Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      

THEO MẸ ĐI CHỢ ĐỒNG XUÂN




T huở nhỏ, Tết đến là mẹ hay cho tôi lên chợ Đồng Xuân. Với tôi, đứa trẻ lên năm, được ra khỏi nhà đi chơi xa là một niềm vui vô bờ bến.

Mẹ mở tủ lấy cho tôi bộ quần áo sạch sẽ. Chiếc quần Tây có hai dải treo qua vai cho khỏi tụt và có cái yếm trước ngực. Áo bỏ trong quần, chân đi tất, xỏ đôi dép xăng đan da, đầu chải ngôi tươm tất… Đấy là lối mặc của trẻ con Hà Nội thời ấy.

Mẹ mặc áo dài, tóc cuốn vành khăn nhung, xách chiếc làn mây và dắt tôi ra đầu ô Cầu Dền đợi tàu điện. Tàu vừa đỗ, tôi nhanh nhẹn theo mẹ lên toa đầu. Tôi thích nhất cái toa này vì cả hai đầu tàu đều có bánh lái. Người lái tàu cầm cái cần điều khiển hộp số bằng đồng nặng trịch, tay quay cái vô lăng xoay tròn để điều khiển cần vẹt. Lần nào lên tàu, tôi cũng tranh thủ dận mấy cái vào núm chuông dưới chân bác lái tàu. Cái núm đồng to bằng miệng bát, tròn, nhẵn, bóng loáng. Giẫm một cái thì tàu phát ra tiếng chuông leng keng. Bác lái đã lớn tuổi thấy trẻ con ăn mặc sạch sẽ, chẳng phàn nàn mà còn cho tôi giẫm thêm cái nữa. Người bán vé cầm trong tay cái cặp vé bằng da bóng nhẵn với những tập vé màu hồng, xanh, vàng. Trẻ con như tôi thì không mất vé.

Mẹ dẫn tôi ngồi vào hàng ghế băng, nhưng tôi nhổm lên, nghển cổ nhìn ra thành tàu để xem tàu xe đi lại. Qua khỏi chợ Hôm, đến Hàng Bài rồi lên Bờ Hồ. Tàu vượt dốc qua Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường là tới chợ Đồng Xuân. Nhà cửa san sát, người xe tấp nập như mắc cửi.

Xuống cửa chợ, không khí náo nhiệt hiện ra ngay trước mắt. Trước cửa chợ là một dãy hàng bán kẹo hồng, bánh bò, với những chiếc bàn xếp mặt tròn. Ông bán kẹo tay luôn cầm chiếc kéo dập lách cách mời chào. Xế bên cửa chợ là mấy bà bán cà cuống đang ngồi nhể tinh cà cuống cho khách.

Mẹ dẫn tôi vào gian giữa. Một âm thanh ồn ào khó tả. Ngôi chợ lợp tôn trên hệ khung sắt đồ sộ với những đường uốn lượn rất cầu kỳ tinh xảo.

Ngay cửa chợ là khu bán hoa quả. Mùi cam, mùi bưởi và cả táo, lê, nho… tạo nên một hương vị quyến rũ đặc biệt. Bây giờ hoa quả giống mới to và đẹp, nhưng khó mà tìm được cái hương vị thuở xưa. Bước qua rừng hoa quả, mẹ dẫn tôi vào khu bán vải ở ngay bên phải. Dì tôi ngồi bán ở đó. Dì thấy tôi liền kéo vào lòng và cho ngồi cạnh bên đống vải cao ngất. Sau này, tôi mới biết dì tôi hồi ấy là cơ sở liên lạc của Việt Minh nội thành. Giữa những đống vải ấy là tài liệu, công văn của Việt Minh được chuyển đến chuyển đi.

Gọi cô bán chè sen đến, dì mua cho tôi một bát. Dì giữ tôi lại cho mẹ rảnh tay đi sắm Tết nhưng tôi xin được theo mẹ để còn đi xem các gian hàng.

Mẹ dắt tôi đến dãy đồ khô mua miến, mua măng, các gia vị và hộp mì chính sơn vàng. Tôi thích cái hộp này vì khi về mở ra, bà chia cho các cô mỗi người một ít, còn tôi thì được cái hộp làm đồ chơi. Thời ấy, tôm he là thứ không mấy khan hiếm. Người ta xâu tôm he vào những que tre dài mỗi xâu chừng năm con, rồi phơi khô. Mẹ tôi mua mấy xâu về nấu bóng, kèm theo là miếng bóng bì, gói miến làm từ đậu xanh, dăm lạng nấm hương, gói hạt tiêu, vài lạng bột các loại… Thỉnh thoảng có người chào hỏi, bà lại bảo tôi: “Cô ấy là người dưới Hoàng Mai đấy! (Mẹ tôi vốn người làng Hoàng Mai.) Đi đâu cũng gặp người quen cả!” Thấy mẹ mua mà cứ nói: “Cho chị xin cân đậu xanh, xin mấy xâu tôm…,” tôi thắc mắc, “Sao mình mua mà lại phải xin?” Bà cười: “Người tử tế phải ăn nói cho tử tế con ạ!”

Như thông lệ, mua sắm xong, bao giờ bà cũng cho tôi đến hàng bán chim thú và cây cảnh, là nơi tôi háo hức muốn đến nhất khi theo mẹ đi chợ Đồng Xuân. Tôi đứng ngẩn người xem những chú khỉ bóc chuối ăn nhỏm nhẻm, những con trăn cuộn tròn trong cũi sắt và bầy cá vàng lượn lờ trong những âu thủy tinh… Bỗng thấy một ông đeo kính râm, mặc áo ba đờ xuy, đội mũ phớt lảng vảng quanh đấy. Mẹ rỉ tai tôi: “Ông ấy là mật thám đấy. Người làng Hoàng Mai cả. Ông này chuyên rình kẻ trộm trong chợ.” Hồi ấy, Hà Nội có câu nổi tiếng: “Kẻ cắp chợ Đồng Xuân.” Ai vào chợ cũng lo ngay ngáy bị móc túi. Vậy nên mật thám được điều đến để rình kẻ cắp.

Mẹ đưa tôi qua nơi bán thịt với thịt sống, thịt chín đủ loại. Bà dẫn tôi vòng qua chợ Bắc Qua mua thêm vài thứ lặt vặt. Tuy cùng một địa điểm nhưng cái chợ Bắc Qua phía sau thì chủ yếu bán rau, bán tôm cua cá và hàng từ ngoại thành đưa vào. Cả một rừng rau cỏ tươi đủ màu sắc. Tôi lẻn ra xem những con cá lăng to tướng dài hơn thước Tây được chở đến bằng xích lô…

Sắm Tết đã đủ, chúng tôi vào chào dì để ra về. Có người đốt tờ giấy báo huơ huơ quanh sạp hàng. Tôi hỏi sao lại đốt, dì bảo họ đốt vía vì hàng ế không bán được.

Ra cửa, mẹ tạt vào bà bán cà cuống, mua lọ tinh cà cuống nhể ra ngay từ những con cà cuống sống đang bò lổm ngổm trong thúng. Làm bún thang mà không có thứ này thì hỏng hẳn. Bà còn mua mấy con cà cuống thịt làm quà cho mấy chị em tôi ở nhà.

Rồi bà gọi chiếc xích lô, đưa hai mẹ con về. Bác xích lô vừa đi vừa trò chuyện, chẳng mấy chốc xe đã về tới cửa.

Lớn lên, đi học, thỉnh thoảng lũ chúng tôi cũng rủ nhau ra chợ Đồng Xuân nhặt chai thủy tinh, ống bơ làm kế hoạch nhỏ… Lúc ấy, cửa chợ có đắp sa bàn trận quyết tử của bộ đội ta ngày đầu kháng chiến.

Xa nhà, chẳng mấy khi có dịp lên chợ nữa. Thế rồi lần lượt mọi thứ đều biến mất. Tàu điện xưa không còn. Ngôi chợ xưa cũng bị dỡ bỏ.

Lắm đêm không ngủ, tôi trằn trọc nhớ những ngày ấu thơ được đi chợ Đồng Xuân sắm Tết cùng mẹ. Mãi mới ngủ thiếp đi và cái chợ Đồng Xuân thuở ấy lại hiện về. Tôi mơ thấy mẹ dắt tay tôi vào cửa chợ. Ôi những chuyến đi của thời thơ ấu đẹp biết bao!





VVM.07.2.2022

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com