Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      

tranh của họa sĩ Hồ Hữu Thủ







TIẾNG HÁT DƯỚI TRĂNG




T huở nhỏ, mỗi lần đoàn văn nghệ Xuân Thu đến trình diễn ở thị trấn bé nhỏ  này là lòng tôi cứ rạo rực, nôn nao. Tôi tìm cho mình một chỗ ngồi gần kề sân khấu để nhìn cho rõ khuôn mặt dễ thương của nữ ca sĩ Bích Sơn. Mắt mí lót, môi mỏng, khuôn mặt trái xoan. Và giọng nói “Bắc kỳ” đầy âm điệu, nhỏ nhẹ, duyên dáng khi chào khán giả: “Bích Sơn xin chào quí vị…”. Nàng khẽ cúi đầu và nở một nụ cười có núm đồng tiền duyên dáng. Sau đó nàng mới cầm micro, cất tiếng hát: “Hôm nay trời xuân bao tươi thắm. Dừng gót phiêu lưu về thăm nhà… Cô láng giềng ơi! Không biết cô còn nhớ tới tôi. Giây phút kia khi ta còn ngây thơ…” Tôi ngồi chồm hổm, hai tay ôm lấy đầu gối, mắt đăm đăm nhìn lên sân khấu. Tự nhiên tôi liên tưởng tới Hà, cô bạn láng giềng bé nhỏ xinh xinh, mới từ Bắc vào. Giọng nói lạ tai, khi trầm khi bổng, khi nhanh khi chậm. Có một cái gì đó giống nhau giữa Hà và Bích Sơn. Chừng nào Hà sẽ lớn lên, thành thiếu nữ như người ca sĩ kia. Chừng nào tiếng hát của Hà sẽ cao vút, bay xa, thu hút làm rung động lòng người. Vì bấy giờ chúng tôi chỉ là những đứa trẻ mười hai tuổi. Hình ảnh Bích Sơn tôi ngưỡng mộ là hình ảnh của Hà những ngày sắp tới. Còn hình ảnh của Hà bây giờ là hình ảnh của Bích Sơn những ngày đã qua.

Nam nghệ sĩ của đoàn Xuân Thu làm tôi say mê và ao ước sau này lớn lên tôi sẽ thành danh như ông: X.P. Ông hát đã hay mà diễn kịch càng hay hơn. Ông đóng vai hề, mỗi điệu bộ khôi hài của ông làm những đứa trẻ như chúng tôi đều ôm bụng cười lăn.

Sân khấu của đoàn rất dã chiến. Đó là sàn hai chiếc xe GMC 10 bánh quay đuôi lại nhau. Tới nơi nào trống vắng thì đậu lại và hai thành xe như hai cánh chim đại bàng xoè ra, đủ làm một sân khấu cơ động. Khán giả ngồi bệt xuống đất, giữa trời, xem thoải mái không tốn tiền.

Tôi ước mơ lớn lên cùng Hà lập một  đoàn kịch nói. Cả hai chúng tôi sẽ trở thành những diễn viên tài hoa như X.P, như Bích Sơn, đi diễn khắp miền đất nước. Nhưng khi đất nước bị cắt đôi, đoàn Xuân Thu đã bặt tăm, những ước mơ đó của chúng tôi cũng tan theo cùng năm tháng.

l

Mới đó, thắm thoát đã 26 năm, kể từ  ngày chia đôi đất nước. Mới đó, 5 năm sau ngày thống nhất đất nước 1975. Người còn ở lại quê  hương. Kẻ lưu lạc trên đất khách. Tôi bỏ  Sài Gòn trở về lại quê cũ, một thị  trấn nhỏ, rồi bỏ thị trấn nhỏ tìm đến một vùng quê hẻo lánh, xa lạ, sống ẩn dật, cuốc đất trồng nho. Lần lượt tôi nghe tin những người thân còn lại ở quê nhà vượt biển ra đi. Kẻ thoát, sống tập trung ở đảo. Kẻ chết vì hải tặc cướp bóc hãm hiếp rồi xô xuống biển làm mồi nuôi cá mập. Đời sống thật cay nghiệt. Chuyện mưu sinh làm khờ khạo cả người.

Sáng nay, trời mới trở lại quang đãng, sau một cơn bão rớt. Mưa lâm râm suốt mấy ngày đêm, bây giờ  mới thật sự dứt hẳn. Bao nhiêu hy vọng đều tiêu tan cùng tai ương. Tôi bước đều từng bước, nhè nhẹ trên lối đi, dưới giàn nho mới tàn tạ mà mắt thì nhìn về một khoảng trời xa. Những chùm nho dầy đặc chín đỏ, nặng trĩu trên giàn trước khi trời mưa, bây giờ, sau cơn bão rớt chỉ còn trơ cành. Những trái nho rơi rụng tơi tả, nằm đầy nghẹt khắp mặt đất, phơi xác đỏ tươi như xác pháo. Mọi thứ: gạo cơm, tiền học hành cho con cái… trăm thứ trông mong vào vụ thu hoạch nho, đều tan tành. Giữa lúc tôi đang lo toan về cơn hụt hẫng này thì Hoàng dẫn mấy người bạn từ Nha Trang vào Sài Gòn, ghé lại thăm tôi. Nhìn vẻ mặt tôi xơ xác. Nhìn giàn nho điêu tàn. Hoàng vỗ vai tôi nói khẽ:

- Thôi đi, ông bạn. Bỏ lại hết đàng sau. Bây giờ đi với bọn mình vào Sài Gòn.

Thấy tôi còn lưỡng lự, Hoàng rút trong túi một xấp tiền  đưa cho vợ tôi:

- Chị cầm lấy. Đừng ngại, xem như tôi trả nợ cũ, trước năm 75 vậy.

Không để vợ tôi bỡ ngỡ Hoàng quay sang tôi nói:

- Phải thế không ông bạn?

Tôi gật đầu cho vợ tôi yên tâm nhận. Tôi vội vã theo Hoàng ra đi.

Người thiếu nữ ngồi xích lại, nhường chỗ  cho tôi, sát cạnh cửa xe. Mắt tôi cứ dán vào kính, nhìn ra cảnh vật hai bên đường đi. Hoàng chăm chú cầm tay lái. Mọi người đều ngủ gật. Có tiếng hát rất khẽ, như tiếng ai thì thầm bên tai tôi. Tôi không dám cục cựa, ngồi cứng đơ, nhưng hồn lại nhập vào tiếng hát. Bước men ven hồ Hoàn Kiếm… Hà Nộ 49. Bỗng nhiên tôi đưa tay rờ nhẹ lên má mình. Cái bạt tai nẩy lửa nhớ đời ngày còn thơ ấu do bọn mật vụ thời Diệm để lại sau khi chúng lục xét chồng sách vở học trò của tôi, vô tình rơi ra tấm ảnh chụp Hồ Hoàn Kiếm mà Hà mới tặng tôi, phía sau tôi viết nghệch ngoặc: Hà Nội ơi, biết bao giờ ta mới đến. Họ xé nát tấm hình đó sau khi đe dọa tôi: “Bộ mày muốn làm Cộng Sản, như thằng anh mày đã tập kết ra Bắc hả.” Lúc ấy tôi không hiểu gì hết, chỉ ấm ức trong lòng là vật kỷ niệm nhỏ nhoi của Hà mà tôi giữ không trọn. Suốt cả tuần sau đó, Hà an ủi tôi bằng cách kể cho tôi nghe về quê hương nàng: Hà Nội. Nào Hồ Gươm. Hồ Tây. Chùa Một Cột. Rồi, Hà hát bài Hà Nội 49. Hai đứa hẹn nhau, lớn lên, khi đất nước thống nhất, sẽ sánh đôi đi dạo quanh hồ Hoàn Kiếm.

Người thiếu nữ ngả đầu dựa vào thành ghế, mắt lim dim, nhưng đôi môi vẫn mấp máy; và tiếng hát nhỏ nhẹ rót vào tai tôi: “Chàng về. Chàng về nay đã cụt chân…” Tôi chạm tay vào đầu gối mình xem thử đôi chân mình có còn không. Và tôi mỉm cười một mình. Nhớ lại, trong một hoạt cảnh “Nhớ người thương binh”, tôi giả làm người cụt chân, chống cây nạng đi khập khểnh quanh sân khấu. Hà đứng sau cánh gà, cất tiếng hát: “Chàng về. Chàng về nay đã cụt chân…” . Có lẽ nhìn vẻ mặt tôi thiểu não, giọng hát Hà bỗng nghẹn ngào rồi tắt hẳn. Lúc hạ màn, Hà buồn bã nói không bao giờ có lần thứ hai phải nhìn tôi lê bàn chân còn lại và nghe tiếng nạng gõ từng tiếng một. “Thảm quá Tân ạ, dù là bọn mình chỉ đóng kịch. Hà sẽ không hát bài ấy nữa đâu?”. Từ đó, tôi chuyển qua vai hề. Và, tôi đã đem tiếng cười nắc nẻ cho Hà cùng đám khán giả trẻ con. Đoàn kịch “con nít” của chúng tôi tan rã sau khi chúng tôi lên trung học. Vào trường trung học Duy Tân chúng tôi lại được kết nạp vào ban văn nghệ. Mỗi lần Tết đến, nhà trường đều tổ chức trình diễn văn nghệ tại một rạp hát lớn của thị xã. Tôi vẫn là cột trụ của những vở hài kịch do các thầy dựng lên, và tôi phải diễn dưới sự đạo diễn của thầy. Tôi không thích thú bằng tự biên tự diễn của chúng tôi ngày nào. Hà là giọng ca vàng của nhà trường, được thầy dạy nhạc hướng dẫn hát cho đúng nhịp, đúng giọng; và bài hát phải thích hợp với tuổi học trò. Khán giả vỗ tay tán thưởng khi tiếng hát Hà vừa dứt. Còn tôi thì không xúc động chút nào. Tôi lén chép mấy bản nhạc: Giọt mưa thu, Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong vào trang giấy học trò đưa cho Hà mà không nói một lời nào. Nhưng tôi biết Hà sẽ nghe Thái Thanh hát những bài ấy trong chương trình “Tiếng hát Dạ hương”, và nàng sẽ hát theo. Sau đó, một buổi chiều vàng, cô bé 15 tuổi ngồi trên bờ thành hành lang hát khẽ: “Đêm nay thu sang cùng heo may”. Trước mặt cô là thằng con trai tuổi 16, hai tay khoanh lại, dựa lưng vào vách tường, đứng chéo chân, say sưa lắng nghe. Tiếng hát của Hà, từng giọt âm thanh êm ái rót vào tâm hồn chàng như ru chàng vào một nơi chỉ có trời mây lãng đãng. Trong giây phút đó, tôi mới cảm thấy tiếng hát của Hà sao mà ấm áp, réo rắt, làm tâm hồn tôi xao xuyến đến kỳ lạ.

2

Trong buổi ăn trưa ở một quán nhỏ bên  đường, Hoàng mới giới thiệu tôi với mọi người đi cùng xe. Người thiếu nữ đang ngồi trước mặt tôi, chính là con gái của X.P. Tôi có dịp nhìn kỹ nàng hơn. Khuôn mặt hình trái xoan. Mũi hơi dài và cao. Đôi mắt màu hạt dẻ. Hàng lông mi rậm và cong. Miệng hơi rộng. Khi cười, người thiếu nữ ấy vẫn điểm một núm đồng tiền duyên dáng. Tôi hỏi thăm về cha nàng, sau bao nhiêu năm. Nàng cho biết cha nàng vẫn còn sống, hiện ở Mỹ. Rồi thôi. Nàng còn nhắc lại vài kỷ niệm, ngày còn nhỏ xíu, được nữ ca sĩ Bích Sơn hát ru, dỗ dành, âu yếm. Người thiếu nữ nhìn vào khoảng không gian xa vời vời, buột miệng:

- Cô  ấy cũng không còn ở Việt Nam.

Trong lòng tôi như thốt  lời thì thầm:

- Hà  cũng không còn ở Việt Nam

      Tôi nghe người thiếu nữ nói khẽ, như chỉ  đủ cho chính mình, cùng nỗi luyến tiếc:

- Khi nào thống nhất đất nước, cô sẽ đưa cháu về Bắc thăm quê hưong, cùng nhau đi lễ chùa Hương. Thế mà…

Lên xe, mọi người lại ngủ gật, nàng vẫn hát thì  thầm, và tôi vẫn là người ngồi bên cạnh im lặng lắng nghe: “Hôm nay em chùa Hương…”

Năm cuối cùng của bậc trung học đệ nhất cấp, nhà trường tổ chức đêm diễn văn nghệ chia tay. Hà mặc áo dài lụa trắng, đầu đội nón quai thao, chân mang hài vải, vừa múa vừa hát bài “Đi chùa Hương” thơ của Nguyễn Nhược Pháp do Trần Văn Khê phổ nhạc. Tôi đóng vai chàng thư sinh, mặc áo the thâm, theo sau cô bé tuổi mười lăm.

Sau đó, tôi cũng từ giã mái trường cũ và  ra Huế học tiếp. Giã từ Hà. Giã từ  sân khấu. Bạn bè ở Huế, không ai biết tôi  đã từng đóng kịch. Từ từ, thay vì gởi những bản nhạc chép tay trên giấy vở học trò: “Trăng mờ bên suối, Anh đến thăm em một chiều mưa, Suối tóc,” tôi lại gởi về cho Hà những đoản văn mà mình vừa tập tễnh sáng tác. Tôi không thể diễn kịch, thổ lộ tình cảm mình qua tiếng nói, qua điệu bộ cho Hà xem vì khoảng cách không gian, nên tôi trải hồn mình qua văn chương. Những lá thư hồi âm bao giờ Hà cũng động viên tôi trong “cuộc chơi” mới đó. 

Xe bắt đầu vào thành phố. Người thiếu nữ ngừng hát. Mọi người khác cũng vừa thức giấc. Hoàng lái xe chậm lại như cố ý để cho tôi nhìn ngắm lại những đổi thay của cuộc đời bể dâu. Hai bên đường, những dãy phố đã khép cửa kín bưng, những bảng hiệu buôn ngày trước năm 75 đã hạ xuống. Thỉnh thoảng, xen kẽ vài căn nhà, cửa mở thật rộng, người người xếp hàng nối đuôi, tay cầm cuốn sổ mua hàng phân phối. Vài cửa hàng may đo lưa thưa người. Hợp tác xã mua bán, hàng hóa không có bao nhiêu, mà lại đầy nghẹt người ra vào. Còn đường lộ, chỉ thỉnh thoảng vài chiếc xe du lịch mang biển cơ quan chạy nghênh ngang giữa đường. Xe đạp lấn át, hàng hai hàng ba, thanh niên mặc áo kaki xanh công nhân, chân mang dép nhựa, nữ mặc quần đen áo bà ba trắng. Giờ tan tầm của các cơ quan, xí nghiệp.

Qua ngã tư, Hoàng lái xe chậm lại để nhường đường cho một chiếc xe đò từ tỉnh vào. Khói nhả  lên khoảng không gian mịt mù. Phía sau đuôi xe mang nặng một khối trụ bằng gang như hỏa tiễn. Người lơ xe, mặt lem luốc lọ nghẹ, tay cầm chiếc que sắt dài thọc vào cái lỗ nhỏ phía dưới khối trụ để thông lửa. Vài viên than đá rực sáng rơi rớt trên mặt đường lộ. Hành khách trên xe chật cứng. Thiếu xăng dầu, xe đò đành độ lại chạy bằng than đá. Thời buổi này mà chúng tôi được ngồi trên chiếc xe Toyota, mặc dầu đã cũ của cơ quan xây dựng của Hoàng, là may mắn lắm rồi. Hoàng dừng xe lại trước một khách sạn trên đường Lê Lai, bỏ chúng tôi đứng lơ ngơ trước restaurant ngỗn ngang người ăn kẻ uống, còn anh lái xe tìm chỗ đậu an toàn. Trước cửa khách sạn treo lủng lẳng tấm bảng đen viết phấn trắng: Một đĩa mồi kèm hai chai bia hơi. Chúng tôi xách hành lý đi ngang qua các dãy bàn ăn để tới quầy đăng ký thuê phòng trọ. Hoàng lấy chìa khóa và không quên cho hắn tiền boa. Thoát được cảnh ồn ào phức tạp, chúng tôi mới thả người lên mấy chiếc giường nệm phủ ra trắng. Người thiếu nữ và cô gái trẻ ở một phòng nhỏ, chỉ kê đủ một chiếc giường. Bọn đàn ông, bốn tên ở phòng bên cạnh, rộng gấp đôi và kê đủ hai giường lớn. Cả hai phòng đều có cửa sau, thông ra một hành lang nhỏ, đủ để bắc ghế ngồi nhìn trời mây bâng quơ và hưởng một chút không khí trong lành. Sau buổi ăn trưa rồi ngủ một giấc ngắn, tôi ra hành lang hóng mát. Đứng trên cao nhìn chung quanh là những mái nhà tôn của những khu nhà trong hẻm, và dưới kia, ngoằn ngoèo những con đường hẹp, chằng chịt, chỉ đủ cho hai người đi ngược chiều gần đụng vai nhau, lạ mặt cũng làm quen bằng một nụ cười. Người thiếu nữ cũng bước ra, đứng dựa lưng vào vách tường, cất tiếng hát. Lần này không hát thì thầm, mà nàng hát lớn làm mọi người đều ra khỏi phòng mang theo những chiếc ghế nhỏ để ngồi quanh nàng. “Nhà em bên chiếc cầu soi bóng, anh đến thăm một lần…” Tôi vẫn nhìn về phía trước, dừng mắt lại ở một căn gác gỗ, mái nhà tôn thấp áp mái chắn ngang cửa ra vào, và bên trong khung cửa sổ, dưới sàn gỗ kia một người đàn bà đang nằm dài, ôm chiếc gối ngủ giấc trưa. Cái nắng chói chang của Sài Gòn trong những ngày đầu hạ thật oi bức, nhất là đối với những căn gác không trần mà mái tôn thì thấp lè tè, tỏa hơi nhiệt nóng ran trên sàn gỗ.  

Mấy năm sau, khi tôi ra Huế, Hà cùng gia đình vào Sài Gòn. Hà cũng như tôi, bỏ lại tuổi thơ  đầy mộng mơ ở cái thị trấn nhỏ bé  đó. Giã từ sân khấu. Giã từ chiếc áo dài trắng mang bảng tên trường lớp. Giã từ tiếng hát. Đến một nơi xa lạ, sống trong không khí náo nhiệt, ồn ào, đời sống bon chen ở thủ đô miền Nam, Hà phải hòa mình vào dòng người tất bật, vội vàng đến sở làm. Ngày tám tiếng, trước mắt là những con số kế toán xa lạ. Những người mới quen đều biết Hà là cô gái thích nghe nhạc, nghe hát, nhưng không ai nghĩ rằng Hà là người hát hay. Những buổi chiều chủ nhật tôi thường đến nhà Hà, trong một con hẻm đường Trần Khắc Chân, hai đứa ngồi ở hành lang trên căn gác gỗ, vẫn tưởng như ngày còn thơ ấu ở tỉnh lẻ, mặt đối mặt, mỗi đứa đều thấy khuôn mặt mình nơi đôi mắt của bạn mình, và Hà hát cho tôi nghe những tình khúc của Trịnh Công Sơn. Ướt Mi. Diễm Xưa. Cả hai chúng tôi đều quên đi thời gian, quên bấy giờ tuổi mình đã gần 30. Đôi mắt Hà lại u uẩn những nỗi buồn sâu kín của đời người con gái. Giọng hát của Hà bỗng nghẹn ngào, đứt khoảng. Như trên sân khấu, chỉ có Hà hát một mình. Như dưới hàng ghế khán giả, độc nhất chỉ mình tôi âm thầm đứng nghe.

Người đàn bà ở căn gác bên kia đường trở  mình, rồi đứng lên, xách chiếc ghế ra ngồi hành lang. Hình như nàng bị sức hút của tiếng hát từ bên này vọng qua làm nàng ngồi yên như pho tượng, bàn tay chống cằm, cùi chỏ tựa lên thành lan can, mái tóc dài thả xuống gần đụng nền sàn gỗ. Tôi không thấy rõ nét mặt người đàn bà vì khoảng cách nhưng tôi hình dung đôi mắt đó đang rớm lệ. Hàm răng đang cắn chặt lên môi để chận lại nỗi xúc động đang trào lên từ đáy lòng nàng. Cũng như tôi đang lặng người, tê điếng cả tâm can, và tiếng hát mang hồn tôi bay sang bên đó. Có phải thật sự Hà đang ngồi hóa đá? Tôi đứng sau lưng Hà, bàn tay đặt nhẹ lên vai nàng. Giọng tôi nói nghẹn ngào: “Thôi nhé. Hà. Giã từ tất cả”. Hà không trả lời nhưng vai nàng rung lên và chỉ khẽ gật đầu. Đó là kết quả của một đêm tôi thuyết phục Hà đi lấy chồng. Khi tôi đi làm về chị tôi đưa cho tôi tờ điện tín từ Sài Gòn nhắn tôi vào gấp. Ký tên ba của Hà. Tôi vội thu xếp công việc ở sở rồi đi máy bay vào. Ba mẹ Hà nhờ tôi khuyên Hà lập gia đình. Đám này là chỗ thân tình từ ngoài Bắc. Ba Hà bảo: “Hai bác đều biết Hà chỉ nghe lời con thôi.” Tôi chỉ biết gật đầu và yêu cầu ba mẹ Hà đừng cho Hà biết việc này. Vừa đi làm về, thấy tôi ngồi dựa vào thành ghế salon hút thuốc, Hà vui hẳn lên, khác với mọi ngày sau những giờ làm việc nàng trở về nhà vẫn còn mang khuôn mặt mệt mỏi ê chề. Hà reo lên. “Ngày mai Tân chở Hà tới sở, sẵn có Tân vào Hà xin nghỉ phép  năm luôn, tụi mình có thời gian rong chơi nhé”. Tôi dừng xe honda trước cổng sở Hà làm việc và hẹn sẽ trở lại đón Hà lúc tan tầm. Hà, trước khi bước xuống xe còn nhắc lại: “Tân nhớ nhé. Đừng quên nhé. Đừng để Hà đứng lơ ngơ nhé.” Không biết làm gì cho hết giờ, tôi vào nhà sách Khai Trí tìm mua vài cuốn truyện của Nhã Ca để tặng Hà. Sau đó đến quán La Pagode uống cà phê một mình, rồi lật đật bỏ đi, sợ gặp anh em văn nghệ rồi sa đà quên giờ hẹn. Cuối cùng, tôi dừng xe trước cổng cơ quan của Hà, vẫn ngồi trên yên mà hút thuốc, đợi chờ. Để khỏi sốt ruột tôi nghĩ vẩn vơ đủ mọi chuyện nhưng thời gian sao mà dài thế. Đưa mấy ngón tay rờ lên môi, lên cằm, cảm thấy nhột nhạt mới biết mình chưa cạo râu, và bây giờ thì tôi đưa hai ngón tay cái và trỏ nhổ đi từng sợi một, nghĩ về từng thời điểm lịch sử cùng cuộc sống đã cuốn chúng tôi vào cơn lốc, râu của tôi từ từ thưa thớt đi. Hà đến ngồi trên yên xe sau lưng tôi lúc nào tôi không hay. Hà rủ tôi đi ăn trưa. Hai đứa vẫn ngồi chỗ cũ, ở một góc phòng nhìn ra đường xe cộ qua lại nhưng không gây được tiếng động vì vách ngăn bằng kính trong. Nhà hàng bắt đầu bằng chữ Hà.  Hà Thành. Vẫn hai đĩa bít tết, một dĩa khoai tây chiên, và một chai rượu chát. Ly rượu của Hà bỏ vào một tí đường đủ để đôi má ửng hồng khi rượu đã cạn. Ngồi đối diện với tôi, bỗng Hà cười khúc khích: “Tân định dựng kịch? Hitler hả?”. Nhìn vào tấm gương soi bên cạnh của nhà hàng tôi cũng bật cười về hàm râu quái đản của mình. Hàm râu bị chắn đôi, cả một khoảng ở sóng môi trống trơn như chiếc cầu Hiền Lương chia đôi đất nước. Tôi nói đùa với Hà: “May Hà ra kịp lúc, chứ không để lấp khoảng trống đợi chờ thì cả hàm râu Tân biến mất.” Sau bao nhiên năm, râu tóc đã hoa râm, nhưng hàm râu tôi vẫn bị một khoảng trống phân biệt hẳn hai miền. Mặc dầu có lần xem tivi quảng cáo thuốc mọc râu, tôi mua về bôi nhiều lần chỗ trống đó để râu ra nối liền sự chia cách. Môi tôi sưng đỏ lên. Và mãi mãi râu tôi không bao giờ đâm ra được ở nơi đó nữa. Ra khỏi nhà hàng Hà bảo tôi ghé vào một tiệm bán tạp hoá gần đó và Hà mua cho tôi một dao cạo râu. Thay vì về nhà, chúng tôi vào rạp chiếu bóng thường trực ở đường Lê Lợi. Khán giả đông nghẹt. Và bóng tối lờ mờ. Tôi nắm tay dìu Hà tìm chỗ ngồi. Chỉ còn một ghế trống, hai đứa ngồi chung với nhau. Hà nép người nghiêng về một bên để tôi thoải mái đưa tay lên mặt cạo râu. Tôi kéo nhanh lưỡi dao làm bay đi những sợi râu còn lại để Hà trở lại tư thế ngồi bình thường.

Khi hết phim, đèn bật sáng, hai đứa nhìn nhau cười như  hai đứa trẻ con. Thời gian bị kéo lùi lại. Tôi cứ nghĩ Hà là cô bé thời thơ  ấu. Người bán hàng kem dạo đi ngang, Hà mua hai cây kem có bọc sôcôla và hai đứa ung dung ăn ngon lành.

Hai tâm hồn trẻ thơ nằm trong hai thân xác người lớn.

Người thiếu nữ lại tiếp tục hát: “Hôm nay trời xuân bao tươi thắm. Dừng gót phiêu lưu về thăm nhà… Cô láng giềng ơi! Không biết cô còn nhớ đến tôi. Giây phút êm đềm ngày xưa kia khi còn ngây thơ…” Tôi vẫn tiếp tục chống cằm lên bàn tay, mắt dõi nhìn về căn gác đó. Người đàn bà áo trắng vẫn còn ngồi hoá đá, và hồn tôi vẫn lang thang trong những ngày xa xưa. Ngày Hà lấy chồng, tôi cũng vào kịp lúc dự tiệc cưới. Đáng lẽ tôi vào trước một ngày, lên máy bay rồi ngồi ghế nịt dây an toàn để máy bay cất cánh, nhưng sau đó cô tiếp viên hàng không xin lỗi hành khách vì lý do kỹ thuật phải hủy chuyến bay, xin hẹn lại ngày mai. Vừa tới Sài Gòn tôi vội đến nhà Trọng để hai đứa cùng đi đến nhà hàng dự tiệc cưới. Trọng là bạn văn cũ của tôi và là người bạn mới của Hà. Trọng cho hay hôm qua Hà có gọi điện thoại hỏi Tân đã vào chưa? Và Trọng trả lời: “Không thấy. Ngày mai, ngày mốt đều không có chuyến bay. Thế là ngày cưới Hà thiếu hắn rồi.” Bên kia đầu giây chỉ có tiếng trạch lưỡi như tiếng thạch sùng kêu trong đêm vắng. Cuối cùng Hà chỉ thốt lên: ‘Buồn nhỉ”. Và cúp máy. Tôi và Trọng vội vàng đi taxi đến nhà hàng Đồng Khánh. Khách ngồi chật cả phòng. Trọng kéo tôi đi tìm Yến. Trong đám bạn bè cũ tôi biết Hà chỉ mời có ba người. Gặp tôi Yến nói: “Hà mới hỏi tôi Tân có vào không? Tôi lắc đầu.” Ba chúng tôi cùng ngồi một bàn với những người không quen. Đã qua cảnh giới thiệu hai họ cùng cô dâu chú rể trên bục diễn. Trên sân khấu cô ca sĩ đang uốn éo cầm micro hát bài “Ngày cưới em”. Tôi nhìn quanh cố ý tìm Hà nhưng không thấy. Tôi chỉ muốn báo ngay cho Hà biết là tôi đã có mặt trong ngày cưới Hà. Tôi hỏi mượn Trọng cây bút và viết vội sau tấm danh thiếp. Trọng và Yến thắc mắc định hỏi nhưng tôi lấy tay làm dấu cho họ im lặng. Tôi nhờ người hầu bàn chuyển tới ban nhạc. Một lát sau, khi đã dứt tiếng hát người nữ ca sĩ lui vào nhường chỗ cho một nữ ca sĩ khác trong chiếc áo dài màu tím, thướt tha, giới thiệu bản nhạc sắp trình diễn cùng lời yêu cầu của tôi “Có một người nhờ chúng tôi hát bản Cô láng giềng để tặng cô dâu trong ngày cưới”. Tiếng kèn đồng khởi dậy đưa tiếng hát người ca sĩ vang lên: “…Cô láng giềng ơi! Không biết cô còn nhớ tới tôi, giây phút êm đềm ngày xưa kia khi còn ngây thơ…” Và, tôi đợi chờ. Hà đến thật. Hà nắm tay Quốc, đi như chạy, về phía tôi. Trước mặt tôi, bấy giờ tôi mới nhận ra Hà đã lớn hẳn lên, không còn là cô bạn láng giềng bé nhỏ, ngây thơ, nhí nhảnh của những ngày thơ ấu cũng như thời con gái. Nàng đang bước vào một cuộc sống khác. Tôi rót rượu vào cốc mượn của Trọng và Yến đưa cho Hà và Quốc, tôi nâng cốc của mình lên, uống rượu tiễn đưa cô bạn láng giềng, giã từ một thời đã qua, thời của mộng mơ và lãng mạn. Tôi cầm bàn tay của Quốc đặt lên bàn tay của Hà mà nói: “Hôm nay và mãi mãi Quốc là người dìu dắt Hà, cô bạn láng giềng của tôi, tìm hạnh phúc trong cuộc sống gia đình”. Quốc, một tay nắm chặt lấy tay tôi, biểu hiện sự cảm động. Còn Hà, hai mí mắt nhấp nháy. Tôi biết Hà sắp khóc. Tôi nói to như cho mọi người cùng nghe: “Này nâng ly rượu lên chúc mừng cô dâu chú rể.” Tôi cụng ly với Hà, với Quốc. Cả ba chúng tôi uống liền một hơi. Men rượu nồng làm cơ thể tôi bừng bừng như có một luồng điện chạy khắp châu thân. Trong tôi lẫn lộn giữa niềm vui và nỗi buồn khôn xiết. Nhìn đôi má Hà đã ửng hồng, tôi nói nhỏ với Quốc: “Cậu coi chừng Hà sắp say đó. Hà không quen uống rượu nặng. Cậu dìu Hà đi nhé”. Quốc gật đầu, dắt Hà đến chào các bàn khác. Hà đã khuất bóng. Tôi cũng đứng dậy bỏ đi. Trọng và Yến theo sau. Ra khỏi cái ồn ào náo nhiệt và ngộp ngàng hơi người tôi nhẹ hẳn người, nhưng sau đó một nỗi bơ vơ chợt đến choáng ngợp hồn tôi. Tôi chơ vơ ngã xuống vực sâu. Trọng kéo tôi và Yến vào vũ trường ở sân thượng của nhà hàng. Tiếng kèn đồng thắm thiết. Người nữ ca sĩ, mặt đau khổ, mắt nhắm nghiền, hai hàng lông mi cong vút, cả thân hình lắc lư, cả hai bàn tay cầm chiếc micro đưa sát vào môi mấp máy. Giọng ca khàn khàn như của một người vừa uống rượu nồng. Trọng mời Yến ra sàn nhảy. Còn tôi ngồi uống rượu một mình. Dưới ánh đèn mờ ảo, từng cặp trai gái ôm nhau nhảy điệu boston tình tứ. Tôi vẫn ngồi một mình và uống rượu cùng với nỗi cô đơn tràn ngập. Tôi cố nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp của một thời Hà còn con gái nhưng bao quanh tôi chỉ toàn là đám mây dầy đặc, ban đầu màu xanh rồi chuyển thành màu xám, cuối cùng là một màu đen kinh rợn, xô tôi rớt xuống vực sâu. Tôi gọi to tên Hà như một lời cầu cứu. Có tiếng đáp lại rất khẽ của Hà thời thơ ấu: “Tân hả?” Cô bé Bắc kỳ nho nhỏ đưa bàn tay bé bỏng nắm lấy bàn tay đầy gân guốc của người đàn ông kéo lên. Hà của thời thơ ấu và tôi của thời hiện tại.

Một cái đập tay vào vai kéo tôi ra khỏi cõi mộng. Tôi lắc đầu và nhấp nháy mắt nhìn kỹ người đứng trước mắt mình. Tôi nhận ra Hoàng. Anh cười và  nói nhỏ:

- Ông đã thiếp đi một giấc ngắn ngủi đủ  đưa ông vào một giấc mộng đẹp. Ông đã gọi to tên một nhân vật nữ đã lảng vảng hầu hết trong các truyện ngắn thuở nào của ông: Hà!

Tôi cười khẽ, nhìn Hoàng với đôi mắt ngơ ngác như còn luyến tiếc một cái gì vừa mất đi. Tôi gật đầu. Người thiếu nữ đã ngừng hát và bước tới đứng cạnh tôi, tay chống lên thành lan can, mùi thơm thoang thoảng của nước hoa làm tôi dễ chịu hơn. Nàng không nói gì, đôi mắt vẫn nhìn về một phương trời xa xăm, ở nơi đó bên kia nửa quả cầu, những người thân của nàng đang sống. Tôi nhìn căn gác gỗ, tìm lại bóng dáng của người đàn bà đã ngồi hoá đá nhưng nàng đã biến mất, không để lại một vết tích nào. Chiếc ghế trắng cũng không còn. Chiếc hành lang nhỏ hẹp, trống trơn. Cánh cửa sổ đã khép lại. Cửa chính cũng không còn mở. Với người đàn bà kia, bên này chúng tôi đang đứng là sân khấu diễn kịch. Chúng tôi là diễn viên. Còn nàng là thính giả. Màn đã hạ khi người thiếu nữ ngừng hát, khi nghe tiếng la thất thanh của tôi từ cõi mộng. Còn đối với tôi, nơi hành lang của căn gác gỗ kia là sân khấu. Người đàn bà đó là diễn viên. Tôi là khán giả. Một vở kịch câm. Người từ cõi mộng. Màn đã hạ khi người đàn bà đó bỏ đi.

Sau này, một khoảng thời gian dài, mười năm sau tôi mới thật sự đem gia đình vào sống ở Sài Gòn. Thành phố đã vươn mình bừng dậy. Tất cả nhà  nằm ở mặt đường lộ đều trở thành phố xá tấp nập người mua kẻ bán. Tôi chen chân vào tìm thuê một căn nhà nhỏ trên con đường mà trước năm 75 cũng như mới đây thôi, một năm trước, vắng hoe người qua lại, nhà cửa lụp sụp cũ kỹ và thưa thớt. Phía trước làm cửa hàng bán tạp hóa, sau bức vách ngăn tạm bằng gỗ ép, cả gia đình tôi bảy người chen chúc nhau mà sống. Ban đêm đóng kín cửa sắt lại chẳng khác nào chúng tôi đang ở trong nhà tù. Chỉ có vài lỗ thông hơi sát trần, lúc nào cũng ngợp ngàng gần như thiếu không khí để thở. Ban đêm, nhất là về khuya cho đến trời vừa ló sáng, tiếng xe tải kéo nặng nề những container rền vang trên mặt đường nhựa hắt vào căn nhà làm rung rung thân xác tôi đang trăn trở trên chiếc ghế bố mà không sao ngủ được cho ngon giấc, tôi mệt mỏi sau những cơn ác mộng kinh hoàng. Ban ngày, ngồi trông hàng, trước mắt mình lúc nào cũng xe cộ vun vút chạy ngang như đàn kiến đang di tản ngược chiều, gặp nhau chỉ ngừng lại trong tích tắc rồi tiếp tục cuộc hành trình, cứ thế mà ngày qua tháng lại như con thoi, làm tôi lúc nào cũng choáng váng mặt mày. Khói xe luôn luôn bám đen tất cả mọi đồ vật trong nhà. Người tôi lúc nào cũng nhám xì vì bụi. Không riêng gì tôi, cả gia đình tôi, vợ và các con nói chuyện với nhau, tay chân đều cử động, lơ quơ như người câm ra dấu diễn tả, nhưng lời nói của chúng lại to tiếng như đang cãi lộn. Khi nhận ra điều này tôi giật mình và nói với mọi người là mình phải ăn nói từ tốn như những ngày còn ở quê. Tôi nói thử, nhỏ nhẹ, dịu dàng với vợ tôi: “Em lấy cho anh vài điếu thuốc ba số.” Vợ tôi trả lời khi tôi đến gần sát bên cạnh nàng: “Em nhớ nhà anh Quỳnh chỉ có hai số.” Thế là chúng tôi phải nói to và làm dấu diễn tả mới hiểu ý được. Cho nên khi đến nhà Quỳnh, tôi mới nhận ra cùng một thành phố, trong một con hẻm nhỏ, cùng một bầu trời nhưng ở đây tôi mới cảm được màu xanh dịu dàng lốm đốm mây trắng bay, cùng một không khí để thở nhưng sao ở đây lại trong lành dễ chịu. Tôi và Quỳnh ngồi ở một góc hành lang nối liền giữa nhà trên và phòng ngủ, dưới mái hiên chỉ che mưa khỏi ướt người, chừa một khoảng không gian cho chiếc sân nhỏ. Quỳnh pha cho tôi một cốc cà phê thật đậm, từng giọt nước đen ngòm, đặc quánh nhỏ xuống cái tách thủy tinh trong veo. Tôi ngồi dựa lưng vào thành ghế sát vách tường, hít một hơi thuốc và nhả một làn khói bay lơ lửng. Trước mắt tôi chắn ngang tầm nhìn là vách tường ranh giới của nhà bên cạnh, làm thành bức bình phong màu vàng nhạt để nổi bật màu xanh của lá cùng màu đỏ bầm lốm đốm của những đoá hồng, đoá tường vi được trồng trong bồn hoa xây sát chân tường. Ngồi với nhau như từ thuở nào, ngày còn đi học, ở chung một phòng trọ, hai chúng tôi vẫn thường im lặng mà hồn thả trôi lênh đênh. Quỳnh để băng cassette cho tôi nghe. Giọng ca lả lướt và réo rắt của Thái Thanh đã từng mê hoặc tôi một thời tuổi trẻ. Những bài tình ca thời tiền chiến lại dẫn dắt tôi trở lại thời gian của cái thời lãng mạn đã nuôi nấng tâm hồn tôi. Trong tiếng nhạc đệm du dương nổi lên tiếng hát vang vang đã đưa tôi vào một cõi khác. Và từ đó những khuôn mặt của những người đã đi qua đời tôi xuất hiện, họ chen lấn nhau trong trí nhớ.

Ban đầu là người thiếu nữ mà mãi giờ  tôi không biết tên, đã hát cho tôi nghe dưới đêm trăng năm nào. Đêm càng khuya trăng càng sáng. Qua khúc quanh, uốn lượn như con rắn, một bên là triền núi, một bên là bãi biển. Như biết ý tôi, Hoàng dừng xe lại sát lề đường. Vừa mở cửa xe, tôi chạy ùa xuống bãi cát mịn màng và trắng toát. Đầu ngẩng lên về hướng mặt trăng. Mây trắng phơn phớt từng cụm nhỏ lờ đờ trôi qua mặt trăng nhưng không đủ làm giảm đi ánh sáng vốn đã huyền ảo. Sóng từng đợt, đều đặn uốn lượn táp vào bờ tạo thành những âm thanh rền rỉ như tiếng sấm gầm ở một khoảng trời rất xa vọng lại. Âm thanh ấy vẫn đều đều và triền miên cùng năm tháng. Tôi hít nhẹ một cơn gió thoảng vào phổi và tôi thổi ra bằng một tiếng hét thật to như đẩy ra những nỗi bực dọc, buồn phiền đã chất chứa trong lòng, chìm xuống lòng đại dương. Và rồi theo ánh trăng ập vào hồn tôi một niềm an lạc vô biên. Nghe tiếng Hoàng kêu: “Tân ơi! Đừng đi xa, không ổn đâu”. Tôi quay người lại và đi về hướng các bạn đang tập trung ngồi quanh người thiếu nữ trên tảng đá lớn bên cạnh lởm chởm những hòn đá khác như mọc lên từ đáy biển. Sóng rì rầm vỗ vào kè đá làm tung tóe những bọt nước trắng xoá. Người thiếu nữ đứng lên, dang tay ra rồi thu lại, và nàng cất tiếng hát “… Nhớ nhau đành tìm trong tiếng hát. Đời vắng em rồi vui với ai.” Lá đổ muôn chiều của Đoàn Chuẩn, đúng như tâm trạng của nàng chăng? Hoàng cho tôi biết người thiếu nữ đó đã có một mối tình thơ mộng, họ yêu nhau từ thuở còn cắp sách đến trường. Họ vừa mới đính hôn, chưa kịp đến ngày cưới thì biến cố lịch sử năm 75 ập đến. Người chồng sắp cưới đã lưu lạc phương trời xa xăm nào đó. Còn nàng ở quê nhà đợi tin về. Vẫn bặt tăm. Tôi ngồi một mình trên tảng đá đối diện với người thiếu nữ mà nhìn nỗi bất hạnh của nàng thể hiện trên nét mặt khi diễn tả lời ca tiếng hát. Gió biển thổi vào làm chiếc áo nàng mặc dán sát vào người, hai viền áo quanh hông nàng lất phất như những cánh diều gặp gió lướt lên không trung. Tiếng hát của nàng như những lời gởi gắm tâm sự của mình tới một phương xa cho  ai đó. Âm thanh, từng giọt buồn như những giọt nước mưa nhỏ xuống tí tách vào hồn tôi. Tiếng hát theo gió cuốn đi, nhỏ dần, nhỏ dần. Trăng đã lên trên đỉnh đầu chúng tôi. Mặt trăng hình bầu dục không tròn trịa như ngày rằm nhưng ánh sáng toả ra phân biệt đường ranh giới màu xanh lơ giữa biển cả và bầu trời như một sợi chỉ mong manh kéo dài cắt ngang. Hình ảnh người thiếu nữ đứng dang tay giữa trời như một pho tượng màu trắng ngà dán lên bức tranh phong cảnh mờ ảo của nền trời mây lãng đãng. Tiếng hát của nàng đã dìu dắt tôi gặp Hà trong cõi mộng. Khi nghe tin Hoàng cho biết người thiếu nữ ấy đã chết trong một chuyến vượt biên xảy ra sau đêm hát cho chúng tôi nghe ở bãi biển một năm sau. Không hiểu sao nghe Hoàng kể, lòng tôi vẫn dửng dưng như nghe một cái tin đăng trên báo mà nạn nhân chỉ là người xa lạ không liên quan gì đến đời mình. Cuộc sống đã làm tôi quen với những tai ương.

Mưa bắt đầu rơi xuống lộp độp trên mái nhà  tôn và nhiễu xuống sân từng giọt buồn lẫn với giọng ca truyền cảm cao vút bén như dao lam cắt vào da thịt tôi. Lúc đó trong tôi mới lảng vảng hình ảnh cái chết bi thảm của người thiếu nữ đã bị bọn hải tặc cắt lưỡi rồi quăng nàng xuống biển làm mồi cho cá mập. Tôi hình dung cảnh người thiếu nữ đứng trên boong tàu, dang hai tay như với lấy mây trời, giữa những cơn gió lồng lộng, đôi mắt khép hờ, và tiếng hát cất lên, to dần và tỏa ra lan theo làn sóng. Tiếng hát ấy đã đem lại tai ương cho nàng nhưng cùng lúc là sự may mắn hạnh phúc cho kẻ khác. Tiếng hát ngoài biển cả, như làm mồi kêu bọn hải tặc đến, cũng tiếng hát đó như một lời kêu cứu với tàu biển nước ngoài. Một người đàn ông đã đi cùng chuyến vượt biên đó mới trở về thăm quê hương kể lại với Hoàng: “Tiếng hát đã làm cái ác và cái thiện cùng xuất hiện một lúc. Cái ác đã giết cô ấy, cái thiện lại cứu mạng chúng tôi.” Bọn cướp chuồn mất khi một tàu lớn xuất hiện. Tôi biết người thiếu nữ kia khi hát nàng không nghĩ gì cả. Nàng hát cũng như nàng cần phải thở.

Tôi đưa tách cà phê lên môi, chưa nhấp mà miệng đã đắng. Khói thuốc tôi nhả ra có phải làm mắt tôi cay. Đúng lúc này Thái Thanh hát bài Cô láng giềng. “… Cô láng giềng ơi! Không biết cô còn nhớ đến tôi, giây phút êm đềm ngày xưa kia khi còn ngây thơ.” Như giọt nước sau cùng nhỏ vào cái ly đã đầy làm cho nước trào ra. Tôi nhìn vào bồn hoa trước mặt, bỗng khám phá ra cây tường vi đã rũ lá, đoá hoa màu hồng đã gục chết. Lẩm bẩm trong miệng tôi hát theo: “Đưa tay buồn hái bông hồng tường vi. Em nói rằng em sẽ chờ đợi tôi, đừng nói đến chia ly.”

Bỗng dưng tôi thèm nghe Hà hát đến kỳ lạ. Giật mình nhận ra tuổi đã xế chiều. Còn Hà thì xa vời vợi. Lúc bấy giờ thì tôi khóc thật.  




VVM.08.6.2023

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .