M ặt trăng tròn vành vạnh treo trên đỉnh tháp, từ bốn phương nhìn lên đồi cứ ngỡ một đài gương khổng lồ vậy. Ánh trăng bàng bạc như sữa loang khằp sơn hà, laị như tơ óng ả giăng mắc khắp đất trời. Làng Lộc Thọ dường như đã chìm sâu trong giấc ngủ, tiếng côn trùng rả rích như khúc hoà tấu của giàn giao hưởng tự nhiên. Phủ Nàng Hai dưới chân đồi đuốc sáng lập loè dưới trăng, cả vùng này là lãnh địa thuộc phủ. Bọn ca nữ ca hát véo von, tiếng trống baranưng tom tom giòn giã, tiếng kèn ống như thôi miên lấy người nghe. Cả phủ tưng bừng đêm hội trông trăng. Bất chợt Nàng Hai ra dấu hiệu bảo mọi người dừng laị và lắng nghe
- Dường như trong gió có tiếng khóc nỉ non? Có ai đó xâm nhập lãnh địa của ta chăng?
Nói xong Nàng Hai cho thị vệ đi khám xét, chừng dập bã thuốc bọn chúng dắt về một cô gái chừng đôi mươi, xiêm y tha thướt, dáng người thanh vận, gương mặt đẹp não nùng, vẻ đẹp liêu trai huyễn hoặc rất thiên kiều bá mị… Nàng Hai giật mình tự nhủ:” Chốn này có người đẹp đến thế sao?”, ngẩn ngơ giây lát, Nàng Hai nói:
- Cô là ai? cớ sao đêm trăng đến lãnh địa của ta khóc than ai oán đến vậy?
Cô gái thút thít khẽ thưa:
- Tâu quận chúa, tôi là kẻ tôi đòi lạc loài lỡ phận, hoàn cảnh đầy đưa lưu lạc đến đây, bước chân vô định lạc đến đây, không biết đây là phủ của quận chúa, xin quận chúa tha tội.
- Cô hãy khai rõ thân phận xem sao- Nàng Hai nói
- Thiếp tên Tiểu Lan, vốn con nhà nghèo ở phía Đông tháp này, vì có chút nhan sắc nên được gả bán cho nhà họ Chất Đa. Ở đất này, họ Chất Đa và họ Chế là vọng tộc laị thông gia với nhau. Ban đầu họ đối xử rất tử tế, cho học nhã nhạc, ca múa… những tưởng sẽ là ca nhi trong phủ, cuộc đời no đủ, cha mẹ cũng có phúc phần… nào ngờ họ có âm mưu tàn độc. Một ngày kia các thầy tư tế đến phủ họ Chất Đa lập đàn cầu đảo cúng tế suốt ba ngày đêm liền. Thiếp cùng các ca nhi khác được cho uống rượu say bí tỉ, sau đó bọn họ nhét vào miệng mỗi người một củ linh sâm ngàn năm và đem tuẫn táng dưới chân tháp này. Một số tuẫn táng ở mộ phần nhà họ Chất Đa, số khác ở mộ phần nhà họ Chế. Trong huyệt đạo mộ phần nhà họ Chế, cất giấu vô số vàng bạc châu báu và đồ tế khí. Bọn thiếp bị yểm trong huyệt mộ, trở thành thần giữ của cho chủ nhân. Bọn thiếp trong huyệt mộ cả nghìn năm rồi, không sống mà cũng chẳng chết. Huyệt mộ trải qua bao lần binh đao loạn lạc cùng thiên tai nhưng chẳng hề hấn gì. Mãi cho đến năm canh dần, bọn trộm mộ khoét thủng quách, phá quan. Chúng lấy hết vàng bạc châu báu và gỡ luôn miếng bùa yểm bằng lưới vàng ròng trên mặt thiếp, nhờ thế mà thiếp thoát ra khỏi huyệt mộ này. Kể từ đó thiếp vất vưởng khi đồng hoang bờ bụi, khi tá túc dưới hiên tháp rày đây mai đó…cho đến hôm nay thì lạc bước vào phủ quận chúa vậy!
Nàng Hai ngậm ngùi:
- Kể cũng đáng thương thật! người ta bảo hồng nhan bạc phận, không có phận nào giống phận nào, cùng sinh ra kiếp đàn bà, phần nhiều đều chịu thiệt thòi và đau khổ. Giờ cô tính sao?
- Thân thiếp người khác chiếm, hồn thiếp người khác đoạt, thiếp như chiếc lá bay trong gió bụi còn biết tính được sao?
- Vậy thì cô hãy ở laị đây, nếu muốn – Nàng Hai nhẹ nhàng nói Nghe thế, cô ta sụp lạy tạ ơn Nàng Hai và thưa
- Tạ ơn quận chúa đã có lòng bao dung, thiếp xin đem thân hầu quận chúa.
Đêm hội trông trăng trở nên lắng xuống, buổi tiệc dở dang. Bọn tì nữ trong phủ lặng cả người, cái khổ của bọn họ xem ra không ăn thua gì so với cái khổ của nàng ma nữ mới đến; cả nghìn năm rồi, không sống mà cũng chẳng chết! ai cũng suy tư theo đuổi ý nghĩ riêng của mình. Những ngọn đuốc dường như cũng cảm thông nên chập chờn lung linh. Bóng trăng càng về khuya như đặc quánh laị tựa dòng ánh sáng sữa, laị như tơ trùm lấy cảnh vật quanh phủ. Nàng Hai dịu dàng cất tiếng:
- Ta vốn con gái thị tộc Cau, mười sáu tuổi về làm vợ Chế quận công. Nhà họ Chế danh giá nhất vùng, của cải nhiều vô số, quân binh và kẻ hầu người hạ đông nhất thiên hạ. Những tưởng vậy là phúc lớn nhưng có ai thấu nỗi khổ của ta. Quận Chế vốn hào hoa nhưng laị là tay đoan tụ bạo dâm, đêm tân hôn của ta biến thành địa ngục kinh hoàng. Quận Chế trói ta và dùng roi da quất đến tứa máu. Y laị treo ngược lên xà nhà, y xé áo quần ta, y dày vò ta với những trò quái đản mà một cô gái mới lớn không sao tưởng tượng nổi. Y hành hạ ta cho đến tàn canh mới thôi! Sáng hôm sau y qùy dưới chân xin lỗi và nuông chìu ta. Ta những tưởng nhất thời nên gật đầu tha thứ, nhưng nào ngờ sau đó laị tiếp tục tái diễn. Ta khóc cạn nước mắt, toan tính cả quyên sinh . Đời con gái mới lớn, trong trắng thanh tân laị gặp phải cảnh kinh hoàng như vậy! Thế rồi ta cấn thai, kể từ đó coi như thoát khỏi cảnh ân ái của ác quỷ. Chế quận công vẫn thường đi săn lùng bọn đồng nam đưa về phủ mà hành lạc. Y mua con nhà nghèo khó về với danh nghĩa làm nô bộc nhưng thực chất là nô lệ tình dục. Thỉnh thoảng ta cũng có nghe nói hoặc chính tai ta nghe tiếng thét của bọn đồng nam nhưng không ai dám hé răng, có đôi khi người ta báo có đứa đồng nam mất tích… nhưng tất cả rơi vào im lặng đáng sợ! suốt cuộc đời ta, những lần ân ái đếm không đủ mười đầu ngón tay, nhưng cứ mỗi lần nghĩ đến ta còn sợ són cả đái. Sống trong nhung lụa của phủ nhưng lòng ta héo hon, có những đêm trăng cái cảm giác cô đơn nó giày vò ta, sóng tình khao khát nổi lên… ta ngồi dưới trăng đêm mà tê tái cõi lòng. Thế rồi một năm kia, Đaị Việt tấn công đến đây. Chế quận công chết trận, ba vạn thủ cấp quân binh bị chém. Ta và toàn bộ thị tì bị bắt và đem chia cho các tướng Đại Việt. Ta không chịu ô nhục nên nhảy xuống sông tự vẫn, một số thị tì khác cũng chết theo. Mất thân rồi, ta dễ dàng tìm về chốn cũ nương náu. Phủ Chế quận công ngày xưa huy hoàng lắm, giờ bị đốt phá tan hoang, miếu đường tro bụi, mồ mả vỡ tan, riêng ngọn tháp này vẫn còn sừng sững dù có bị loang lở tang thương.
Nàng Hai dứt lời, giọt lệ nhẹ rơi. Cô Tiểu Hương, Thị tì thân cận dâng mảnh khăn lụa để Nàng Hai lau lệ. Nàng Hai laị nói:
- Thôi, chuyện ngày xưa đủ rồi, giờ ta trở laị tiệc đêm trăng này! Bọn nhạc công lại gõ trống, tiếng trống nghe vọng lại tựa ngàn xưa; tiếng kèn sao não nuột quá, không còn vui như thuở ban đầu; lời ca của ca nhi cũng não nùng như nỗi lòng của người oan phụ, laị nỉ non ai oán như khúc ca vong quốc.
Bất chợt tiếng gà râm ran gáy từ hướng làng Lộc Thọ. Nàng Hai cùng cả bọn ma nữ giật mình đứng dậy. Cả bọn lập tức biến mất, một làn sương khói mỏng manh mơ hồ bay lên trên tháp. Người làng Lộc Thọ lục tục thức dậy , kẻ nấu cơm ra đồng, người đi phiên chợ bên kia sông.
Mặt trời lên nhuộm đỏ cả tháp và ngọn đồi. Bọn trẻ chăn bò làng Lộc Thọ lùa bò đi ngang qua khu gò mả dưới chân đồi. Chợt thằng An reo lên:
- Nhìn kìa tuị bay! Hũ, lu, bình, chén… ai bỏ tùm lum kia.
Thằng Tịnh có vẻ chững chạc, rành rõi:
- Đồ Hời đó! bị ếm rồi, lấy về xui xẻo lắm!
Thằng Thắng cãi:
Xui gì mà xui, lấy về để ngoài sân làm chậu kiểng, hoặc để chứa thức ăn cho gà vịt cũng tốt.
Thế rồi cả đám nhao nhao lựa những món nào còn tương đối lành lặn, ít sứt mẻ đem giấu vào mấy bụi duối, dú dẻ quanh đó. Đến trưa về ăn cơm sẽ mang theo
Bà Tám le te đi chợ về, kéo ông Tám laị xì xầm:
- Nay tui đi chợ, người ta đồn:” Đêm qua ông Bảy Xị ra vườn đái, thấy đuốc ma Hời xanh lè, dễ chừng có mấy mươi ngọn luôn, laị nghe tiếng hát nỉ non nên sợ xanh mặt, không kịp kéo quần chạy ngược vô nhà đắp mền nằm run như cầy sấy, giờ còn sảng thần, hâm hấp sốt.”
Ông Tám xì một tiếng:
- Tưởng chuyện gì? đuốc ma Hời đêm trăng xưa nay thấy hoài, nhiều người thấy chứ mình chả thấy sao? Hồi cha còn sống, cha kể có đêm trăng cha thấy ma Hời kéo binh lên trắng cả ngọn đồi kìa!
Bà Tám lắc đầu, lè lưỡi:
- Nếu tui mà gặp chắc chết điếng mất, ông có ra vườn đái giữa đêm thì hãy cẩn thận!
Ông Tám không ừ hữ, uống cạn chung rượu Bầu Đá rồi ngâm:
Lập loè xanh đuốc ma Hời
Nỉ non tiếng hát bên trời tiếc thương
Mịt mờ vết cũ màn suơng
Đồi hoang tháp lở miếu đường quạnh hiu
Ngọn cờ lay lắt liêu xiêu
Cung nga thể nữ mỹ miều xương khô
Công hầu chung một nấm mồ
Tàn canh trăng lạnh cơ đồ khói bay
Ngàn đời khóe mắt còn cay
Cô phong đỉnh tháp tháng ngày phế phong
…
Chợt thằng An lùa bò về đến cổng reo:
- Ba ơi! Con lầy được mấy cái hũ ngoài mả Hời nè, tuy sứt mẻ một chút nhưng còn tốt để làm chậu kiểng trồng bông.
Ất Lăng thành, 9/2019