kiên đem vở cho thầy xem… Vở của Kiên được mẹ đóng cho loại giấy mỏng tang nên thầy phải dở đi dở lại ba bốn lần mới thấy. Kiên đã mừng hụt… Thầy đã tìm được bài chép, bảo Kiên nắm tay lại để lên bàn, thầy dùng thước kẻ quất cho 3 cái, quất cái nào thầy đều nói “nói dối này”. “nói dối này” Khi nghỉ ra chơi, Kiên tỉnh bơ nói với bạn bè: Nếu tao xé rồi đố thầy tìm thấy… Khi lên lớp 3 Kiên cũng bị phạt quỳ một lần vì tính hài hước… Ấy là khi cô giáo viết bài trên bảng, trong bài có chữ “mèo”, nhưng dưới chữ “mèo” ở vị trí chữ “e” lại có cái mũ đinh đọng đầy bụi phấn trông như cái dấu nặng, mặc dù cô đã đánh dấu huyền. Thằng bạn ngồi cạnh cũng có tính hài hước như Kiên hỏi: chữ gì mày? Kiên trả lời không cần suy nghĩ: con “mẹo” mày! Cô giáo ngừng tay, quay xuống hỏi Kiên đọc lại cô nghe… Kiên vẫn lớn tiếng: mờ eo meo nặng mẹo ạ!... Mặt cô đỏ bừng, cô giáo bảo Kiên đọc lại lần nữa, vì bướng bỉnh Kiên vẫn đọc như vậy… Kiên bị cô giáo gọi lên cạnh bảng phạt quỳ…

Năm 1948, giặc Pháp nhẩy dù xuống làng Kiên nơi giáp danh hai thôn, thôn Phú Thịnh và thôn Chiều Dương, ban đầu cả làng có chạy tản cư sang vùng tự do ít bữa, nhưng vì cuộc sống nơi tản cư khó khăn quá lại bàu đoàn thê tử kéo nhau về.

Chúng nhẩy dù và xây bốt trên triền đê khoảng đất trống nằm giữa hai thôn. Về phía sông là bãi dâu của người dân trồng dâu nuôi tằm, chúng bắt phá đi và làm sân bay loại nhỏ cho máy bay bà già từ Gia Lâm lên hạ cánh. Dân trong vùng gọi là bốt Chiểu Dương… Kiên cũng chẳng hiểu tại sao lại không gọi bốt Phú Cường? Vì bố là Đảng Viên nên được giao nhiệm vụ có trách nhiệm giúp đỡ nuôi dấu cán bộ hoạt động nằm vùng. Cũng từ khi có bốt giặc, từ đầu làng đến cuối làng, đã hình thành con đường đi của cán bộ, du kích, dân làng gọi là đường giao thông cù. Một khi có động là cán bộ có thể rút theo con đường đó từ cuối làng về đầu làng và ngược lại.

Nhà Kiên phải đào thêm một cái hầm bí mật nữa để nuôi dấu cán bộ. Nói đào thêm vì ngoài vườn đầu nhà đã có một cái hầm công khai dùng trú ẩn máy bay và tránh mũi tên hòn đạn lạc rồi. Hầm bí mật lần này được đào trong nhà, dưới nền chuồng nuôi bò, có làm nắp cẩn thận rất tinh vi, người ngoài nhìn khó mà biết có hầm… Những đêm đào hầm Kiên cũng được thức để xem cho đến lúc buồn ngủ thì thôi, bố mẹ chỉ nhắc là không được nói chuyện với ai.

Trước đó để hàng xóm không biết nhà Kiên đào hầm bí mật nuôi dấu cán bộ nằm vùng hoạt động, bố mẹ Kiên đã thuê thợ đến đào ao ngay trong vườn nhà nói là để thả bèo nuôi lợn và nuôi cá. Cứ đêm đến bố mẹ Kiên mới tiến hành đào, đất cho vào giành và từng giành được bê đi đổ xuống ao… Khi hầm bí mật được đào xong là có cán bộ đến ở ngay. Người đầu tiên đến ở là anh cán bộ trẻ có tên là Chí, anh Chí trắng trẻo sinh trai, hàng ngày anh thường giúp bố vót đũa vót nan đan giành sọt để mẹ đem đi chợ bán lấy tiền. Sau đó là một người già hơn, giới thiệu tên là Thân, tối tối thường ngồi viết cái gì đó, được bố Kiên coi là người em đặt tên là Bát, vì ốm đau được ông anh là Bố đem về chăm sóc thuốc thang. Bố cũng dặn dò với Kiên là không được nói với ai. Khi có động là cán bộ phải nhanh chân rút xuống hầm. Bố hoặc mẹ phải vào ngụy trang nắp hầm.

Cũng thời gian này bố mẹ Kiên được cán bộ kháng chiến đến tuyên truyền bàn bạc cho Kiên được ra vùng tự do học, hồi đó Kiên đang theo học lớp 4 do thầy Nguyễn Ngọc Xước nhà giầu bên cạnh nhà Kiên giảng dạy. Thầy giáo Xước biết chuyện này đến nói với bố mẹ Kiên: Ông bà chỉ có mình cậu là con trai, tôi nghĩ ông bà nên để cậu ấy học trong này cũng được, ra ngoài ấy (ý nói ra vùng tự do) 2 cộng 2 là 4, trong này cũng 2 cộng 2 là 4 cho đi như kiểu con tin, xa nhớ…

Cán bộ kháng chiến biết có lời khuyên này nên đã đến hối thúc bố mẹ Kiên không nên thay đổi ý kiến. Kiên và số bạn bè đã được sắp xếp ra vùng tự do bằng thuyền, đi vào lúc 11 giờ một đêm trời không trăng sao… Thuyền đi một cách lặng lẽ, không có Thành đi cùng… Mái chèo buông xuống nước rất nhẹ. Dòng sông lặng lờ êm trôi. Kiên biết Sông Hồng còn có các tên gọi khác nũa là Hồng Hà, là sông Cái. Đoạn chảy qua Phú Thọ gọi là Sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là Nhị Hà. Sông Hồng bắt nguồn từ vùng núi tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Sông Hồng chảy vào lãnh thổ Việt Nam qua thủ đô Hà Nội rồi đổ ra biển Đông Đồng bằng nằm ở hạ lưu. Phụ lưu chính của sông Hồng là sông Đà, sông Lô. Nước sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ - hồng do phù sa, đây cũng là nguồn gốc tên gọi của nó.

Phù sa sông Hồng giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ. Do lượng phù sa lớn mà lòng sông luôn bị lấp đầy khiến cho lũ lụt thường xuyên xảy ra, vì thế mà hai bên bờ sông người ta đã đắp lên những con đê để tránh lũ lụt ngăn nước tràn vào dồng ruộng làng mạc.

…....... CÒN TIẾP




VVM.22.6.2023

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .