N ói về một con mực nằm giữa lò than, than nóng, con mực cong râu, đen râu, mình co rùn lại. Lại nói về những dĩa thịt ngon lành, cái dĩa lớn nhưng thịt rất ít, thịt ngon, và được hai bàn tay của một em trắng xinh đem ra, a! Hai bàn tay coi muốn ngon hơn dĩa thịt. Đó là những thứ lúc này không có, nhưng chúng mình đã hưởng rồi, cách đây nửa tháng. Nhớ chúng, nhắc chúng hoài.
Thịt xào không có nhưng đây cũng có thịt, thịt heo ướp muối nướng. Và hai trái ổi thay chỗ hai con mực. Cứ tưởng tượng trái ổi là con mực, con mực giống trái ổi. Ôỉ hay mực, khế hay ổi, mực hay khế cũng đều được chúng ta đẩy cho vào một đường nhất định, là cái cổ. Điều quan trọng là rượu. “Chủ quán! Thêm riệu”. Hiệu đặt chén xuống “dạ” dài một tiếng.
- Có tôi, quan chờ cho một phút.
Nghiêm để dĩa rượu ngồi cho vững trên gối, nheo một mắt, kéo xếch môi quát dẻo như nhựa:
- Quan quái gì, đem riệu! Tôi cho ông ba mươi giây. Hiệu đến góc nhà, mở giấy đậy miệng nồi, vục chén vào múc đầy một chén. Hiệu làm chủ quán, nhưng khi đến ngồi xuống trước mặt anh và Nghiêm thì đổi ra là bạn nhậu. Hiệu đổ rượu vào dĩa quan:
- Quan uống ít cho, còn chẳng bao nhiêu. Thưa, tôi biết ơn quan.
Còn lối bốn chén. Hiệu bao kỹ miệng nồi, sợ rượu bay. Nghiêm ôm miếng thịt bằng hai tay, nó siết mạnh hai hàm răng, mỡ chạy leo quanh miệng. Bà heo nái, cái bà heo nái có lẽ già nhất xóm, không ai cho ăn, không còn bụng, đi tòng tơm dòm ruộng dòm trời giống kẻ thất tình, thế mà có mỡ. Anh không nỡ bắn, hình như mắt bà ta đỏ, có ghèn. Tuy ở lính đã lâu anh vẫn còn nhiều lòng nhân. Nhưng sáng nay thằng nào đó đã xuống tay. Đời, mỗi thằng một bụng.
Nghiêm ăn năm bảy miếng, uống mọt hớp. Vậy gọi là ăn hơn là nhậu, nhưng rượu ít quá. Anh ngán thịt đến đầu, thấy thịt kho thịt nướng anh không muốn nhìn lâu. Mười ngày rồi bọn anh ăn ròng thứ này. Ngã con heo ra, bỏ vô đầy một bụng muối. Muối rồi nướng, và gieo cả bốc muối trong chảo thịt kho. Cả xóm tìm không thấy giọt mắm. Anh nhắm ổi uống rượu. Hiệu cũng ăn ổi. Hiệu nói tự nhiên muốn ăn chay một bữa.
- Nói vài tiếng đi mày, nói cho vui, Nghiêm bảo Hiệu.
- Tao nghiền ngẫm việc đời, để yên tao uống – Hiệu nói với giọng nghiêm trang.
- Mày nghiền ngẫm việc gì nhiều nhứt?
- Việc đám dân ở đây bỏ đi đâu hết, việc đám heo hoang mình ăn lâu nay.
Nghiêm tống cục thịt vào miệng, nhai bập bệu, rồi nuốt, và rửa cổ bằng hai búng rượu. Ngật ngừ. Nghiêm lại kể chuyện tình mùi rệu của nó, kể rành chi tiết. Một con nhỏ chồng chết ở gian nhà sát nhà nó. Thứ nhà trong trại lính, bên này nói thầm bên kia cũng nghe. Con nhỏ mới lạnh lẽo bốn tháng đã không chịu được. “Nó liếc mắt đưa tình tao. Bố cha nó chớ! Hai con mắt thiệt điếm, thiệt ăn mày!”. Nghiêm không tránh được bậy bạ. Mấy hôm nghỉ bồi dưỡng ở trại, nhiều lần nói láo vợ đi gác, nó chun vô buồng con nhỏ. Nằm ôm bụng cô tình nhân nó nghe rõ tiếng con nó cười, tiếng vợ lịch kịch nấu nướng bên bếp… Anh nghe Nghiêm nói bằng một lỗ tai. Bảng lảng, anh lại nhớ đám mả những người dân chết vì đạn lac trong trận đánh tháng trước, chôn như dập trên các bờ ruộng. Mấy gò đất mới đắp mọc lên hai ba bàn chân – tốp địch bị Bảo an bắn chết trong vườn, bị các chị đàn bà lôi thảy vội xuống hố. Một chân mọc thẳng, lòng bàn chân ngửa lên trời, da vàng tái, móp khô, trông nhỏ và rất dơ… Nhớ, đàn heo đói, lông tua tủa, mõm dài, sục sạo trong các lùm bụi tìm ăn, như người ta tìm kim rơi trong ao nước. Và, thư của Cương.
Thư Cương mới đến hồi trưa. Cha mua được bốn cây ổi kiểng. Xe đạp Cương già ốm, vá víu cột buộc như cái áo rách. Cái quần mới. Tủ đựng sách. Cương thích một cái quần mới. Còn tủ sách Cương chỉ nói xa gần, cương nghĩ chắc anh không mua nổi một cái tủ? Nó không cần lắm. Nhưng trước, nhiều lúc anh cũng đã mơ được cái tủ, nhỏ thôi, đựng sách vở và đồ riêng.Nói vài tiếng đi mày, sao ngồi im vậy?
- Để tao uống. Ngồi im tập trung tư tưởng cho từng giọt rượu trồi cao, thấm dần lên đầu, Hiệu nói.
Rồi cho rịn từng giọt ra chân tóc? Nghiêm cười.
Xóm không còn nước nắm, không có gạo, lại có rượu. Hiệu moi ở đâu ra một hũ rượu, trên hai lít, mừng khúm. Giấu kỹ, chia ra uống trong ba ngày. Hũ rượu lúc này quý hơn cây nước đá với năm mươi tô phở.
- Riệu. Thêm lưng chén nữa, ông quán.
- Xin cho hẹn quan ngày mai. Còn chút xíu, quan thông cảm, còn chừng bốn chén.
Nghiêm lia cái dĩa xuống sàn.
- Còn có bốn chén. Chà, mau hết há… quán, chính mày ộc nhiều nhứt. Mày không nói nhưng mày ộc nhiều nhứt.
- Oan cho tôi, chính quan…
Ba người giã gạo dưới gốc dừa. Hai người giã, một người ngồi chầu, lùa và trộn lúa xuống cho đều, cả ba chỉ mặc quần đùi. Ở đây được tiếp tế gạo sấy, đổ nước vào hai chục phút ăn ngay, nhưng cơm không ngon, nhai xam xảm, lạnh miệng, như người bệnh nhơi cháo. Một tiếng “cùng!” vang lên sau núi, bọn anh cùng im, lắng nghe. Như tiếng súng cối bắn đi, và cũng như tiếng trọng pháo ở xa. Nếu có tiếng gió rít phải nhảy xuống đất, phóng vụt vô hầm. Lúc sáng đã bị hai lần, lần sau đến tám trái, một trái rớt cách hàng dừa của bọn giã gạo kia chừng bảy chục thước, nước ruộng tung trắng… Mây đùn đen trên nền trời sau núi. Mấy hôm nay trời muốn mưa mà chưa mưa được. Chiều nào những tiếng ùng ục giống tiếng sôi ruột cũng nổi lênlẫn với các tia chớp ngắn. Mong nếu mưa thì mưa ban ngày.
Hiệu ra góc nhà, chỗ bếp cũ, vạch quần tiểu. Bên dưới hai bánh xe trâu gãy và đống lờ cá bị vấy dơ. Nghiêm kêu “quán, quán!”. Ngày nay không ngủ được, vì rượu. Đêm thường ngủ không ngon. Pháo binh bắn cầm chừng cũng giật mình. Một lúc lại nghe đồn Bảo an bên chùa thụt lựu đạn ầm ình. Vài giờ bọn địch lại phá, bắn chốc chốc, bơm súng cối một trái, hai trái, rớt nổ ngoài ruộng, sau vườn, bất chợt như có kẻ đến bên tai mình vỗ tay to một tiếng. Tối hôm qua một trái cối bay tọt vô chùa, hai anh bảo an bị thương. Ngày cố ngủ cho khá, tối mới tỉnh được, để xuống hầm ngay khi trái đạn thứ nhất nổ. Nghiêm lè nhè: “Quán, đỡ giùm… ta xuống, không thì ta té”. Hiệu đỡ Nghiêm xuống thang. Anh đá chén ra xa, ngã lưng xuống sàn. Hàng chữ Miên trắng viết oằn oèo trên cột nhà, như sẵn sàng bò đi.
Cương à, cái tủ sách của Cương, một cái quần, chiếc xe đau yếu, anh luôn nhớ chúng nó. Chiếc xe nay cho nó nghỉ dưỡng già cũng vừa rồi, phải không. Nó sáu hay bảy tuổi. Nó đã khọm lưng chở anh, rồi lại chở em. Phải cho nó nghỉ, không thì sợ tự nó lăn ra nghỉ, tội nghiệp em. Anh với nó qua hàng ngàn lần trên đường bờ biển, đun vào các bụi dương ngủ trưa, phễnh bụng trên bãi cát nhìn trời của biển buổi chiều. Ờ, bãi biển những buổi chiều, những đùi thiếu nữ, những bụng lính Mỹ, những đôi mắt khờ dại của mấy bà già bán hàng rong. Hồi đó bọn anh được trường dắt xuống bãi này tập thể dục mỗi chiều thứ tư va thứ sáu. Mấy thằng lớn biết rình coi các cô bán quán thay quần. Quán số 6, số 7, tấm bảng vẽ con tôm con cua. Chiều nào mưa được nghỉ tập. Anh thích trời mưa luôn, để khỏi múa máy cát tung đầy đầu, để tấp vào rạp chiếu bóng với vé năm đồng… Anh với nó cố sức trườn lên dốc nhà thờ, con dốc trông giống một đường đèo. Lên trên ấy, không quỳ lạy cầu nguyện, mà trèo ngồi trên kệ đá cao nhìn xe lửa uốn mình chạy dưới thấp. Người đi len lỏi dưới hàng me, người dập dìu bên ngã Sáu. Ông già cung kính bước vào lòng nhà thờ, tay chắp, áo dài đen, đôi mắt có vẻ đã thấy bóng thiên đàng lờ mờ và cái miệng lỗ. Cô gái áo trắng mặt nghiêm kỳ lạ. Đám trẻ nhỏ cũng áo dài quần trắng. Người già bắt luôn trẻ con phải nhớ đến ngày ảm đạm, cái ngày còn rất xa chúng nó mới đi đến… Anh và nó đi chậm nhìn từng mặt trăm ngã đường Xóm Mới. Nghe xóm ấy nay có đường nhựa, nhà mới nhiều tầng. Ngày đó còn nghèo, đất cát bũn, mồ mả, bụi bờ và ông táo mẻ sành. Anh ở dưới chân Núi Một, làm bà con với các bà gánh nước mướn, bán chuối bán chè, các ông đạp xe mướn. Anh thương tiếng đồng hồ nhà thờ, khuya tiếng chuông gõ còn buồn hơn tiếng chuông công phu – Chiếc xe nó biết hơn Cương nhiều chuyện. Cương ở Núi Một, nhưng làm sao Cương biết đường này ngày còn là đường đất đỏ, đường đất lôi thôi mà còn đẹp hơn đường nhựa… Anh khó nghĩ về việc tiền bạc. Lấy đâu đủ để Cương mua một chiếc xe mới. Tháng nào cũng nợ. Tháng rồi hiền nhất cũng chỉ còn hơn một ngàn. Một ngàn đồng, mong manh, có thể bay biến vào phút nào đó, chẳng biết trước.
Gần tối trời lại muốn mưa. Làng xa trong chân núi mờmờ mấy mái tranh, như được bao mín một màn im vắng, nặng vẻ ẩm buồn. Mây đóng cục đè chóp núi, liếm xuống sườn.
Anh đưa võng, thấy mình nóng và hơi nhẹ. Cái máy kêu sè sè bên tai. Nếu cẩn thận nên nằm đất, nằm võng lại ngầy ngật, súng nổ sợ lăn xuống vào hầm không lẹ. Anh đi càng lâu càng nhát, vì thấy rõ con người nơi này có thể bị chết hàng chục ngàn cách. Uống đã rồi lên nằm trên giường, có mưa thì nghe mưa, ngủ nhẹ nhõm thì về, sướng biết bao. Trước, nhiều khi đi coi hát về khuya, anh nhìn lên các lầu cao sáng đèn, anh ước muốn, giá được ở trong các gian phòng trên đó. Phòng rộng, sáng đẹp, và chắc nhiều thứ lạ lắm. Mỗi năm chỉ ngủ giường ba bốn chục lần, mình vẫn chưa điên lên là còn may mắn. Súng cối bên chùa lại bắn canh chừng.
Khoảng 9 giờ rưỡi bỗng nghe nhiều tiếng nổ lớn bên đồn, đất như bị giộng. Rồi súng nổ rát. Anh lăn khỏi võng thấy mọi người đã ngồi sẵn dưới hầm. Chúng nó hiếp đáp mấy “ông Địa” dữ quá. Các tia đạn lửa đâm thẳng vô núi. Tiếng nổ ấm và to nổ tiếp đuôi nhau. Đó là tiếng lựu đạn, phóng lựu, bộc phá, đại bác bắn gần, mìn bấm. Đó cũng có thể là súng cối, súng phóng hỏa tiễn. Đại liên hét, giật giật. Bên bộ chỉ huy bắn qua đồn chùa hai trái sáng, trợ lực bạn. Hai trái tắt thay liền hai trái khác. Anh thử nhìn lên trời, tối quá chẳng thấy gì, chẳng thấy mây. Vùng chung quanh trái sáng ngó vàng tái, lềnh bềnh như không khí đang trôi, vòng sáng vàng và khi rộng khi bóp hẹp. Những người chết lúc này không thấy được trời như thế nào.
- Chắc đã có đứa quẹo.
- Pháo binh đâu rồi còn ôm vợ chắc.
- Bọn nó lận đận thiệt… nhưng rồi sẽ thành lính thiện chiến hết trơn, đánh hoài không thiện chiến là gì.
Tội bọn họ, mới nửa tháng bị há ba lần. Hôm mới đến, nhảy trên tàu xuống, anh đã thấy họ mang ra hai người để giữa ruộng, chờ đưa về phố cho vợ con khóc. Chà, chà, nhiều anh chậc lưỡi, chỗ này có vẻ không lịch sự. Anh đứng nhìn sững ngọn núi to nằm chắn trước mặt, kệch cỡm, nặng nề.
- Thằng bị bể bàn ỉa kia khổ cực dữ… mẹ, đến cái đi ỉa mà cũng hết được làm chủ thì nhịn cơ luôn là phải.
-…Thôi đã bỏ bú rồi, giờ mày tới đái lên mũi nó, nó cũng cóc biết phản đối.
Viên đạn đuổi bay đến, đâm phụt vô bụi dứa trước bờ ruộng. Đồn chùa đang là chợ tiếng động. Hai máy bay đến liệng vòng trên cao. Pháo binh bắn qua một chùm trái sáng. Anh dựa hầm ngủ. Máy nói đứt đoạn, truyền lệnh, cẩn thận, cứ ngồi dưới hầm, “địa” nói bọn nó vào khá đông đấy. Một tràng tiếng gió rít sắc lạnh, một dây súng cối nổ, vụt qua sau lưng anh, nện bên hông bộ chỉ huy. Pháo kích đấy! Ngồi xuống! Lại pháo kích. Anh bỏ mũ sắt ra cho nhẹ đầu. Hầm kế cận, ông nào đó mở máy thu thanh có giọng ca đàn ông… Đột ngột đồn thưa tiếng súng. Hai máy bay chịu nhủi xuống bắn thì súng nhỏ bốn bên im hẳn.
Sáng, đại đội anh qua chùa, lục soát quanh đồn. Lính đồn quần áo bết đất bùn, cò đội mũ, mang dây đạn, bận rộn thu dọn. Hai hầm lớn xây bằng bao cát, nắp dày bị sụp. Một tên cộng sản làm thế nào lại vô nằm chết trước cửa hầm. Giở đống bao cát ra hầm nào cũng có người gục mẹp bên trong. Trái súng cối địch pháo rớt ngay giữa hầm súng cối đồn, bốn người của tổ súng cối đều chết. Người ta chỉ cái xác không đầu, thịt bả vai toét đỏ, bảo đó là anh phụ xạ thủ. Anh không dám coi lâu, ngại trưa lại ớn khi thấy thịt heo. Các tiểu đội lên trước quét sạch các bụi cây rậm. Con mương thứ hai cách rào kẽm không bao xa còn đục nước, cỏ bị dẫm ngã nhiều chỗ. Sáu xác nằm chúi đầu dưới nước. Xác nào cũng bôi lọ đen lèm nhèm, mặc quần đùi. Chỉ có cái xác còn bị dây dù siết chặt cổ là mặc cái áo mưa ngắn. Bọn này mang lựu đạn tay, chất nổ, nhiều mìn. Đám người bu lại quanh mấy xác địch, lật ngửa ra, lật úp, mở mấy chùm lựu đạn quăng lên bờ. “Thằng này chết trên bờ, ngã xuống đây… già quá, con gái dám mười tám tuổi”. “Thằng quỷ khốn này liệng lựu đạn của nó đâu mất cả, hay nuốt mẹ hết rồi”.
Lính đồn khiêng ra bốn cáng. Một người quấn băng trắng chân được cõng, còn quay lại nói gì với người đi sau. Anh cúi nhìn cái mặt nhợt trắng của cái xác cổ bị cột dây. Có lẽ người bạn nào đó đã kéo anh ta một quãng, bị bắn rát phải bỏ lại. Sợi dây xanh dài trên năm thước nhuộm bùn đen mướt. Một tay xác bị bẻ quặt nằm lót dưới lưng. Tướng mặt này chắc được hai ba con. Ai đến trước moi túi dưới áo mưa lôi chiếc khăn tay nâu ra, để nửa trong nửa ngoài. Mấy tờ giấy ướt gần rách, vứt giữa háng cái xác. Bỗng anh thấy một phần của một chiếc nút màu đỏ, nằm mặt trong của vạt áo đã bị mở xệch một nửa để ló ngực và vú bên trái. Anh gỡ chiếc nút. Nó lớn bằng móng tay cái, tròn, chạm hình vàng trên nền đỏ đậm. Lại hình lãnh tụ. Anh lại thấy một cái túi. Nhìn quanh không thấy ai đứng gần, anh mở nút nhanh, cắp ra được một bao nhựa trắng, thoáng thấy có tiền và tờ giấy màu vàng. Anh dúi ngay vô túi quần, đứng lên làm như chẳng có gì. Cái túi nhỏ, may kỹ, nằm gần trong nách, không lột áo ra thì không sao thấy được. Có tiền, a… vài ngàn chăng. Tiền lấy trong trường hợp này là trong sạch, đâu có chi bậy bạ. Đang chơi lại được của. Anh lên bờ định đặt máy xuống nghỉ, nhưng có lệnh cho về.
Nếu được tám ngàn anh sẽ gửi cho Cương sáu, còn hai anh nhậu. Khoái hả! Anh luôn nhớ chiếc xe của Cương. Hình như lúc vừa thấy mép các tờ giấy bạc trong bao nhựa trí anh đã thấy một chớp sáng hiện ra dáng dấp chiếc xe đạp. Nhưng chắc phải có bốn tên địch tốt như thế này thì mới đủ cả tủ sách và quần.
Được nghỉ, bọn anh lại tụm vào tìm thú sướng vui. Anh uống ít thôi, tự nhiên anh thấy trong bụng như có cái gì quậy lên, làm rối rắm, nhưng cũng không hẳn là buồn. Số tiền ngon lành, tờ giấy tên địch viết ấy cái thư lạ lùng. Anh bận nghĩ về mấy cái thư hơn xấp tiền. Nhất định Cương sẽ có trong túi tám ngàn, không phải sáu… Hiệu đã chịu ăn thịt nướng, cụng chén với Nghiêm.
- Nghiêm, nếu tao nói một ngày nào đó đột nhiên tao chạy đến xin cưới con em mày, mày nói sao?
- Chiến xĩ mà… mình cùng là chiến xĩ, chủ quán. Tao sẽ đem hết dâng vào tay mày, chiến xĩ…
Khư khư.. Khứ khứ, chúng nó cười. Hôm nay nữa là dẹp quán. Múc chén chót xong là sẽ tiểu vào nồi rượu, quăng vút ra mương, đập luôn chén, nhổ nước miếng vô tô muối ớt, đập tô, đập dĩa, rồi ngã ra sàn, mơ màng, hít cuốn cho hết vị cay lên đầu. Mai làm gì còn thấy được hình dáng một giọt nước trong.
- Quán, còn được bao nhiêu?
- Hai chén, thưa quan.
- Mày nhường hết cho quan… nghe, nghe không?
-…
Nhưng, uống một mình tao sẽ buồn… thằng kia, nay mùng mấy mà mày cữ riệu?...
Tên địch chết đó viết trong xấp giấy vàng ba bức thư, gửi về một người tình tưởng tượng. Từ trước đến giờ y chẳng có người tình nào. Y gọi nàng là Chung. “Chung, anh thương cái tên em. Sao nhà em lại đặt tên em là Chung. Thủy Chung chăng? Anh vẫn nghĩ mặt em trắng, cằm em dễ thương, và không khi nào em dám nhìn thẳng mặt anh, em chỉ nhìn lúc đứng sau lưng anh.. Hay nhỉ…Có khi nào em tưởng ra nơi anh hiện ở phong cảnh như thế nào? Ruộng, mương, xóm làng nhiều dừa, với dãy núi buồn anh đã quen? Em có biết những con kinh thẳng tắp dài trên ba ngàn mét. Cánh đồng rậm cỏ hoang, ngập nước trắng? Anh ngủ suốt ngày. Em cười hở Chung. Chiến sĩ đâu phải để ngủ. Nhưng thật, như hôm qua anh ngủ từ lúc ăn cơm trưa xong, 10 giờ đến 5 giờ mới dậy. Nhưng hôm nay anh lại thức trọn. Anh đi đánh bót, gần 12 giờ mới đi, nhưng đầu hôm chẳng thể nào nhắm mắt được, dầu anh đi thế này đã quen lắm rồi. Về thì đã gần sáng, anh mệt nằm liền mấy giờ, không nghe gì cả, nhưng không phải là ngủ… Chung, anh thương tên em. Anh sẽ viết cho Chung thật dài, anh nhàn, viết xong chắc lại ngủ, chứ biết làm gì. Anh có tiền, cất kín, xếp thẳng, giá được ở chợ mặc sức tiêu pha… Chung, sao anh không thể gặp Chung được, những hôm…”.
Chiếc máy bay nhỏ, đen, mỏng như một miếng cây khô ra lướt trên chùa. Hiệu bỏ từng cục xương qua kẽ hở giữa sàn nhà, xương rớt xuống ngay miệng cái thùng sắt móp. Anh đi tắm. Nghiêm gặm những tiếng nói: “Mày, ê… nay là ngày mấy…”.
Một chiếc trực thăng bay đến, hạ xuống giữa ruộng. Nước bị quạt tung lên một màn mưa mỏng. Bốn người lính mang xách, súng đạn và một người Mỹ nhảy xuống. Mấy thùng giấy màu vàng đục được xô ngay, tắm nước. Máy bay vừa nhổm lên ngang ngọn dừa thì hai trái đạn ào tới nổ trong góc đám ruộng trước mặt. Nước bắn cao. Anh nằm nép vào thành giếng. Trong nhà la: “Nó đó!”. Toán mới xuống tàu vẫn đứng lớ ngớ, họ chưa biết gì. “Tới bờ… mau lên, nằm xuống”. Anh nghe nhiều tiếng vừa bắn đi từ núi nữa, những tiếng khô và gọn, nghe chẳng xa lắm. Bọn chúng giấu súng trong hốc đá, trong hố, trong gộp, núi này có ngàn hố, khi nào muốn là có bắn phá liền. Phải chúng làm nhanh hơn một chút thì lũ phi công Mỹ thót ruột. Anh phóng nhanh vô nhà, ục xuống hầm mới chắc ăn. Anh chưa đến miệng hầm đạn đã nổ, năm bảy trái ập trúng góc ruộng lúc nãy và một trái nổ sát lưng đống thùng giấy. Bọt xà bông còn bám bệch chân anh. Anh lại ra, làm tiếp. Tắm xong nhìn lại thềm giếng bên kia thì chỉ còn cái quần đùi, cái áo đã biến mất. Anh tìm quanh ấy bờ ruộng, lùm cây, cứ nghĩ chắc đứa nào chơi nghịch giấu đi. Nhưng tìm khắp chẳng thấy, áo mất thật. Ôm cái quần về anh trực nhớ chiếc xe Cương. Cái áo không quí gì cả, nhưng còn số tiền, với mấy lá thư của tên địch. Mấy ngàn bạc. Những hàng chữ nắn nót, một giọng thiết tha nghe hay hay. Lá thư chót anh mới chỉ đọc qua một lần.
Anh không leo lên sàn. Anh thấy lại tên địch nằm, lọ đen, sợi dây siết cổ chặt, nước mương đục chảy chậm qua tóc, qua đầu, ngang qua mình. Hiệu nằm ngửa trên sàn, gối đầu lên tấm lá chuối gói thịt. Đã rồi. Nghiêm cầm cái tô giơ thẳng tay đập xuống cái dĩa. Tô mẻ mòn, và dĩa đã khô rượu.