N ơi ấy không phải quê nhà, nhưng hết cả một quãng dài đẹp nhất, tinh túy nhất của một đời ngưòi, tôi đã trải qua ở đấy: Tân Phú-Châu Thành –Bến Tre.
Là cư dân thành phố chính gốc, năm 1979 , tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm , mang theo nỗi háo hức được khám phá cuộc sống, được cống hiến và được tự khẳng định mình của một cán bộ đoàn, tôi tình nguyện về Bến Tre công tác. Và rồi số phận dung rủi tôi đã gắn cuộc đời mình ở đây đúng hai mươi bảy năm.
Nơi lần đầu tiên tôi bước lên bục giảng để được thỏa ước mơ làm cô giáo mà tôi hằng ấp ủ thuở thiếu thời là ngôi trường cấp 1, 2 Tân Phú B. Ngôi trường nằm ngó mặt ra con sông Hàm Luông quanh năm nước trong và ngọt. Ngôi trường với khoảng sân lầy lội mùa mưa và bụi mù mùa nắng. Ngôi trường cũ kỹ và ọp ẹp tưởng chừng như không thể cũ hơn được nữa. Ngôi trường nửa lợp tôn nửa lợp lá với vỏn vẹn sáu phòng học cho cả hai cấp.
Để tới trường, học sinh phải thức dậy từ lúc bốn năm giờ sáng, lội ruộng băng đồng hoặc bơi xuồng có khi đến năm bảy cây số. Cũng có nghĩa là để đi làm công tác chủ nhiệm, tôi cũng phải ngược lộ trình như vậy. Nhưng bấy giờ thật ra “cầu khỉ” mới chính là nỗi ám ảnh kinh hoàng của tôi. Không kể những ngày nước rong, đi dọc bờ sông từ Vàm Kinh Tổng Đường về trường, tôi phải dò dẫm từng bước, chỉ cần hụt chân một cái là có thể xuôi theo dòng nước sông Tiền ra biển như chơi.
Học trò tôi tội lắm, Buổi đi học, buổi đi cấy đi cày. Ngày đến trường, đêm giăng câu thả lưới. Việc đồng áng , hạ bạc xem ra nhẹ nhàng đơn giản. Còn chữ nghĩa văn chương mới thật trầy trật, nhiêu khê. Nhưng ở đó, thầy trò chúng tôi đã có những ngày cùng nhau học tập, cùng nhau vui chơi thật tràn trề hạnh phúc. Tôi dạy cho các em những kiến thức có trong sách vở và học lại các em những hiểu biết về cuộc sống đời thường: làm sao để phân biệt cây cam cây quýt , cây chuối già cây chuối xiêm, con cóc con ếch. Thế nào là lúa cấy lúa sạ. Con ngỗng nuôi để giữ nhà. Lá quao lót dưới ổ gà thì không có mạt…
Hoành tráng nhất vẫn là những đêm diễn văn nghệ gây quỹ phát thưởng cuối năm. Với chút lưng vốn văn nghệ của mình, tôi vừa làm đạo diễn, vừa làm “ nhà tổ chức” kiêm MC , có khi làm luôn ca sĩ. Bàn học được kê làm sân khấu, phông màn đã có mấy tấm ri-đô của nhà tập thể. Diễn viên quấn xà- rông bằng khăn trải bàn, hóa trang bằng phấn may, lọ nồi và thạch cao. Vậy đó mà khán giả chật cứng cả sân trường, chen lấn sau cánh gà, có khi tràn lên cả sân khấu khiến MC phải cho ngưng chương trình để vãn hồi trật tự. Cảm động nhất vẫn là sự đóng góp rất nhiệt tình của bà con , có người gom cả từng đồng bạc lẻ, như bà Hai đưa đò (đã mất cách nay hơn mười năm ) dốc hết tiền đưa khách để ủng hộ cho nhà trường, mặc dù vào thời điểm đó họ rất nghèo. Thới ấy là cái thời cả ấp không có lấy một cái truyền hình, cả xã không có một sạp báo. Không có cả một chỗ hẹn hò cho đôi lứa yêu nhau. Không có nơi nhộn nhịp để bày tỏ niềm vui. Không có chỗ lang thang để gặm nhấm nỗi buồn.
Trường bé, lớp ít, giáo viên không nhiều, nên tập thể chúng tôi giống như một gia đình nhỏ, sống thân thiện yêu thương, nhường nhịn lẫn nhau, đoàn kết chung tay xây dựng mái trường. Sau này, tôi luôn xem ngôi trường ấy, những con người ấy chính là điểm tựa, là bệ phóng cho một cô gái trẻ sống xa nhà bơ vơ côi cút như tôi có thêm niềm tin về con người và nghị lực trong cuộc sống để bước tiếp trên con đường đời chông chênh còn lại: Đó là lấy chồng. Con đường mà trước khi chọn nó ở cái tuổi hăm ba tôi chưa đủ trải nghiệm để biết cái gì đang đợi mình phía trước.
Để tiếp tục được sống với ước mơ hoài bão của đời mình, tôi đã phải hết sức nỗ lực trước mọi định kiến, mọi khoảng cách về lối sống về suy nghĩ của mười mấy con người trong cái gia đình ấy , kể cả người bạn đời của tôi. Mỗi tháng ngồi trước bốn mươi bảy đồng năm mươi xu tiền lương và mớ nhu yếu phẩm được phân phối, tôi phải tính toán chi tiêu cách nào để vừa nuôi con vừa nuôi dưỡng ước mơ cho mình. Lại phải vừa phải “ gói ghém “ để mỗi năm có thể về thăm nhà một lần. Mà mỗi bận lại phải thức dậy từ ba giờ sáng xuôi con đò dọc xuống thị xã, xếp hàng rồng rắn ở bến xe để mua một cái vé về đến Sài gòn lúc bốn giờ chiều.. .
Bây giờ,vẫn ngó mặt ra con sông Hàm Luông quanh năm đầy nắng gió, nhưng tựa lưng nhau là hai ngôi trường cấp một và cấp hai khang trang đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia. Không còn cảnh học sinh đến trường quần áo lấm lem bùn sình , dép xỏ xâu quảy trên vai bởi hầu hết các con đường liên ấp đã được tráng nhựa hoặc trải đá, cầu khỉ được thay bẳng cầu bê tông. Những cánh đồng lúa bát ngát giờ biến thành vướn cây ăn trái sum sê. Điện lưới quốc gia kéo về níu khoảng cách thành thị nông thôn gần lại. Có đường tráng nhựa đồng nghĩa với có xe: xe đạp, xe máy, xe ô tô. Có điện đồng nghĩa với có truyền hình màu, có karaoke, có internet… Muốn giao dịch mua bán nông sản người ta chỉ cẩn bấm di động a lô một tiếng là xong.
Vậy mà tôi lại phải ra đi… Mọi thứ ràng buộc do con người ta tùy tiện nghĩ ra vây lấy cuộc đời tôi như một thứ dây leo cứ gỡ mãi không đến mắc cuối cùng, làm tôi cảm thấy đuối sức, tuyệt vọng và cô đơn. Một giọt tràn ly thật nhẹ nhàng, trống trếnh đã kết thúc mọi sự chịu đựng, gắng sức trong tôi. Các con đã lớn, đã thành đạt, căn nhà bỗng trở thành chỗ trọ cho chúng nó mỗi năm vài bận đi về. Những ngày dài côi cút bơ vơ ngay trong ngôi nhà của chính mình là nỗi ám ảnh cứ quấn lấy tôi. Vậy là tôi đành đoạn ra đi…
Ở vào ngưởng cửa mùa thu của cuộc đời mình, tôi giống như một kẻ tha hương mang nặng nỗi niềm xa xứ. Đã có những đêm thật dài thật sâu , tôi lặng lẽ một mình sống trong nỗi nhớ. Hai mươi bảy năm , thời gian đủ để mảnh đất ấy, những con người ấy trở thành máu thịt của tôi rồi. Nhớ về nơi ấy tôi bùi ngùi thương một thời son trẻ đã qua. Nhưng cũng lại rất tự hào vì ở đó tôi đã sống, đã thực hiện được phần nào lý tưởng của đời mình, mặc dù để làm được những điều đó tôi đã phải vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, phải phấn đấu hết sức mình. Một nách hai con nhỏ, tôi cóp nóp đi thi và đạt danh hiệu giáo viên giỏi vòng huyện đầu tiên của trường. Phụ trách đội văn nghệ nhà trường đạt nhiều thành tích trong các buổi hội diễn của ngành. Là tổ trưởng tổ bộ môn, là bí tbư chi đoàn trường học. Sau này , tôi còn có nhiều năm nằm trong ban chấp hành chi hội phụ nữ, tổ trưởng tổ nhân dân tự quản, rồi đại biểu hội đồng nhân dân xã. Tôi tự hào về những đóng góp của mình và nhiều khi tự hỏi: “ Nơi ấy có phải quê nhà?”
Vừa rồi có dịp về thăm , ngang qua cầu Rạch Miễu đang hối hả hoàn tất những công đoạn cuối cùng chuẩn bị khánh thành, tôi thấy lòng nao nao nỗi buồn vui khó tả. Vui bởi vì từ nay nhịp cầu nối đôi bờ ấy sẽ hứa hẹn mở ra cho Bến Tre một trang sử mới đầy xán lạn , trong đó có Tân Phú của tôi. Nhưng vẫn không tránh khỏi bồi hồi, thương những chuyến phà rồi sẽ đi vào quá vãng. Tôi bỗng thấy mình giống như những chuyến phà kia. Trở về. Đêm nằm lại quay quắt nhớ. Nhớ đất nhớ người. Thèm nghe tiếng gà buổi sớm mai. Thương con chim nhạn kêu chiều muộn.
Mới hay, nơi ấy chính thật quê nhà!