Việt Văn Mới
Việt Văn Mới

động Từ Thức ThanhHóa









THIÊN THAI




T ừ Thức con quan đời Trần ở châu Ái. Hai mươi tuổi đỗ cao. Được bổ tri huyện.

Khác bọn quan tham. Từ Thức phóng khoáng. Không chịu ràng buộc. Khuôn phép chật hẹp. Không nịnh trên. Không nạt dưới. Không tham lam, vơ vét, lọc lừa. Chẳng mưu ma chước quỉ. Thích uống rượu ngâm thơ. Đi chơi xa ngắm cảnh.

Gần vùng có chùa lớn. Sân trồng toàn mẫu đơn.

Tháng Giêng hoa nở rộ. Dâng mẫu đơn cúng Phật. Người đua chen đổ về. Xem hội hoa mẫu đơn. Hoa tươi hồng sân Phật.

Hoa Mẫu Đơn sống trên núi khô cằn, sỏi đá, gập ghềnh, gai góc, ẩn hiện khoe vẻ đẹp tiên Phật của mình.

Chỉ có vợ chồng bác tiều phu, trẻ chăn trâu, hay bé gái chân đất, lặn lội bên sườn núi nhặt nấm, hái sim mới hiểu được vẻ đẹp trong trẻo của Mẫu Đơn là chúa tể của muôn loài hoa rừng. Nó có màu đỏ trái tim. Từng cánh hoa dài nhỏ như những chiếc tăm có mũi xoè bốn cánh, nương tựa vào nhau, chiếc cao, chiếc thấp như chị em hợp thành đoá hoa, nép vào cành lá màu xanh trên thân gỗ nhỏ mà dẻo dai sức sống. Mẫu Đơn thắm đỏ trong rừngù xanh.

Hình như bác tiều phu chẳng bao giờ nhìn bông hoa Mẫu Đơn héo tàn, chỉ biết rằng mỗi khi thấy Mẫu Đơn thắp lửa trong rừng chiều xám lạnh, lòng bác ấm lại. Ngưỡng mộ vẻ đẹp thiên nhiên hoang dã mà cao quý ấy, các thiền sư, ẩn sĩ tu từ trên núi xuống, mang theo khóm Mẫu Đơn về trồng trong các chùa.

Từ Thức vào hội hoa. Cải trang thành học trò. Hành hương ngắm cảnh. Không lính hầu theo.

Chùa được triều đình trọng. Sư sãi thả sức hoành hành. Ai bẻ hoa bị phạt tiền hoặc nô lệ suốt đời cho sư.

Một cô gái xinh đẹp dịu hiền xem hoa. Vô tình nàng ngắt một bông. Nâng niu chiêm ngắm. Bông hoa thắm tình.

Thủ hộ xông ra. Bắt giữ đòi tiền. Nàng không có tiền. Chúng trói nàng vào cột chùa. Nước mắt nàng lã chã. Thân mềm lả.

Từ Thức đến cổng nhìn cảnh nàng bị đầy đọa. Rất thương. Không nén nổi cơn giận. Sấn đến đòi cởi trói cho nàng.

Chúng chỉ mặt chàng:

- Nếu không đủ tiền chuộc. Chớ động vào sinh chuyện.

Từ Thức bừng bừng tức tốc cởi phăng áo ngoài. Vứt cho chúng thả nàng.

Nàng xinh đẹp bạo dạn. Tạ ơn chàng thiết tha.

Từ Thức muốn làm quen:

- Nàng ở đâu? Giọng không giống vùng này?

- Thiếp ở châu Ái- Tống Sơn.

Không ngờ nàng cùng quê. Từ Thức thêm thân thiện cùng nàng men lối cổng chùa. Chàng nàng tâm sự.

Từ giã, nàng mời chàng. Đến chơi nhà thăm quê…

Chàng ra về, buồn nhớ nàng khôn khuây. Công đường chàng chán ngán. Không roi vọt trị dân. Không ăn của đút lót. Không tiền hầu quan trên. Chàng bị họ hạch sách. Gây phiền nhiễu nhiều phen.

Một lần thuế chậm trễ. Bị quan phủ mắng. Chàng một mình than:

- Chẳng lẽ vì mấy bó thóc. Ta chịu nhục thế này?

Chàng cởi ấn, từ quan. Bỏ đi. Không tiếc.

Chàng vội thẳng về quê. Thăm bố mẹ làng nước. Nhớ nàng mời hội hoa. Chàng lặn lội tìm kiếm.

Tống Sơn nhiều cảnh đẹp. Chàng ngâm vịnh hát ca.

Không thấy dấu người đẹp. Ngơ ngẩn buồn nhớ thương.

Sớm nhìn cửa Thần Phù. Trước mắt chàng hiện lên

Hòn đảo như hoa sen. Giữa nước xanh biển cả. Say sưa ngắm đắm mê. Chàng giong buồm ra khơi. Thuyền ghé đảo tươi xanh. Sườn núi hang rộng đẹp. Rẽ cỏ tìm tận nơi.

Chàng vào hang. Bỗng tối sầm. Sờ soạng, thấy ánh sáng. Núi chót vót, đá lởm chởm. Lên đỉnh, nhà lộng lẫy.

Hai người con gái nói:

- Chú rể mới đến nhà.

Chàng táo bạo theo họ. Đường hoa thơm cỏ lạ. Đến lâu đài kiêu sang. Bà quí phái ra đón:

- Đây hang thứ sáu. Ba mươi sáu hang động.

Cõi Tiên ta cai quản. May được đón. Chàng phong nhã chí tình. Cảnh đẹp làm chàng mê?

Từ Thức khẽ gật đầu. Bà cho gặp người cũ.

Một cô Tiên bước ra. Thướt tha kiều diễm chào. Cô gái bẻ mẫu đơn. Chàng mừng vui reo vang:

- Tôi tìm nàng không thấy. Không ngờ gặp ở đây.

Bà tưng bừng giới thiệu:

- Giáng Hương xưa xem hội mẫu đơn. Không may gặp rủi ro. Nhờ chàng tận tình cứu. Âu cũng là duyên Trời. Đạo không tu mà tự đến. Những cuộc gặp gỡ hiếm lạ. Đời nào cũng có. Đừng cho câu chuyện thần tiên là hoang đường. Chàng có lòng đi tìm. Gặp nhau mở tiệc hoa. Thỏa lòng mơ khao khát.

Từ Thức vui phấn chấn. Hai người làm lễ cưới. Làng Tiên mừng chúc tụng. Tiệc rượu, nhạc tấu ca. Những món ăn rất lạ. Đĩa bát bằng ngọc thạch. Hương tình nao nức bay.

Ngày nối ngày qua mau. Chàng ở rể ba năm.

Cõi Tiên khác trần gian. Cơm ăn áo không thiếu. Giáng Hương hiền đẹp nết. Luôn thỏa lòng chàng. Sớm tối ngao du động Tiên. Ngâm vịnh vui bất tận.

Từ Thức đề thơ bình phong trắng:

 “Khói rợp mây che khắp bốn trời
Non thần trong sáng đó là nơi
Hoa thăng theo gió đưa hương ngát
Dắt dẫn thuyền câu khách một người
Một đêm gió thổi nguyệt đầy non
Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son
Rượu mệt mê say lòng nặng trĩu
Mượn đem bút thức gửi thi hồn
Đốt lại lò trầm nhóm lại hương
Đắn đo đổi mới khúc nghê thường
Đạo sĩ một đi tìm khó thấy
Không trung tản mát tiếng ngân dài
Sông nước bao quanh núi một vùng
Mộng về quê cũ lối khôn thông
Mây vàng nước biếc thân nương đậu
Trần giới xa coi, ngút mịt mùng”.

Bên người đẹp ái ân. Vật chất đủ đầy. Chàng vẫn thiếu cái gì. Buồn cô liêu trống vắng.

Một chiều buồn bã. Chàng tâm sự với Giáng Hương:

- Nhà tôi ở phia bên kia. Song biển trời cách biệt. Chẳng biết mình đang ở đâu. Đất khách bơ vơ. Lòng quê bịn rịn. Xa cha mẹ đã lâu. Muốn về thăm một chuyến. Rồi sẽ trở về ở với nàng đến đầu bạc răng long.

Giáng Hương khóc lã chã khuyên:

- Thiếp chẳng dám vì tình mà ngăn cản mối lòng thương nhớ quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp. Kiếp trần ngắn gang tay. Cõi tục và cõi Tiên. Hai con đường cách biệt. Chàng về cõi tục. Sẽ vĩnh viễn mất Tiên.

Nhưng nỗi nhớ dâng đầy. Từ Thức gầy héo hon.

Mẹ nàng thương xót. Không ngờ chàng nặng nợ. Mối tình trần bám đeo. Cho Từ Thức trở về. Xa Thần Tiên mãi mãi.

Giáng Hương trao chàng. Bức thư viết trên lụa. Nước mắt tràn chia biệt. Im lặng vỡ không gian.

Chàng giã từ vợ, mẹ. Từ giã các bạn Tiên. Lên xe cẩm vân về trần thế.

Chàng thấy lại quê hương. Ruộng đồng, sông núi, lũy tre. Mái tranh hiền, ao làng, mắt giếng. Cây đa, bến nước, chùa, đình, đền, miếu. Bóng trâu già kéo cày lê thê. Tiếng gà kêu, chó sủa bên hè. Bà ru cháu bên nôi vời vợi. Mục đồng thổi sáo lưng trâu. Lão nông rít thuốc lào nghiêng ngả. Khói lam chiều buông rơi…

Cảnh làng thôn. Không khác xưa. Chàng bồi hồi xao xuyến. Ngỡ ngàng lạ mà quen.

Nhìn kỹ chàng ngờ ngợ. Nhà cửa vườn đã khác.

Dân làng không quen mặt. Hỏi bố mẹ không ai biết. Chàng quặn thắt ruột đau. Bơ vơ và lạc lõng. Giữa nôi mẹ cha sinh. Không chút tình máu đào. Không nghĩa nặng tao khang. Hồn phách chàng xiêu lạc. Chốn này. Quê hương đâu? Vật đổi sao dời. Người cảnh xưa đảo khác. Chàng bơ vơ. Vờ vật. Ngay giữa lòng quê hương. Bi kịch này lớn quá. Đâu rồi thân thương xưa?

Từ Thức xưng tên họ. Người ta ngẫm nghĩ đáp:

- Hồi nhỏ tôi nghe truyền. Cụ tổ năm đời Từ Thức.

Làm quan huyện treo ấn từ quan, đi chơi mất tích.

Đã gần ba trăm năm.

Từ Thức ngậm bồ hòn. Bùi ngùi và đau đớn. Ôi! Kiếp sống phù du. Biết đâu mà chọn lựa. Chàng thấm lời vợ Giáng Tiên. Cõi trần và cõi Tiên. Hai không gian tách biệt. Thời gian cũng không giống.

Không gian và thời gian, là mơ hồ tương đối. Không gian khác. Thời gian đổi khác. Thời gian chỉ tồn tại trong một không gian nhất định. Không gian mất. Thời gian cũng mất. (*)

Chàng bùi ngùi ngắm cây đa cổ thụ cành chi chít. Cây đa không có tuổi. Rễ thả cội đâm cành. Xanh tươi cùng thế gian. Chẳng cần biết. Tháng năm trôi. Bão nổi. Sóng cồn. Bỗng tiếng nói mông lung, từ không trung vẳng lại:

“Con người thân hữu hạn, không chiếm lĩnh nổi không gian. Vòng luân hồi bất tận. Muôn vạn ức kiếp người. Nổi trôi đời muôn nẻo. Trôi về đâu? Về đâu? Những vòng quay nghiền nát. Không thể tham lam quá. Phải chọn và chọn một. Chỉ một lối riêng mình. Không giống bất kỳ ai. Không nhìn núi này trông núi nọ. Phải đầy đủ thông minh. Trí tuệ và bản lĩnh. Tự trọng và tự tin. Tự thân mình đứng dậy. Một mình. Một mình thôi. Tự tìm ra con đường. Cho riêng mình vui sống. Chân Thiện Mỹ An Bình. Kiếp sống chẳng tày gang”.

Chàng xa xót bùi ngùi. Chắp tay dâng tâm hương tạ muôn hồn muôn kiếp. Hỏi mình trôi về đâu?

Chàng thẫn thờ ngơ ngác. Đám đông vây quanh mình. Như có mà lại không. Chàng phải về Tiên thôi. Mau mau tìm lại Tiên. Thiên Thai mơ và thực. Không lấm bận tục trần. Thân và tâm nhẹ nhõm.

Chàng trở lại chỗ xe mây. Không ngờ xe biến mất. Nhớ bức thư thẻ lụa, Giáng Hương trao. Chàng mở đọc:

“Kết lửa phượng trong mây. Duyên xưa đã hết. Còn dịp nào nữa đâu. Tìm non Tiên trên biển”.

Buồn rầu. Đau vô hạn. Lúc này chàng mới biết. Nàng đã nói trước với chàng. Lời vĩnh biệt.

Chàng mò đến cửa Thần Phù. Định quay về động Tiên. Mịt mù cây kín lối. Nàng ở đâu? Ta biết đi đâu?

Bơ phờ. Ngất ngơ. Cô lẻ. Chàng đi. Đi xa mãi. Không biết là đi đâu. Không có một con đường. Chỉ mơ hồ ngờ ngợ rằng chàng vào hang núi.

Người ta gọi hang núi đó là Động Từ Thức gặp Tiên.

Ngàn đời sau người Việt thương nhớ chàng Từ Thức. Rủ nhau tới Động Từ Thức cửa Thần Phù- Huyện Nga Sơn Thanh Hóa, cảnh đẹp Thần Tiên, sông núi, cánh đồng, biển xanh, bãi cát, cây cỏ hoa hữu tình. Ai đến động Từ Thức cũng đều thốt thành thơ.

Nhà bác học Lê Quí Đôn khắc bài thơ trên động Từ Thức có câu:

Thế nhân khổ tác Thiên Thai mộng
Thuỳ thức Thiên Thai diệp hý trường


(Thiên Thai do người đời đặt ra
Ai ngờ Thiên Thai cũng là hý trường thôi)

Còn người kể chuyện Từ Thức gặp Tiên, đến thăm động Từ Thức cũng thốt lên tiếng lòng thời cuộc:

Thiên Thai

Theo chàng Từ Thức tới động Tiên
Dẫu biết Thiên Thai cũng hý trường
Còn hơn mê huyễn vòng trần tục
Còng lưng sấp ngửa, vẫn vô minh
Ham hố chờn vờn, nỗi nhục vinh
Chen chúc được thua, quyền với chức
Nhốn nháo bán mua, tình tiền bạc
Thói đời tranh đua, sao mà thương./.

* Dân gian Việt Nam (Người Việt cổ) quan niệm thời gian, không gian, như thuyết tương đối của Albert Einten.



.Cập nhật theo nguyên bản của cố tác giả chuyển khi còn sinh tiền.