Đ ầu tiên là triệu chứng khó thở kéo dài nhiều giờ. Đó là điều khó hiểu với một người không phải là cuờng tráng song sức khỏe có thể được gọi là sung mãn như ông. Bác sĩ riêng đã loại trừ ngay cái bệnh buộc phải lập tức i-zô-lê ( biệt lập), hoành hành bởi con vi trùng mang tên một nhà bác học Đức. Nơi ông ở cũng chưa đến nỗi phải suốt ngày đeo mõm chó cả khi ra đường lẫn ở trong nhà như thành phố Bác Ki nọ mù mịt bụi khói gần đây mà ông thường thấy trên phim, ảnh. Vậy thì với riêng ông không phải do ô nhiễm không khí! Phim chụp được xem xét kỹ lưỡng chỉ đi tới kết luận đó là phổi của một người bình thường, thậm chí khỏe mạnh. Song song với khó thở, trên thân ông bắt đầu xuất hiện những vẩy nến hình vây cá, thoáng nhìn thì tưởng đâu như sản phẩm của tục xăm mình đời xưa hay thói vẽ trang trí thời thượng. Những phác đồ điều trị của những bác sĩ giỏi nhất cả thành phố lẫn Trung ương đều dẫn đến những kết luận im lặng chất chứa ưu tư. Một người bạn học thuở cởi truồng tắm sông tới thăm để nhờ vả một suất công chức cho con trai, bất ngờ thấy ông chợt ngáp ngáp mà không kịp che dấu thì kinh hoảng kêu lên:
- Bác làm sao thế!
Ông vội lấy lại ngay phong độ quen thuộc của một quan chức đương quyền. Trước vẻ hối lỗi ra mặt của ông bạn vì đã vô tình chứng kiến khoảnh khắc thất thế của người mình đang phải quỵ lụy xin xỏ, ông cuời độ lượng:
- Không sao. Không sao! Chúng mình cũng đều sắp bước vào cái tuổi "lục thập nhĩ thuận" rồi còn gì! Tức là nghe tai này đưa sang tai kia!
Cả hai đều cuời vang làm cho câu đùa có thêm sự thâm thúy, tăng thêm tình thân mật bỗ bã. Nhưng, giá như ông bạn đừng thêm một lần nữa vô tình khi nhắc tới bộ phim Người cá của điện ảnh Liên Xô mà hai người từng xem thời chiếu bóng ngoài bãi. Ông bạn về rồi, ông chìm đắm trong hồi ức tuổi thơ xót thương cho nhân vật Người cá bị bọn xấu săn đuổi, bắt cóc để mò ngọc trai cho chúng, để rồi không còn khả năng thở trên đất liền được nữa, phải vĩnh viễn chia lìa người yêu và sống trong lòng biển cả... Tình xót thương đó chìm không sủi tăm có lẽ bắt đầu từ ngày ông cùng thế hệ ông được giáo dục căm thù vĩ đại, và sau đó bị bắn phá tả tơi suốt cuộc hành trình của ông chinh phục quyền lực. Dù sao thì ông cũng biết ơn người bạn nhắc ông nhớ đến cái thùng nước trong xà lim mà cậu thanh niên Ich-chi-an bị nhốt vào đó suốt mấy ngày đêm.
Ông cho gọi đứa cháu nội đích tôn 10 tuổi vào. "Hình như có lần cháu muốn nhà mình có một bể cá vàng?"- "Vâng! Ông hứa với cháu lâu rồi mà"- "Ừ. Bây giờ ông sẽ thực hiện lời hứa. Nhưng... Bể cá để trong phòng ông nhé, để hai ông cháu ta cùng ngắm cá vàng. Ông cũng thích cá lắm". Bể cá to hai ngày sau đã xuất hiện theo ứơc nguyện của thiếu gia họ Nguyễn. Bể cá không đặt trong phòng khách như thông lệ của các ngôi biệt phủ thời nay chẳng làm bà chủ và các thành viên gia đình thắc mắc nhiều, vì đó là ý muốn của đại lão gia đầy quyền uy. Ông còn cầy cục nhờ một người bạn quan chức ở Hà Nội lùng mua bằng được bộ tranh dân gian Hàng Trống Lý ngư vọng nguyệt mà theo bạn ông kể lại việc này cũng khó gần như tìm trăng dưới nước! Nể ông, người bạn đã vất vả tìm đến một nhà nghiên cứu mỹ thuật dân gian, ông này lại dẫn tới một vị buôn tranh, thế rồi, cặp tranh quý phô trương tinh thần yêu vốn cổ dân tộc chỉ sau một tuần đề nghị đã chình ình trong phòng ông, bên trên bể cá lớn. Nhưng trước khi có đôi bức tranh cá đủ đực cái này, chú bé thiếu gia đã sung sướng đến mê mẩn, vì những con cá vàng đang bơi lội tung tăng kia mới là kẻ biết tâm sự, biết chia sẻ với nó trong khu lâu đài bí hiểm với những người lớn thoắt hiện thoắt ẩn lúc nào cũng mang vẻ mặt nghiêm trọng chứa đựng mưu mô, toan tính căng thẳng.
Nhưng niềm vui của cậu bé mau chóng bị ô nhiễm, khi một lần đi học về, nó vào phòng ông, thấy người ông đáng kính đang vùi cả mặt trong bể cá tranh hít thở không khí trong lành với những con cá vàng tội nghiệp quẫy đuôi tuyệt vọng khắp tứ phía. Nó hét lên như tường nhà đổ sập vào người nó, vì hoảng hốt nhiều hơn là vì thương ông hay lo cho số phận mấy con cá. Phải tới khi thằng bé bíu hai tay như đu vào vào người ông gào khóc, ông mới chợt tỉnh, giật đầu ra khỏi bể cá. Nước bắn tung tóe vào người thằng bé, rải ướt một khoảng tấm thảm nhung mà bình thường ông rất chăm chút giữ gìn. Ông giận mình vì sự bất cẩn quá đáng không được phép xảy ra: mọi ngày đi làm về, ông vẫn khóa kỹ cửa, phòng khi cơn nghiền ô xy hòa tan trong nước nổi lên như bão tố. Còn ra thể thống gì nữa: tranh nước với mấy con cá nhép! Ờ, nhưng nó là đứa trẻ con, cần lý giải thế nào chẳng được, bịp cũng chẳng sao, bởi mục đích mới là quan trọng, phương tiện đâu đáng kể! Ông chợt hối tiếc là đã không dành thời gian để đọc truyện cổ tích để có kiến thức và cảm hứng lý giải sự kiện trên theo hướng huyền thoại hóa. Tuy thế, bản năng làm cha làm ông cũng đã được phát huy tối đa đặng yên lòng thằng bé: ông kể lại câu chuyện phim Người cá - bằng trí nhớ lõm bõm và thiên lương bẩm sinh của mình, rồi giải thích: ông muốn thử xem cái cảm giác của Người cá sau nhiều ngày bị tách rời môi trường nước ra sao thôi mà... Ông còn gài sẵn một tiền đề lý thuyết ngộ nhỡ sau này mọi chuyện vỡ lở, thằng cháu đỡ bất ngờ: đó là chuyện khoa học viễn tưởng cháu à, nhưng thực tế trên thế giới ngày nay đã cho thấy, không ít chuyện là viễn tưởng đã trở thành hiện thực... Thằng bé bị thôi miên trong câu chuyện Người cá tới độ quên phứt hình ảnh kỳ dị của ông lúc nãy, ngẩn ngơ tưởng tượng một con người cô độc bơi dưới đáy đại dương.
Nhưng sự cố trên đã không bị hòa tan trong muôn vụ việc ngớ ngẩn tầm phào hoặc biến mất giữa đời thường, nó trở thành sự kiện hệ trọng bí mật được truyền tai của các thành viên trong nhà, các Ô sin, đầu bếp, làm vườn. Bắt đầu từ việc thằng bé đòi bố tìm trên mạng internet bộ phim cũ Người cá để xem đi xem lại dăm lần. Rồi sau khi cao hứng xi-nê mồm lại cho mẹ nó nghe, nó liên hệ tới chuyện ông chui đầu rất lâu vào bể cá. "Con biết bịa chuyện từ lúc nào thế?"- "Con thề. Con không bịa. Hôm nào bố mẹ rình mà xem." Tò mò vốn là một đặc tính của trẻ con. Nhưng rình mò lại là một thói quen chẳng hay ho gì của những người trong nhà đã lây sang thằng bé. Nó đã bị rình mò khi kể chuyện, lại đến lượt nó rình mò người khác xì xầm chính câu chuyện do nó khơi ra. Và từ đây, chuyện chui đầu bể cá, cộng với những dấu hiệu kỳ lạ xuất hiện ở của ông chủ bịt chỗ này lòi chỗ khác đã không còn là chuyện hư thực lẫn lộn nữa, đã hóa sự thực kinh hoàng buộc người ta dần phải làm quen: ông ấy đang từng ngày từng giờ biến thành một con Cá lớn mà ngư dân vùng này những năm trước đây còn thường nhìn thấy hoặc đánh bắt được!
Từ ngày xin nghỉ dưỡng bệnh, ông đã tự thiết kế căn phòng riêng thành một pháo đài nhỏ, đề phòng sự đột nhập bất ngờ của vợ con, các cháu và người phục vụ. Ông đã cho làm một cái bể cá khác ngoài phòng khách, ngoài những con cá cũ chuyển ra còn có cá hề Nê mô theo yêu cầu của thằng cháu. Còn bể cá trong phòng, ông bí mật nhờ một đàn em thân tín tới kê hộ tới một chỗ kín đáo (Ông không ngờ hậu quả là thằng này đã rỉ tai con vợ về ông, rồi chuyện loang tới khắp cơ quan. Nhục thế!). Khi cửa mở ra, trước hết mọi người sẽ chỉ thấy bộ bàn ăn mà theo lệnh ông, nguời mang đồ ăn chỉ được đem vào đặt rồi phải quay ra ngay, bát đũa bẩn cũng thế. Ông lụi hụi lôi tấm bình phong quý bằng gỗ quý khảm ngà voi được biếu năm ngoái bó gọn chờ dịp để biếu sếp cao cấp, đặt ở phía trái căn phòng, đó là nơi ông náu thân nhìn ra khi có người tới. Dạo này, đôi chân ông đã bị thu ngắn lại rõ rệt và mềm oặt, đi lại cực kỳ khó khăn, nhiều lúc phải di chuyển bằng cách lết người đi. Khổ nhất là khi vào toa-lét. Có lẽ phải đặt làm một đôi nạng đặc biệt. Nhưng nạng thì phải xử dụng tới đôi tay, mà đôi tay ông cũng đang dần teo đi, dúm dó, theo hình chiếc vây cá. Chả lẽ phải đặt làm cả đôi tay giả nữa? Tranh thủ khi chưa biến mất đôi tay với chức năng thiên phú của chúng, ông nén đau kiểm lại những gói tiền to như cục gạch hay chỉ là những phong bì giá trị bằng mấy cái "cục gạch" cộng lại mà người ta chủ động hay "vô tình" để lại phòng làm việc của ông tại tư gia. Thì đã có lúc nào rảnh rỗi để ngắm nhìn cho thỏa các đồ trang sức quý giá, những đồng tiền mồ hôi nước mắt (hay cướp đoạt) của người khác mà ông có được nhờ lao tâm khổ tứ (chứ không phải âm mưu) chinh phục người này (chứ không phải quỵ lụy) hay dạy bảo người khác (chứ không phải trừng trị) trong sự nghiệp công quyền mà cấp trên đã lựa chọn ông một cách xứng đáng nhờ vào lý lịch cống hiến đỏ chót và một truyền thống gia đình Cách mạng nòi. Ý thức cảnh giác chợt đến với ông trọn vẹn trong những ngày kỳ dị khó hiểu này. Ông bí mật gọi điện cho thằng cháu yêu (ông đã cho nó một chiếc điện thoại di động xinh xắn để liên lạc riêng với ông). Ông nhờ nó lén đi mua bộ đồ của thợ nề.
Khốn khổ cho thằng bé, bị bố phát hiện ra bộ đồ nghề này trong ngăn bàn học. Nó chưa học được thói dối trá của người lớn, tái mặt khi bố tra hỏi. Ông con trai hùng hổ tới phòng bố. "Ông sai cháu nó mua mấy thứ này làm gì ạ?" Sau bức bình phong, ông thểu não bằng giọng rin rít khê nồng: "Thì để bố luyện đôi tay cho cứng cáp thôi mà..." - "Thế ông đục tường hay đào nền nhà?" Ông bỗng vô cớ nổi xung lên:" Thì đào cái mả mẹ chúng mày ấy! Đồ bất hiếu bất mục!" Ông con ngán ngẩm ném choang bó búa đục giữa nền nhà. "Tùy bố, bố muốn làm gì thì làm. Chỉ là chúng con lo cho bố thôi..." Thế là đi tong một ý đồ hay ho. Chả là, ông đánh hơi đựơc một cuộc "đả hổ diệt ruồi" mô phỏng nào đó sẽ diễn ra nay mai. Ông cần tìm cách chôn giấu của nả làm vốn riêng dành cho tuổi già. "Đồng tiền liền khúc ruột" mà. Vậy là âm mưu của ông đã bị thằng quỷ sứ vô tình bóc mẽ! Nó đã phá của ông biết bao là tiền của trong lần đi học nước ngoài mà ông sĩ diện bảo hàng xóm là "đi bằng học bổng toàn phần"! Mấy năm ở xứ châu Âu đắt đỏ, nó tranh tài "vung tay đốt xô nhà táng" với các quý tử Đỏ phương Bắc, chẳng biết có lọt vào đẳng cấp nào không song đã kịp trở thành một truyền nhân xuất sắc của Đông Joăng (Ông biết đến tên tuổi anh chàng sát gái trời Tây nọ qua tay thư ký Ủy ban xuất thân là giáo viên văn hết lộc gõ đầu trẻ lại bén duyên hoạn lộ). Vớt vát được cái chứng chỉ mác ngoại, nó về nước, ông phải chạy vạy tốn kém không kể xiết để nó vào chân trưởng phòng một ngành nghề béo bở, kiếm chác sao cho hòa vốn trong lúc chờ đợi cơ cấu mới cho cán bộ nguồn lớp trẻ. Cũng may trời thương nên nó đã biết chí thú làm ăn theo hướng đạo của ông, lấy vợ sinh con, và ông có kẻ nối dõi tông đường. Dù kiến thức khoa học lượm lặt từ trời Tây về chưa được đầy nắm tay, về mặt thủ đoạn quan trường xem ra nó có thể vượt qua ông. Nhưng về mặt "đạo đức tiền bạc", cần phải thử thách nhiều, nó có máu "trăm ngàn đổ một trận cười như không" trước gái đẹp được thừa hưởng từ dòng giống nhà ông.
Đúng lúc đó, vợ ông đi qua, bĩu môi ừ hữ một cái rõ to: "Kệ ông ấy! Đang tu nhân tích đức đấy mà!" Lần đầu tiên biết rõ tình cảnh khốn nạn của ông, bà ta tới đứng trước phòng ông khóc hờ như ông đã về nơi chín suối. Thực lộn ruột! Bà ta đang tuổi hồi xuân, xét về khía cạnh đó thì chưa phải là nỗi lo lắng lớn nhất của ông. Bà ta bí mật qua lại với những kẻ ham của lạ nào cấp trên của ông, ông thừa biết song đành "ngậm bồ hòn làm ngọt". Làm to chuyện ra, thiên hạ lại có cớ xiên xẹo: đã đem vợ làm bậc tiến thân mà còn cay cú. Dại mặt. Lại tự chặt cầu của mình. Không khéo, vợ ông sẽ là kẻ "nuôi ong tay áo". Nhiều vụ đưa - nhận hối lộ là do bà ta đứng ra thay ông. Cũng có vụ, bà ta dám vượt qua mặt ông để mặc cả với hai bên - đối tác và ông. Lòng tham của một người đàn bà ít nhiều có nhan sắc khi đã thức tỉnh "bản mặt kim tiền" thì thực là hỏa ngục đối với chính họ và những người có liên quan. Nhưng hỏa ngục ở đây lại có gương mặt của những giá đồng Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng ngàn, Mẫu Thoải. Mấy năm qua, bà ta đã "lên thác xuống ghềnh" khắp các phủ đền Bắc - Trung - Nam, lại tự lập một đền Mẫu ngay tại nhà và làm thủ lĩnh một đám đông con nhang đệ tử cuồng nhiệt. Chủ yếu là bằng tiền của ông chứ đâu phải lá đa nhặt ngoài đường hay ăn mày Phật - Mẫu! Toàn bộ tầng tư của tòa lâu đài là thế giới riêng của bà ta, và chắc hẳn có một căn buồng riêng dành đón tình nhân mà từ nay trở đi, ông chỉ có thể "bái vọng" từ dưới lên! Nghĩ mà căm.
Thôi kệ, có lẽ ông phải tập Thiền tự bây giờ. Đâu rồi nhỉ, cuốn sách tập Thiền người ta tặng năm nảo năm nào, đang ẩn náu ở đâu rồi? Phải bảo thằng cháu lục khắp xó xỉnh để tìm bằng được. Nhưng cái ý chí của những người mong lấy sức mạnh tĩnh tại nội tâm làm chủ ngoại giới vừa xuất hiện cổ vũ ông thì cũng là lúc ông cảm thấy những cơn đau buốt khắp tứ chi đang đến thời kỳ thoái hóa kịch liệt. Sự bàng hoàng kinh sợ ban đầu qua đi, ông dần dà thấm thía nỗi đau đớn tâm can dày vò, nó lấn át nỗi đau thể xác. Những kẻ hàng ngày xun xoe bợ đỡ ông để được ông chú ý nâng đỡ hoặc mong lợi dụng ông, từ ngày biết ông lâm cái nạn vô phương cứu chữa thì biệt tích, mịt mù tăm cá! Vì đâu mà ta nên nông nỗi này hở giời? Trời - Phật ở xa quá, mà bao năm nay ông có thèm ngó ngàng gì tới các Ngài đâu, thậm chí phỉ báng như một kẻ vô thần đầu bảng, mong phép thần cứu giúp chỉ là ảo tưởng!
Cũng may là có một người trần còn có lòng thương thực sự đã giúp ông trong đận gieo neo này: đó là ông lão làm vườn cho nhà ông theo buổi. Thường ngày, có bao giờ ông hạ cố nhìn tới một kẻ lao công hạng dưới đáy làng xã như lão, chứ đừng nói tới trò chuyện để hiểu về gia cảnh, tâm tư của nhau! Đứa cháu đích tôn dường cũng bằng trực cảm trẻ thơ nhận ra tấm lòng ông Bụt ở lão làm vườn. Những việc ông nhờ nếu vượt quá sức của nó, nó liền chạy tới ông Bụt. Như việc mua đồ đục đẽo tường gạch và xi măng. Như việc mua một ống bơm nước nhỏ từ bể cá tới miệng ông cùng cách vận hành thuận tiện nhất đối với một người mà chuyện đi lại và xử dụng mọi vật dụng đã tựa cực hình... Lần đầu tiên, ông có vẻ khó chịu, ngượng ngùng trước ông lão tình nguyện đến giúp ông từ việc trở mình, ngồi dậy, bón cháo, thấm từng chiếc khăn đẫm nước lên mặt đến những việc khó khăn vất vả trong nhà vệ sinh. Nhưng, ông không nhận thấy bất cứ một sự ghẻ lạnh, khinh ghét, ghê sợ nào từ ánh mắt cử chỉ lão, ngoài một thoáng ngạc nhiên ban đầu để rồi thay thế bằng một niềm xót thương, sản phẩm nguyên thủy nhất của lòng nhân từ. Ông bắt đầu láng máng nhớ lại những câu chuyện, những lời ca của bà năm xua đu võng ru cháu kể về lẽ đời quả báo, tham thì thâm, người tốt được đền bù kẻ xấu bị trừng phạt ra sao...
Ông lão làm vườn khắc khổ, ít nói ít cười, làm cái việc do thằng bé nhà chủ nhờ vả như một sứ mệnh làm người vậy, không hề cò kè đòi hỏi công xá. Khi ông chủ rụt rè dúi hai tờ 100 ngàn đồng vào tay lão, lão giật tay ra như phải bỏng, nhìn lên ngơ ngác. "Tôi lĩnh tiền làm vườn rồi ông ạ. Xong vườn, chưa hết giờ, tôi giúp ông thôi". Lâu lắm, giờ đây ông mới ước ao được dào nước mắt cho vơi nỗi cô đơn và biểu lộ lòng biết ơn chân thật. Nhưng đôi mắt ông đã dần biến thành mắt cá chỉ có thể mở thao láo cả khi sống lẫn lúc chết ngửa bụng, và các dòng máu trong người ông đã gần lạnh tanh như máu cá mất rồi! Muốn khóc mà không sao khóc được phải chăng cũng là một nỗi đau đớn tinh thần đáng kể trong sự trải nghiệm đầy rẫy những tả pí lù của cuộc sống mà tới tận hôm nay ông mới cay đắng nhận ra? Lần đầu tiên, sau bao năm tháng dài ngầu đục tham vọng, ông mới lờ mờ nghiệm thấy: tình thương mới là điều cần thiết nhất, quý giá nhất trong cõi đời ngắn ngủi này... Dù sao thì lão làm vườn, như một quản gia trung thành tận tụy đã giúp cho ông bớt đi bao nỗi nhọc nhằn khổ sở trong việc Tồn Tại với tư cách là một Sinh vật - Người suốt hai tuần lễ liền.
Một buổi chiều tối, lão mang khay đựng cháo vào phòng ông chủ (Con trai ông và mấy Ô sin đã ngán ngẩm làm việc này quá đỗi, và có bữa đã quên, để ông nhịn đói. Mặc dù dạ dày cùng phủ lục ngũ tạng đã bị teo đi, bị lấp gần hết bởi các bong bóng, ông vẫn còn chút cảm giác sinh học cuối cùng này của con người). Sau khi lão cho ông chủ mút mát được ít cháo bí ngô (cũng là do lão cầy cục nấu bằng lá khô vun trong vườn), lão nhẩn nha kể tiếp về gia cảnh mình. Chuyện bà vợ mất vì ung thư, chuyện hai thằng con trai đã hy sinh ở chiến trường thì ông đã kể. Còn chuyện thằng cháu trai độc đinh của lão, thê thảm quá, giờ lão mới kể, khi thấy tâm tư của ông chủ bớt xáo động trước thân thể mới, và xem ra đã có vẻ biết quan tâm đến người khác thấp kém hơn mình, dù chỉ để san sẻ bớt nỗi đau... Nó mồ côi cha năm 7 tuổi. Mẹ nó bỏ ra thành phố với người đàn ông khác. Lão phải gà trống nuôi cháu. Khi nó học hết cấp hai, lão không còn khả năng cho nó học tiếp được nữa, đành cho theo lão lên thuyền câu mực kiếm sống qua ngày. Rồi nó cũng trở thành một chàng trai vùng biển lực lưỡng. Vì giỏi bơi lội và sức khỏe tốt, nó được một công ty du lịch tuyển vào làm hợp đồng, chuyên giúp khách du lịch mạo hiểm lặn đáy biển. Nó say công việc lắm. Tối về nhà, nó thường kể cho ông nội nghe không biết chán về những rạn san hô, những đàn cá và muôn loài sinh vật kỳ lạ dưới biển. Nó đã thổ lộ với lão: nó muốn học bổ túc hết cấp ba, sau đó xin vào học ngành Hải Dương học, theo gợi ý của một du khách cảm phục lòng yêu biển của nó và hứa tạo điều kiện giúp nó thực hiện mơ ước. Nó đã cầy cục xin, mượn biết bao là sách liên quan tới biển đảo: lịch sử, văn hóa, du lịch, kinh tế Biển, những thương cảng sầm uất của quốc gia Đại Việt... Lão đã thuộc tên nhiều cuốn sách nó mang về: Bảo tồn đa dạng sinh học dải ven bờ Việt Nam, Luật Biển Việt Nam, Kể chuyện Biển Đảo Việt Nam, Hoàng Sa - Trường Sa là máu thịt của Việt Nam, Lý Sơn đảo du lịch lý tưởng, v.v. Lão đang nhờ nó chọn đọc và giảng giải từ mấy cuốn sách mà theo lão nghĩ rất cần thiết đối với lớp người cùng đinh như lão. Tối đó, lão chờ nó về để đọc nốt cuốn "Hoàng Sa - Trường Sa nghiên cứu từ sử liệu Trung Quốc". Mâm cơm lão để phần, nó không buồn động đũa bát, mặt nặng như chì lưới. Gặng hỏi mãi, nó mới thốt lên nặng nhọc, như mếu: "Chết hết rồi"- "Cái gì chết?"-"Biển chết rồi... Các rạn san hô...Các con cá... Các con sò...Chết cả rồi..." Nó bất giác ôm mặt khóc rưng rức. Chỉ hôm sau, cá chết nổi lên trắng xóa dọc biển hàng chục cây số, cả trên bờ lẫn dưới nước... Lão kể đến đó thì chợt dừng lại khi thấy vẻ mặt nhăn nhó của ông chủ. "Đau xót quá! Đau xót quá!" Ông chủ thốt lên. Lão làm vườn nghĩ rằng mình đã tìm được sự đồng cảm, nên hăng hái kể về những diễn biến sau đó làm chấn động vùng biển quê lão và gây nên cả một cơn bão tâm tư khắp nước, khắp thế giới. Lão nghĩ đúng. Nhưng lão không thể biết, cảm thán của ông chủ là chân thực chỉ trong giây phút đó, còn ở trong những ngày bi thảm của biển hơn tháng trước, nỗi đau xót ấy nghiêng nặng về mối lo quyền lực riêng sẽ bị lung lay, đe dọa. Lời lão kể đầm nước mắt, khiến ông chủ cũng phải ngậm ngùi: Ngay hôm cá chết hàng loạt, thằng bé rủ hai người bạn mặc đồ lặn xuống biển. Chúng nó nhìn thấy một ống xả khổng lồ dài khủng khiếp chạy ngầm từ Tổng công ty X chọc thẳng tận đáy biển. Xung quanh và bên dưới ống xả, màu nước biển chỗ vàng khè chỗ đen tựa hắc ín, khắp một vùng rộng quanh đó không còn sinh vật nào còn sống sót, cá chết sếp thành chồng, tảo biển và san hô cũng thâm sịt cả lại. Chúng vội ngoi lên trong nỗi kinh hoàng chưa từng gặp trong đời. Hai đứa sau đó gặp nhà báo và quan chức môi trường kể lại, rồi từ hôm đó biến đi đâu mất, gia đình, bè bạn không ai biết mảy may tin tức. Còn cháu lão... Lê về tới nhà, mặt nó đã xám ngắt. Nó nôn thốc nôn tháo ra mật xanh mật vàng pha lẫn một thứ nhầy có màu sắc thực kinh dị. Đưa tới bệnh viện thì nó tắt thở, bác sĩ nói nó đã bị nhiễm độc rất nặng...
"Trời đất ơi! Ngờ đâu số phận nghiệt ngã lại rơi trúng cháu lão làm vườn tử tế đây!" Sau khi bật cảm thán nội tâm học lối xuống xề cải lương mà ông ưa thích, ông tìm cách lựa lời an ủi lão thì thằng cháu đích tôn đột ngột phá tan sự nặng nề. Hóa ra, nó đã ở trong phòng ông từ bao giờ và nghe được hết mọi chuyện.
- Hai ông ơi, thế liệu có còn người chết nữa không ạ?
Ông nghệt mặt ra ú ớ. Lão làm vườn cũng ngắc ngứ. Nếu là mọi khi, ông sẽ chỉnh thằng bé về cách xưng hô: không thể nói gộp "hai ông" như vậy, vì thế là xóa nhòa đẳng cấp giữa ông và người lao công thấp hèn. Nhưng cái bài học đạo lý thời mới rất xứng đáng với gia phong nhà ông đó bỗng trở thành nhảm nhí trước nỗi đau đớn vô hạn của lão Bụt - theo cách gọi của cháu ông. Một ý vụt đến tựa phần thưởng muộn mằn đối với ông: bản chúc thư đang viết, ông sẽ thêm vào phần phân chia tài sản, trong đó có một khoản lớn dành cho quỹ học bổng ngành Hải Dương học, một khoản trợ cấp nhỏ dành cho lão làm vườn...
- Ông nội ơi, cháu ra biển tắm nhé!
Ông thở hắt. Lão làm vườn vội đưa ông cái khăn đẫm nước đắp vào mặt. Ông gần như gào lên giữa cơn nghẹn thở:
- Không được! Chưa... Chưa được đâu cháu! Cháu không nghe chuyện vừa kể à? Biển nhiễm độc rất nặng... Chết cả cá voi nữa kia...-
- Nhưng mấy tuần trước ở ti-vi chúng cháu nhìn thấy ông và cả cơ quan ông xuống biển tắm cơ mà!
Ông á khẩu. Mắt cá đã trợn càng lồi hơn. Lẽ nào, ông phải giải thích cặn kẽ cho nó hiểu sự thật, trước mặt ân nhân của ông nhưng thực ra là nạn nhân của sự dối trá mà ông là một đại diện... Lão làm vườn ngạc nhiên nhìn thằng bé như Mai ka trên trời rơi xuống. Lão và cháu trai không có ti-vi để chứng kiến cảnh ông chủ đáng kính hô hào mấy người thân tín của mình cùng xuống biển tắm, rồi ăn cá biển, cua biển ngon lành trước ống kính máy quay. Nếu xem được cảnh đó, vốn là người thật thà lương thiện không biết đến công nghệ kỹ xảo lẫn nghệ thuật diễn xuất, chắc chắn lão sẽ đứng bật dậy kêu to: "Dừng lại đi! Biển đang rất độc! Báo chí nói là cực độc! Sao các vị làm thế!" Và lão sẽ mất ăn mất ngủ vì lo lắng thật sự cho tính mạng của người đem tính mệnh ra đùa rỡn với thần chết.
Nhưng người không có ý định đùa rỡn hoặc lừa bịp ai cả là cháu trai lão đã phải chết bất đắc kỳ tử! May sao, lão chẳng còn tâm trí nào, và cũng chưa có thời giờ để nghĩ tới cùng kỳ lý đến vậy. Cảm thấy đã lưu lại quá lâu và lạm dụng tình thân của ông chủ, lão xin phép ra về: "Hôm nay là ngày giỗ tuần chung thất của cháu tôi mà. Nhưng nếu cần gì ông chủ cứ ới qua cậu nhỏ đây một câu là tôi có mặt ngay." Lão lật đật quay đi.
Niềm lưu luyến cảm động của ông chưa kịp trào lên để làm khổ trái tim cá thì đã bị thằng cháu cắt đứt:
- Ông ơi! Báo chí loa đài nói ra rả là biển đã sạch rồi, cháu đi tắm biển đây! Mọi người làm theo ông thì được, sao cháu lại không?
Nói rồi, không chờ phản ứng của một con cá-người mà chỉ thằng bé mới hiểu nổi, nó chạy vút ra khỏi nhà. Ông run lên, sau đó là giãy đành đạch lên giường cả thân mình đã phủ kín vây cá. Bố mẹ nó đi vắng. Bà nó thì đang nhảy múa trên lầu thượng. Ông phải làm gì để ngăn thằng bé lại bây giờ? Nhờ hệ thống loa đài công cộng nhan nhản khắp nơi ư? Nhưng ai sẽ giúp ông đưa tin lúc này đây? Liệu thằng bé có chịu nghe không? Vả lại, lời nói và hình ảnh ông còn trơ trơ giữa không trung kia kìa, lẽ nào ông tự vả vào mồm mình! Nhưng để cứu lấy tính mệnh kẻ nối dõi tông đường, ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì! Ông định vượt mặt David Copperfield mà không đủ bản lĩnh như ông ta. Nhưng mà biển đang ngắc ngoải kia cần cóc gì cái bản lĩnh của ảo thuật gia! Chẳng lừa nổi được ai nữa thì khốn khổ chưa, thằng cháu ông lại là nạn nhân! Nếu nó thoát nạn được lần này, thì còn biết bao lần nữa biển sẽ mời gọi và đe dọa nó. Biển đã chết, bao giờ mới sống lại? Và có gì đảm bảo là biển sẽ không bị bức tử nhiều lần nữa? Thằng con trời đánh liệu có sức lo cho cháu ông được tắm biển ở nước ngoài suốt đời được không?
Trong những giây phút cuối cùng thoát thai phận người để trở thành một con cá ươn đích thực, ông đã sống trọn vẹn nhất tình cảm của một con người:
nỗi lo âu trĩu nặng cho số phận và tương lai của cháu ông. Lát nữa cháu về, ông sẽ bảo nó viết hộ thêm ngay dòng Chúc thư này, kẻo quên mất
thì khốn: "Sau khi tôi chết đi, xác của tôi nếu có đem hỏa táng thì tuyệt đối không được thả tro rắc xuống Biển. Nếu chưa làm được gì
để cứu Biển, thì đừng làm cho Biển bị ngộ độc thêm nữa..."
Hà Nội, những ngày Biển chết dọc duyên hải miền Trung