Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      



ÔNG SƯ ....




    B a lăm năm có dư, tôi quay lại ngôi làng ấy. Mấy lần dừng xe, lại thấy mình nhầm. Có phải là làng này chăng? Thôi đúng rồi, cây đa cổ thụ giáp ngay quốc lộ. Làng đổi thay nhiều quá, nhà xây san sát. Đường vào chùa lối nào? Tôi đang phân vân...

- Chào cụ ạ! Cụ cho con hỏi… tôi hỏi thăm một bà già -  Chùa làng á? Bác cứ theo đường này, tới… cái lăng cụ Ký Lục Lộ ấy, nhìn là thấy chùa ngay!

Ngay trước làng này có lăng mộ nào đâu? Được một quãng xe chạy, thì đập vào mắt tôi ngôi mộ hoành tráng, cao sừng sững, đá đen, kiến trúc kiểu Âu. À, hóa ra đây là ngôi lăng mộ - một cái mộ mới - lăng cụ Ký Lục Lộ. Đến lúc này tôi mới nhớ ra ông cụ ấy, con người tôi từng biết, từng được hầu chuyện.

Kia rồi, chùa làng. Chùa nay đổi sắc ra rực rỡ. Tường cao, quét vôi ve vàng rộm. Chùa làng vắng khách, nên thí chủ là tôi được sư trụ trì niềm nở đón tiếp. Nhà sư còn trẻ, tầm ngoài 30, dáng nho nhã, trí thức, nhất là cặp mắt sáng ngời sau tròng kính cận. Sau khi dâng lễ, thỉnh chuông, lễ Phật, tôi được nhà chùa đưa đi vãn cảnh chùa. Cảnh cũ, mới vừa quen vừa lạ. Nơi tôi chú tâm và chủ động xuống thăm là ngôi nhà tổ. Ngỡ ngàng nhìn bức tượng sư tổ, tượng còn, mà bóng dáng, hồn cốt tượng xưa đâu mất rồi; nay chỉ còn pho tượng nhũ vàng chóe. Cảm giác buồn buồn trong tôi - nhuốm nhuộm hoài niệm xưa. Nhà chùa còn dẫn tôi ra vườn sau thăm ngôi bảo tháp mới xây. Tháp to, cao vời vợi. Hóa ra, sư cụ mà tôi từng biết, giờ được an nghỉ nơi đây.

Ngôi làng này có kỷ niệm với tôi thuở sinh viên. Đó là quãng cuối năm một chín tám tư, chúng tôi thực tập bộ môn dược tại đây - một ngôi làng thuộc vùng Phùng – Nhổn, địa phận tỉnh Hà Sơn Bình cũ. Một nhóm chúng tôi trú ngụ ở chùa, còn những nhóm khác, tản mát khắp các xóm. Thuở ấy chùa làng cổ kính, cổ kính đến tàn tạ, rêu phong, bởi đang thời kỳ toàn dân cùng nhau bài xích mê tín. Tượng cổ thếp vàng bong tróc; ban thờ khói hương lạnh ngắt, chỉ những bụi bặm thời gian và mạng nhện giăng chăng khắp các ban. Chúng tôi nghỉ ở nhà Tổ - nhóm nam sinh, nữ sinh không được nghỉ ở đây - uế tạp cửa Phật.

Nhà tổ có bức tượng sư tổ. Đến tận bây giờ tôi không tìm đâu được bức tượng nào sống động đến thế. Tượng, tai phật chảy dài, mặt phúc hậu của nhà Phật. Những lúc rỗi, ấy là trước, sau buổi đến xưởng thuốc thực tập, hay chiều tối nghỉ, tôi hay ngắm nhìn tượng ngài. Nhất là vào lúc tranh tối tranh sáng, dưới ánh sáng ngọn đèn dầu, tượng sư tổ như phật sống, thấp thoáng ẩn hiện giữa đời thực và cõi hư vô. Càng nhìn, càng ngắm, tôi càng bái phục nghệ nhân xưa, tạo ra kiệt tác thần thái, từ bi, hỷ xả đến nhường ấy! Có lẽ ấy cũng là dịp Phật ngấm vào tôi, vào tâm can, thứ từ bi, hỉ xả. Đến độ tận cho mãi bây giờ, có dịp nào đó đi vãn chùa, lễ Phật, hình ảnh của ngài vẫn như ẩn hiện đâu đây.

Ngay sát dưới pho tượng tổ có cỗ quan tài và liền kề ngay chỗ chúng tôi ngủ. Mới đầu nghĩ cũng kinh, nằm ngay bên cỗ quan tài. Song rồi chúng tôi cũng quen, chả thấy sợ hãi nữa. Qua câu chuyện của cụ sư, chúng tôi hiểu thêm về cỗ quan tài đó. Cứ như cụ sư kể, thì nó được nhà chùa tậu lâu lắm rồi, quãng trước năm 1945 cơ, “một cỗ quan tài gỗ vàng tâm nục nạ, có mơ cũng không thấy”. Cụ sư bảo, cơ khổ về cỗ ván ấy, nhất là mấy năm thời Chín năm kháng chiến chống tây – vào những dịp tây càn. Cụ sư kể:

- Bảo chạy tây càn, thì mang của nả, chứ ai khênh quan tài chạy đâu. Lúc đầu tôi cũng định khênh nó chạy càn đấy, cỗ quan tài quý thế cơ mà. Nhưng sau rồi chả nhờ vả được ai. Lại nghĩ, có thứ giặc nào hôi cướp quan tài đâu, cướp, để về táng mả bố, mà ông chúng à! Thế là tôi chả vác, chả khênh nó đi đâu nữa.

Tôi cứ nhớ tiếng cười hềnh hệch và câu chuyện cụ sư kể:

- Bọn tây đểu lắm nhé. Có trận càn, nó bắt được một cặp, gồm ông sư và bà vãi kia. Thế là chúng bắt cặp ấy làm cái việc ấy, cho chúng xem. Ai đời sư đực với vãi cái cơ chứ, mà chúng nhua nhúa đứng coi, còn cười nói hơ hớ. Thế bọn Tây có đểu giả không. Và cụ sư cười: Hà he he!

Nhìn cái miệng móm mén và tiếng cười he hé của nhà chùa, lúc ấy tôi thoáng nghĩ, không biết có phải chính nhà sư này bị Tây nó bắt phải hành sự, phải thị phạm việc ấy cho chúng xem? Nếu đúng thế, thì bọn tây càn đểu thật!

                                                                     
♣ ♣

 Cụ sư chắc tuổi cũng ngoài tám chục. Không rõ chức tước là sư bác, sư ông, hay sư cụ, còn dân làng thì gọi: cụ sư. Cụ sự phương phi, cao to, sừng sững như ông hộ pháp trước gian chính điện. Cụ già đến mức, mồm miệng móm mém, còn lại dăm ba chiếc răng, chỉ khi nói, khi hát, khi cười, mới thấy nó chìa ra. Mà đúng là cụ sư từng hát hò nhé. Chuyện hát của nhà sư cũng thật vô tình, một đêm trăng tôi từng nghe được.

Lớp sinh viên thực tập chúng tôi hơn ba chục đứa, nấu ăn tại chùa. Dụng cụ nấu bếp là hai chiếc xoong nhôm Liên Xô to đùng, một cái dùng nấu cơm, còn cái kia nấu canh và một cái nồi nhỏ, dùng rang thịt, kho cá, hay om đậu cà chua mặn. Từ hôm chúng tôi về thực tập, nấu ăn ở chùa, nghiêm nhiên sự cụ ăn cùng lũ sinh viên. Chúng tôi chia riêng một suất cho cụ. Cụ sư cũng không kiêng đồ mặn, thịt, cá, tôm, cua… xơi tuốt. Thực ra bữa ăn của chúng tôi mấy khi có đồ mặn đâu, đa phần là canh rau toàn quốc và đậu cà chua tra muối, nên rất ư chay tịnh. Cứ vào lúc chia cơm, chúng tôi chia cơm ngay sân chùa, sư cụ đã chực sẵn. Anh em thì chia mâm sáu người ăn, riêng cụ sư, chia cho mình cụ một suất. Bữa nào cũng vậy, cụ túc trực sớm nhất sau khi sư cụ nhận phần ăn, lục tục mang về chái nhà – nơi vốn cụ đương trú ngụ - xơi cơm.

Cụ sư xem ra cũng đói. Hồi ấy đang thời buổi kinh tế đình trệ, hợp tác xã nông nghiệp cấp cao toàn xã rệu rã lắm, sắp sửa tan rồi, nên làng xóm tiêu điều đói. Trong khung cảnh ấy, ngày sóc vọng, lễ chùa, quanh đi quẩn lại có mấy bà vãi già xơ xác nghèo, đến lễ Phật mà họ áo nâu nâu sòng, quần thâm vá chằng đụp; nhìn người chỉ thấy răng và da. Nghèo đói thế lấy đâu ra lễ hậu: chỉ vài ba quả chay, dăm quả khế chua, mấy quả hồng xiêm xanh. Đồ lễ vậy sư mà ăn - dù là rất chay tịnh, không đau dạ dày, cũng sinh ra táo bón.

Quản lý bếp kiêm nấu ăn viên là Huệ, lớp phó đời sống. Huệ người Hà Sơn Bình, vùng giáp làng pháo Bình Đà. Cô bạn dáng người to, cao, trắng - trắng lôm lốp, ấy là từ ngữ nhà sư hay dùng cho cô bạn:

- Cô này trắng, trắng quá, cứ lôm lốp ấy!

Vừa nói, cụ sư vừa nhanh tay sờ vào cánh tay trần trắng lôm lốp của Huệ một cái.

- Cái cụ này – Huệ bẽn nẽn, vừa ngượng vừa thích, vì lời khen của nhà chùa.

- Trắng, trắng… lại còn to nữa chứ!

Huệ càng ngượng tợn! Lúc chia cơm, cụ sư một tay cái ca, tay kia cái bát - ca dùng đựng cơm và đồ mặn, còn bát để đựng canh. Bao giờ cụ sư cũng là người được chia đầu tiên. Cụ chìa ca ra, Huệ đón lấy, xúc cơm:

- Thêm cho tôi muôi nữa đi – sư cụ nài nỉ, khi Huệ đã múc ca cơm đầy tú hụ.

- Hai muôi rồi đấy cụ ơi – Huệ giải thích cho nhà sư.

- Thêm cho tôi muôi nữa đi! Vơi cũng được!

- Sao cụ già rồi, mà ăn lắm thế!

- Lạy Phật! Thêm cho muôi nữa đi nào!

- Thì nữa này!

Vừa nói Huệ vừa nén thêm muôi cơm nữa cho cụ sư, sư ông nhìn, miệng cười móm mém và không quên câu nịnh vuốt:

- Cô này, rồi Phật ngài sẽ phù hộ. Nào, thịt, thịt cá cá đâu! Quên, quên rồi a?

- Thì cũng từ từ chứ cụ. Xúc cơm, lại còn gắp thịt, họa cháu có ba đầu sáu tay…

- Thì, thì… tôi cứ nói thế. Thịt thịt cá cá đâu! He he!

Huệ gắp phần thịt vào ca cho cụ sư:

- Có thế này thôi a – sư cụ cằn nhằn - cho thêm một miếng nữa đi!

- Chúng cháu, mỗi người có một miếng! Cụ đã hai, ba miếng rồi, vẫn còn chê ít ư? Già mà ăn lắm thế, mặn lắm! Ăn mặn khát nước đấy, cụ ơi!

- Thôi nữa mà! Khát cũng được! Cho thêm miếng nữa nào. Các cô cậu trai trẻ, còn được ăn nhiều, nhiều thịt nhiều cá! Cho tôi thêm miếng nữa nào!

Những tiếng kèo nhèo, rồi cười đùa, trêu chọc của đám sinh viên, vì thêm cá thịt, vì Phật phù hộ, độ trì cho cô Huệ sớm lấy được chồng và bao thứ khác… cứ rộn rã sân chùa, trong cảnh hoàng hôn bảng lảng.

                                                 
♣ ♣

Một nhóm khác của lớp tôi trọ ở gia đình kia trong làng. Chủ nhà khá đặc biệt, đặc biệt đến cả cái tên - cụ Ký lục lộ. Chủ nhà sống độc thân - một khẩu, còn con cái sống ngoài Thủ đô. Cụ cũng xấp xỉ tuổi như cụ sư ở chùa. Một ông già tráng kiện - nhất là cái giọng sang sảng.

Khỏe vậy, không hiểu sao, ông cụ chả bao giờ rời tay khỏi chiếc ba toong, tưởng như không có nó, thì ông cụ ngã lăn cu chiêng, chả đi lại nổi. Điều đặc biệt nữa của gia chủ là có một cơ ngơi bề thế. Giữa chốn quê nghèo, heo hút, toàn nhà tranh vách đất, nở ra khu dinh thự Tây tòa ngang dãy dọc, nên đá hoa sáng bóng. Chỉ riêng chiếc cổng đã to khác nhà người. Trên nóc ngự mấy chữ nho đại tự và dãy  số 1936, chứng thực tòa nhà được xây dựng năm đó. Riêng cái cổng to vật kia, mặc dù trước đó tôi chưa tới thăm, đã nghe mô tả và hình dung về nó, như lời cụ sư chùa làng:

“Cái thằng già ấy dê lắm - ấy là lời cụ sư miêu tả về ông già này. Có con mẹ mua tóc rối, giấy vụn dạo qua, lão ta trong sân, tung lời ra gạ gẫm. Nhà nó lấy đấu ra tóc rối mà bán. Đầu thì nhắn thín, hói từ trán chạy xuống tận gáy, như quả dưa bở, thế mà gạ gẫm bán tóc rối, điêu không cư chứ! Con mẹ kia chả rõ biết hay không, mò vào. Cái cổng xây theo kiểu tây to tổ bố đóng sập ngay lại, rồi then cài chặt nhé, đến bố tổ con mẹ mua tóc rối kia cũng chả trèo ra nổi. Không rõ lão già dụ dỗ những gì, rồi lão chén, lão xơi, lão thịt tươi con mẹ kia! Sau đấy, tuần nào, tháng nào, cứ đều tăm tắp, con mẹ kia mò đến, mua bán tóc rối, giấy vụn. Thằng già ấy lắm tiền, nhiều của, tích cóp từ ngày xửa ngày xưa mà. Nay con cháu ở Thủ đô còn tuồn về nữa, ăn sao hết. No thân ấm cật, đâm rửng mỡ. Đúng là thằng dê già. Dơ… rõ là dơ.”

“Thằng dê già” ấy - như cụ sư nói, hôm tôi tới thăm - lần đầu, đang ngồi trên bộ sập gụ, lúi húi chia quân bài tổ tôm. Quái lạ, chơi tổ tôm một mình ư? - tôi thoáng thắc mắc vậy. Đúng như cụ sư miêu tả, ông già hói, trọc đến tận gáy, đầu giống như quả dưa bở, cằm lưa thưa mấy cái râu bạc.

- Cháu chào cụ ạ!

- Không dám.

Ông già chả thèm ngẩng lên nhìn khách. Anh chàng Thúy cùng lớp tôi, trọ ở đấy cùng mấy anh bạn nữa, cậu chàng nháy mắt với tôi. Tôi biết ngay, nhân có khách đến thăm nom gia chủ, anh chàng tranh thủ pha ấm trà hầu cụ chủ. Biết tỏng, hầu hạ gì đâu đâu, cái chính là có cơ hội pha gỡ ấm trà Thái của ông già lắm của nhiều tiền chốn quê này.

- Rước cụ ra xơi nước ạ - lời mời cầu kỳ, bắc bậc của anh chàng Thúy, trước đó còn nháy nháy mắt và tủm tỉm cười với tôi.

- Không dám - câu đáp rõ to và oai của ông cụ - Các anh cứ xơi nước tự nhiên!

Dù “không dám” – khước từ rồi, cụ Ký Lục Lộ vẫn lệt bết đôi dép và không quên chống theo cây ba toong, khật khưỡng bước ra bộ trường kỷ, xơi trà với lũ hậu sinh chúng tôi. Chàng Thúy ta khúm núm dâng chén trà lên tận mặt ông cụ, đúng là thứ nịnh bợ rởm, nhìn rõ ngay và tôi lúc đó chả dám cười. Cầm chén trà, cụ Ký ngó vào mặt tôi, hất hất hàm:

- Élégant… cậu có biết là gì không? Tiếng Pháp tức là lịch lãm đấy. Phải lịch lãm như người Pháp.

Lũ chúng tôi tủm tỉm, nhìn nhau và đồng thanh:

- Dạ … Đúng thế ạ! Phải lịch lãm như người Pháp.

- Các cậu là người có học.

- Dạ …. Đúng thế ạ!

- Thế các cậu có học, thì học tiếng nước nào nào?

- Dạ. Chúng cháu học tiếng Nga ạ!

- Nga á. Cái anh nông dân I – Van á? Quý tộc Nga thuở trước, phải kéo nhau sang nước Pháp học tập đấy. Anh nông dân Nga, văn chương tạm được mỗi cái anh “Chiến tranh và hòa bình”.

- Dạ! Đúng ạ! Tạm được cái anh “Chiến tranh và hòa bình” thôi ạ!

- Nông dân ở đâu mà chả thế; Nga, rồi đến anh An Nam mít ta, nông cạn lắm! Các anh xem, tù chè, sập gụ, đồng hồ tây, treo trên tường kia và cả tòa dinh thự này, hồi cải cách, cướp… cướp sạch nhé. Cướp để chia quả thực. Cách mạng triệt để lắm, triệt để đến thế là cùng. Tưởng dưới nền nhà của tôi chôn giấu vàng, các ông bà nông dân đua nhau đào lên, cạy đá hoa lên. Thấy gì? - He he cụ cười – Ông là dân có học, học trường Tây hẳn hoi - Cao Đẳng Công Chánh. Là kỹ sư, cử nhân, ông khôn chán vạn nhá. Tậu nhà, tậu xe ở Hà Nội, ông chôn giấu vàng ở Thủ đô, dại gì mang về đây. Đây là đất hương hỏa, ông chỉ xây nhà thờ, có chốn quê đi về. Vụ cải cách ấy, chả đứa nào kiếm chác được gì của ông. Ăn phần quả thực ối ra đấy, mà có giữ nổi đâu. Cuối cùng, ông dùng tiền, dùng vàng, thu lại ráo, thu cả cái cái dinh thự này. Giờ nhà ông, ông ở, còn mấy tòa ngoài Hà Nội, con ông, cháu ông, mỗi đứa ngự một căn.

Thôi bỏ bố rồi, chúng tôi đánh dậm được chén trà Thái, lại phải nghe trường ca đấu tố ngược từ cái thuở hồng hoang - cải cách ruộng đất năm xửa, năm xưa của ông già. Ngày đó, tôi đã được đẻ ra đâu, làm sao đấu tố được ông già lọm khọm này. May quá, ông già chuyển chủ đề:

- Thế cậu trọ ở đâu? - ông già trỏ tay vào tôi.

- Dạ! Thưa cụ, cháu trọ ở chùa làng!

- Chùa làng á? Cậu ngủ chung với tay sư hổ mang ấy a? Cái giống nửa đời nửa đạo, tu không trót kiếp. Tu! Tu gì, có mà tu hú. Sống chả trót đời, lấy, rồi vợ bỏ. Suốt ngày bê tha chốn nhà trò với lũ cô đầu cô đít, bị con đào rượu đổ tim la, hủi lậu cho, thế là tịt đẻ. Thất cơ lỡ vận, phải bò về chùa làng tá túc. Loại ấy, vớ phải tay ông ấy à, ông tống khứ, đuổi thẳng cổ nhá.

Ông già vớ được chúng tôi, tưởng như cụ sư trước mặt, y như lúc trước, tức với nông dân chia quả thực, ông ổng ông cụ nói. Nghe chuyện, tôi đâm phân vân, chẳng rõ những điều ông cụ này nói về sư cụ ở chùa làng, có thực không? Nhưng chuyện cụ sư hát ca trù, thì đích thị tai tôi được nghe.

                                                                  
♣ ♣

Ấy là đêm trăng quá rằm. Ánh trăng vằng vặc sáng. Thôn quê, trăng càng như vằng vặc hơn. Lúc đó đã khuya khoắt, hình như lũ sinh ngủ cả, còn mỗi mình tôi thao thức. Ngó ra sân chùa, ánh trăng phơi rời rợi. Tôi thoáng như nghe, khàn khàn tiếng ai hát. Đúng, nhịp điệu ca trù! Thỉnh thoảng còn cả tiếng tom, tiếng chát.

Hồng Hồng Tuyết Tuyết

Mới ngày nào còn chửa biết cái chi chi

Tom – chát.

Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì

Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu!

Quái lạ, sao ở chốn thiền tự, ai lại hát ca trù? Lần theo âm thanh lạ tai kia, tôi bước về phía chái nhà, nơi nhà sư đang ngụ. Cánh cửa nửa khép nửa hở. Trong ánh đèn dầu heo hắt, trên phản, cụ sư đang ngồi, chùm tấm chăn chiên, trước mặt là cái trống nhỏ. À, hóa ra cụ sư đang hát, đang gõ trống chầu đấy.

Chắc một thời từng oanh oanh liệt liệt ra vào chốn cầm ca, cụ mới hiểu, mới tường chứ. Nay khi tuổi xế bóng, chợt hoài niệm chuyện xưa, hoài niệm về những khúc hát ả đào mượt mà, yểu điệu, thướt tha … của một thời oanh oanh liệt liệt!

                                       
♣ ♣

       Một chiều muộn, cũng bảng lảng như mọi chiều khác, sân chùa trộn rộn cảnh chia cơm, cảnh đùa vui, trêu chọc nhau của lũ sinh viên. Chia đến mâm cuối, chợt Huệ ngó lên, thắc mắc:

- Ơ hay, sao giờ này cụ sư chưa ra nhận cơm nhỉ?

Tiếng ai đó:

- Hình như… trưa nay, cụ sư cũng không ra!

Bỏ cái muôi xuống, Huệ tất tả bước về phía chái nhà nơi cụ sư trú ngụ. Thoáng cái đã thấy cô ta hớt hải chạy ra, mặt mày biến sắc:

- Chúng mày ơi, hình như, hình như ông sư…

Lũ chúng tôi vội vàng bỏ bát đũa, ùa về phía chái nhà. Trong gian nhà chập choạng tối, trên tấm phản mộc, thân xác nhà sư nằm thẳng giẵng, người lạnh tanh lạnh ngắt. Cạnh xác cụ sư già còn cái trống nằm trỏng trơ. Cụ đã về cõi Phật từ lúc nào, không ai hay. Ngay tối ấy, cụ Ký Lục Lộ cũng chầu trời.

                                                                 
♣ ♣♣

Đứng trước ngôi bảo tháp sau chùa, tôi phân vân nghĩ: Lúc trần thế hai con người kia nào có ưa nhau. Không hiểu sao, họ lại khéo chọn hẹn giờ, khắc, cùng nhau về thế giới bên kia?

Giờ trong cõi hư vô ấy, chắc họ chẳng còn chuyện oán thù nhau nữa. Có khi sư ông còn hát và gõ trống chầu cho cụ Ký nghe và cụ Ký chia bài, để hai người đánh với nhau ván tổ tôm nữa./ .
 

             Tỉnh Hà Sơn Bình, ngày 18/10 âm,        Dương lịch 10/11/1984


                                                      



| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com