Việt Văn Mới
Việt Văn Mới

Thiếu Nữ Bên Tà Áo Dài tranh của hoạ sĩ Đặng Mậu Tựu (Huế)













NHỮNG CƠN BÃO

ĐI QUA





CHƯƠNG I


N hững ngày cuối năm, bà Vĩnh lần lượt làm các món mứt để chuẩn bị cho ba ngày tết.

Năm nào cũng vậy, khi mọi thứ mứt đã làm xong xuôi bà gói mỗi thứ một ít để riêng cho người gia sư mang về quê, những người dạy kèm cho các con của bà đã thành một nếp quen trong gia đình này từ khi đứa con đầu lòng mới học lớp nhì cho đến bây giờ, lớp đệ tứ.

Gia đình ông Vĩnh ở trong Thành Nội, tả ngạn thành phố Huế, gốc người Quảng Đông bên Tàu sang từ đời ông cố, có tiếng giàu tiền lắm của. Riêng ông Vĩnh có mấy chiếc xe hơi, xe thì chở hành khách, xe thì dùng chở hàng hóa vật dụng. Ông vừa giàu vừa đẹp trai nhưng hầu như rất ít bạn bè hay la cà quán xá, tuy lọt vào mắt xanh của nhiều cô gái ở phố Đông Ba, nhưng ông cứ lờ lờ tỉnh tỉnh, không nói năng chi để tỏ rõ ý tình. Mà dù có quen ai thì ông cũng không tán tỉnh mồm miệng như những thanh niên khác vì ông kiệm lời như đá. Năm khi mười họa mới nghe ông nói một đôi câu, kèm theo tiếng cười khẩy đầy ý nghĩa, rồi thôi, chẳng mất lòng ai.

Có người bà con thấy vậy mới làm mai cho cô Loan, con gái cụ Thượng thơ ở phủ ngoại từ gần Cung An Định, họ hàng thích lý từ đời vua Đồng Khánh. Cô Loan có chút duyên dáng, nhiều thanh niên trẻ chung quanh rất muốn làm quen. Trong đám có người con trai dáng thư sinh tên Qúy, nghe nói đó là một học trò trong Quảng ra thi.

Trong giai đoạn giao thời từ những thập niên bốn mươi, năm mươi, trước nền văn minh ngoại bang, tam tòng tứ đức đã bớt khe khắt, trai gái giao du có phần cởi mở. Cụ Thượng biết cô Loan có bạn trai, mỗi khi đi đâu về, cụ thường hỏi : “ Sửu mô – con Sửu mô rồi”. Cô Loan sinh vào năm sửu.

Không biết cô Loan quen biết với Quý lúc nào, thỉnh thoảng chỉ thấy anh chàng thấp thoáng trước cửa phủ, trao đổi trò chuyện đôi câu rồi đi, không dám vào. Một đôi lần hò hẹn trên bến sông An Cựu dưới ánh trăng thanh. Lúc nhỏ, cô Loan đã học được một ít tiếng Hán nôm lồng với quốc ngữ trong những bài vỡ lòng, nhờ thầy đến phủ dạy cho con nhà quan. Cô thuộc được Kiều, Lục Vân Tiên, do đó càng hun đúc thêm bản tính đa cảm của Loan.

Nhiều lần ông Vĩnh qua nhà làm quen nhưng cứ ngồi như phỗng, không biểu lộ một tí ngôn ngữ cử chỉ gì, thì cô Loan làm sao cảm tình cho được. Cô hay nói “ Người chi mà lúc nào cũng khinh khỉnh, ỷ giàu “. Vì vậy, nhiều khi để ông ngồi với mẹ và các em trong nhà, cô qua bên nhà mấy người bạn gái. Ông cũng không nói năng chi, lần sau vẫn đến, vẫn đi bằng chiếc xe đạp Dura bóng loáng, nhẹ chỉ xách bằng một ngón tay, đạp không nghe tiếng.

Ông thường sang chơi vào buổi tối, nói năm ba câu chuyện rồi ngồi im, không hẹn hò đi đâu, cũng không hề có ánh mắt âu yếm. Cô Loan thấy nản, mặc dù chỉ có ông mới vào được nhà, ngoài ra không ai dám.

Mẹ cô biết rõ tính ý của con gái, nhưng trước những biến chuyển đang căng thẳng của thời cuộc, vương triều sụp đổ, vua Bảo Đại lưu vong, đất nước loạn lạc, cơn gió lốc của Việt Minh đang quyết tử với Pháp để giành lại độc lập. Hoàng thân tôn nữ như chiếc lá giữa dòng. Con quan con cụ có người còn sống khổ hơn dân thường, gian truân chìm nổi, phiêu giạt khắp nơi. Thầy thông thầy phán đâu còn để môn đăng hộ đối.Vì vậy, mẹ cô Loan muốn gả con gái cho ông Vĩnh để được yên bề, không cực nhọc lo toan. Quan Thượng thơ lúc đương triều tính thật thà thanh liêm, nhiều thê thiếp nên lúc về già không có của riêng của để. Trước khi Bà Đức Tiên Cung băng hà, cụ được cấp cho mấy chục mẫu đất ở Thủy Xuân. Cụ nói không muốn ở thành phố sợ xe cộ đông đúc. Cụ đem phân chia cho các bà thiếp lâu nay chỉ sống nhờ vào lộc vua. Có người ngày nay còn giữ đất sinh sống tại đó, bây giờ con cháu trông giữ lăng tẩm, cung miếu. Có người bán đất mua nhà ở phố, buôn bán sinh nhai.

Đến đời vua Bảo Đại thì tài chánh của cải tập trung vào tay hai Bà, Đức Từ cung và Hoàng hậu Nam Phương, không biết bao nhiêu là vàng bạc châu báu. Hai bà đang lo tính con đường tháo thân thoát hiểm trong giai đoạn giao thời đầy bất trắc. Quan lại triều đình tan rã, có người không tiền không của, lỡ văn lỡ võ, chỉ có cái xác nhà năm ba gian với vườn tược rộng lớn nhưng xơ xác tiêu điều, không có gì là giá trị. Trong hai tháng Việt Minh chiếm giữ kinh thành, buôn bán làm ăn khó khăn, lương thực bế tắc, có nhiều nhà quan lại quen biết hoặc bà con với quân tự vệ, phải sai đầy tơ giả làm người gánh nước thuê cho các trại bộ đội dân quân, để rồi gánh ra hai thùng cơm cháy và thức ăn vụn vặt.

Cụ Thượng còn trong phủ, ở trên tiền sảnh, các bà ở những gian nhà ngang phía dưới. Cụ chỉ nghe nói đến ông Vĩnh chứ chưa thấy mặt, nhưng cũng sinh lòng quý mến. Thỉnh thoảng có chuyến hàng ra Hà Nội hoặc vào Sài Gòn, ông Vĩnh thường mua vài thứ hàng hóa đặc biệt để biếu cụ. Phần cô Loan là những xấp lụa trắng, lụa hoa đắt tiền, có khi cả xấp đồ lót, khiến cô cũng ngỡ ngàng, cảm động. Lúc nầy Loan hết mộng mơ tơ tưởng đến ai, trong đầu chỉ còn biết có ông Vĩnh. Nhưng cô chẳng dự đoán được thời gian nào ông quyết định việc hôn nhân. Cô có cảm tưởng mình là người ngoại cuộc, vì hình như ông chỉ chuyện trò trao đổi với mẹ cô mà thôi.

Sự việc đang còn trong dự tính, thì tất cả mọi việc như đã an bài chỉ trong một đêm, khi bỗng nhiên những tràng liên thanh nổ rang, tiếng lựu đạn, súng cối dội cả một góc trời bên kia thành phố. Đó là cuộc chạm súng đầu tiên của Việt Minh nổi dạy đánh Pháp, chiếm một số đồn bót, công sở, thắt chặt vòng vây, quân Pháp phải rút về cố thủ bên kia bờ Nam sông Hương. Dân An Cựu phần đông chạy về các vùng lân cận để tránh lằn đạn. Ông Vĩnh không thể ngược về cầu Trường Tiền, nên chạy theo gia đình cô Loan về tản cư ở cống Phát Lát, hơn một tháng sau mới trở về. Bên này Thành Nội, gia đình ông Vĩnh chờ lâu quá không thấy, tưởng đã chết rồi hoặc bị mất tích.

Ít lâu sau, ông Vĩnh đưa cô Loan về nhà ra mắt ba mẹ. Sau lễ cưới đơn giản, mẹ ông Vĩnh mua ngay cho một ngôi nhà ngoài cửa Đông Ba để ông bà ở riêng.

Con gái đầu lòng của ông bà Vĩnh năm nay vừa đến tuổi trăng tròn. Trong nhà đã qua ba bốn người thầy dạy kèm, người hiện tại là Trung. Vừa rồi Trung nói với bà Vĩnh tết này về quê nhưng sẽ không trở lại dạy kèm nữa, và sẽ giới thiệu một người khác. Những gia sư thường là học sinh trường Quốc Học, từ các làng cách xa thành phố Huế khoảng mười lăm hai chục cây số hoặc một số làng xa hơn đến. Bà Vĩnh không mấy bất ngờ trước việc này, người cũ ra đi sẽ giới thiệu người mới để tiếp tục. Trung định bụng tối nay sẽ chào ông Vĩnh vào lúc dùng cơm.

Trong bữa ăn, bà Vĩnh nói với chồng :

- Cậu Trung nói về ăn tết rồi nghỉ luôn, không dạy nữa.

- Sao vậy ?- Ông Vĩnh hỏi Trung.

- Dạ chắc là em vào quân ngũ – Trung trả lời.

- Sao không học tiếp. Tình hình căng thẳng vô lính cậu không sợ ?

- Dạ cũng đành chịu, tại em thi rớt sư phạm.

- Sao không chờ năm sau thi lại ?

- Dạ, không biết sang năm có đỗ không, rồi cũng phải đi, thà đi trước cho rồi, sống chết cũng có số – Trung đáp lại và cười nhẹ.

Bà Vĩnh nói thêm :

- Nói vậy chứ nhà mình mát tay lắm, cậu Huấn, cậu Sinh, cũng từ nhà này ra lính cả, giờ đã thành ông này ông nọ có sao đâu. Mới đó cậu Hoàng đã lên thiếu tá.

- Đi lính mau thành quan – Ông Vĩnh cười phụ họa – Không xanh cỏ thì đỏ ngực.

Mọi người cười vui vẻ. Nhung và Bảo đang ngồi ăn chung mâm, không hiểu gì lắm cũng cười theo.

Những người dạy kèm này thường hay thôi học sau khi đỗ được một hai tấm bằng Tú tài vì không đủ điều kiện để kéo dài việc học, hoặc trượt sư phạm. Họ vào quân đội mặc dù đất nước đang vào thời buổi chiến tranh.

Trung nhìn mấy học trò của mình, nói :

- Nhung với Bảo ăn tết xong ráng học chăm nghe. Ra tết sẽ có thầy mới, dạy giỏi lắm.

Ăn Tết xong, mùng sáu đã thấy Trung dẫn người bạn tới. Thoáng thấy, Bảo đã lẻn ra khỏi nhà, đi biệt cho tới chiều mới về. Còn Nhung bắt đầu thấy không còn thoải mái tự do nhưng nhớ lại mấy bài toán khó cô giáo ra làm trong mấy ngày tết còn nằm chờ đó. Ít khi Nhung tự giải được bài nên cũng nhận ra sự cần thiết có người kèm dạy.

Lúc chiều Nhung nghe mẹ dặn :

- Cậu An biểu tối nay Bảo và Bình học xong rồi con lên sau. Mẹ nghe cậu Trung nói cậu An học giỏi lắm. Hơn con hai lớp nhưng dạy dư sức. Con coi đó mà bắt chước học tập.

Nhung không quan tâm lắm về sự học giỏi như thế nào của cậu An. Việc cần nhất là giúp cô giải được những bài tập sinh ngữ và toán tập hàng ngày.

Ăn cơm chiều xong, hai đứa em lên học, Nhung ngồi học bài ở dưới nhà. Hơn nửa giờ sau hai em cô đi xuống, có lẽ là buổi đầu tiên nên học mau. Nhung ôm cặp đi lên. Sự thay đổi đột ngột trong căn phòng khiến Nhung chú ý. Bàn ghế sách vở được sắp xếp lại tươm tất, gọn gàng hơn trước. Cửa nẻo lau quét sạch sẽ, trông ngăn nắp, mát mắt.

Nhung đến ngồi vào bàn mình, sách vở xếp thành ba chồng ngay ngắn đều đặn. Cái huy hiệu Nhung làm rơi rớt đâu đó cũng được đặt trên chồng vở.

An đến bên bàn Nhung :

- Đưa cậu xem mấy cuốn vở học thêm với cậu Trung.

Nhung đưa chồng vở ba cuốn ra. An lật nhanh mấy cuốn, cuốn nào cũng dừng lại thật lâu ở trang cuối. Sau cùng là vở tập Anh văn.

An giữ trang vở đang mở, kéo ghế ngồi đối diện với Nhung, hỏi :

- What is your name?

- My name is Hồng Nhung.

An cười, buột miệng khen :

- Tên đẹp lắm - Xong hỏi tiếp – How old are you ?

Nhung cười ấp úng :

- Sixteen.

An nhắc nhở :

- Khi đối thoại có thể ngắn gọn, nhưng khi làm bài tập thì phải trả lời đủ câu. Tí nữa nhớ dán lên một cái thời khoá biểu. Bây giờ có bài gì khó đưa giải trước, ngày mai mới sắp xếp lại giờ học.

- Dạ có ba bài đại số , ba bài hình học.

- Đã giải được bài nào chưa ?

- Dạ chưa – Nhung nghiêng đầu, vẻ ngượng ngập.

An hướng dẫn Nhung giải mấy bài đại số lên bảng, sau đó cho viết vào vở. Nhung nhận thấy An có lối giảng nhẹ nhàng dễ hiểu. Cô vui vẻ ghi bài thoăn thoắt. An về ngồi vào bàn của anh học bài, thỉnh thoảng nhắc chừng :

- Nhung xong chưa ?

- Dạ xong .

An bước qua bàn của Nhung, nhìn lại bài ghi trong vở và nói :

- Mốt mới có giờ hình học, mai sẽ giải tiếp mấy bài còn lại.

Ghi bài xong xuôi nhưng lúc nào Nhung cũng có thói quen chờ cho phép. An thì chưa dứt khoát cho Nhung xuống, anh nhìn quanh căn phòng một lượt, khi chạm phải ánh mắt Nhung đang chờ mình thì anh hỏi :

- Nhung thấy xếp đặt lại căn phòng như vậy được không ?

- Dạ được.

Mắt An nhìn lên bức tường rộng :

- Tường để trống vậy, nếu có vài bức tranh treo thêm nữa thì vui hơn. À! Nhung thích hoa gì nhất ?

- Hoa hồng .

- Hồng Nhung, hèn gì ! Thôi Nhung xuống đi.

Trước khi ngủ, cô bé thấy lòng vui vui. Tự nhiên hỏi cô thích hoa gì. Chắc là cô sắp thành người lớn.

Sáng ra, Nhung đã thấy để sẵn mấy ổ bánh mì xíu trên bàn. Cô nói với người giúp việc :

- Chị Rớt đem lên lầu cho cậu An một ổ.

Ăn sáng xong, An đi trước qua trường Quốc Học. Nhung đi sau mười phút, qua trường Đồng Khánh.

Trưa học về, Nhung phụ với chị Rớt sắp chén đũa ra mâm. Bảo phụ xúc cơm từ nồi lớn ra thố. Gần xong bữa ăn Nhung nói với mẹ :

- Mẹ cho con tiền đi xem phim, mấy đứa nói phim tết hay lắm.

- Lo mà học hành đi, hôm mùng hai đi rồi, bây giờ còn đòi đi nữa, hết tết rồi.

- Cho con đi lần này nữa thôi. Tối nay thứ bảy mà mẹ.

- Đi với ai ?

- Dạ đi với Lan bạn con.

Chiều đến lớp, Nhung và Lan hẹn nhau tối đi xem phim .

Tối đến, cơm nước xong, Nhung thay áo quần, thấy thế chị Rớt hỏi :

- Ủa tối nay sao Nhung không lên học mà đi chơi?

- Ai nói? Tối thứ bảy được nghỉ học mà !

- Sao tôi nghe cậu dặn thằng Bảo với Bình lên học ?

Nhung lưỡng lự một lúc :

- Mặc kệ, em cứ đi. Lúc trưa khi xin mẹ, có cậu An sao không nghe nói gì .

Chị Rớt xuống giọng :

-Vậy thì thôi, chắc hai đứa làm bài kém nên bị học thêm.

Sáng ra Nhung hỏi Bảo :

- Hồi hôm em lên học lâu không?

- Không có học, cậu thưởng kẹo rồi xuống.

- Làm gì mà được thưởng kẹo?

- Làm sai toán, sai một bài được thưởng hai cái kẹo, em được tám cái.

- Còn Bình ?

- Cũng tám cái.

- Hai đứa bằng nhau ?

-Không phải, anh Bảo chỉ được sáu, sau được cho thêm hai cái cho bằng em. Cậu nói nếu lần sau làm sai cậu sẽ không có tiền mua. Cậu An hiền quá chị Nhung nhỉ!

Nhung hơi suy nghĩ về việc làm của An, mấy người kèm trước không ai làm chuyện này. Tự nhiên cả ba cùng thấy những buổi học tiếp theo không nặng nề căng thẳng, bởi trước kia hay bị những cái cóc lên đầu, hoặc bắt chép phạt không cho đi chơi. An thường dò bài giáo khoa thật kỹ không bỏ sót buổi nào, nhưng mấy chị em Nhung đều thuộc.

Những ngày sau, trong phòng học có treo thêm một bức tranh đồng quê và một hình tài tử điện ảnh. Nhung nghĩ, con người này mà cũng biết mê tài tử ciné. Tuần sau nữa lại thấy có khung hình nho nhỏ với cánh hoa hồng đỏ thắm, đặt trên bàn Nhung. Thích quá, Nhung cầm lên ngắm nghía. Cô hiện có mấy carte hình phong cảnh và nhiều loại hoa đang ép trong vở học để thỉnh thoảng mở ra ngắm nghía. Carte hoa hồng thì Nhung có nhiều lắm vì cô rất thích loài hoa này.

Mình chậm mất rồi, chưa biết dùng khung hình nhỏ để trên bàn chơi như An, mới đó mà đã học hỏi được nhiều điều. Nhưng An chính là người sung sướng hơn hết, bắt đầu cảm thấy sở hữu một không gian riêng tư, thể hiện được sở thích của mình.

Nhung đặt lại khung hình vào chỗ cũ, mắt nhìn nghiêng qua phía An đang giảng bài cho hai em. Từ trước đến nay, chưa bao giờ cô dám nhìn thẳng vào mặt mấy thầy kèm, cũng vì mấy bài toán lúc nào cũng trật trầy khó gỡ, không bị gõ đầu nhưng mặc cảm. Nhưng ở trường thì Nhung tiến bộ rõ rệt, hay đưa tay phát biểu, bài làm được điểm cao. Đó là động lực khiến Nhung hứng thú học hành, mấy em cũng siêng năng, bớt ham chơi. Mấy chị em đứng vị thứ cao trong lớp, mẹ Nhung rất hài lòng. Tối tối thường để sẵn cho An ly chè hoặc cái bánh ngọt khi dạy xong.

Thời gian đều đặn trôi qua. Mới đó đã sắp nghỉ hè. Nhung đứng cao, có phần thưởng. An cũng mang phần thưởng của mình về, bộ sách đệ nhất, có cả tự điển. Sau đó, An tập trung kèm bải vở cho Nhung chuẩn bị thi trung học, và anh cũng học ngày học đêm kẻo sợ thi rớt. Cuối cùng Nhung đỗ trung học, An đỗ tú tài một. Cả nhà vui vẻ trọn vẹn. Thời gian học hành thi cử xong đã mất đi gần nửa kỳ hè. An xin bà Vĩnh về thăm quê một thời gian.

Chiều hôm sau, bà Vĩnh sai Rớt lên cửa Thượng Tứ mua mấy chục cái bánh khoái về cho cả nhà ăn. Không hẹn, gần tối ông Vĩnh về cũng mang theo một xâu nhãn lớn, mấy lon vải, có cả hồng khô. Thấy con gái thi đỗ, ông vui mừng lắm, nói với An :

- Năm nay mấy em học hành tiến bộ, thi đổ cũng nhờ có cậu tận tình.

- Dạ mấy em ngoan lắm, biết vâng lời, lại chịu khó học hành.

- Cậu mà ráng được một vài năm nữa chắc mấy em sẽ đỗ đạt hết. Mấy người dạy trước như bắt cóc bỏ dĩa.

Bà Vĩnh nói thêm :

- Cậu về nghỉ ít lâu, rồi vô sớm để ôn lại bài vở kẻo mấy đứa ham chơi quên hết. Bảo và Bình cấp hai hết rồi. Năm nay bé Thúy lên lớp năm, nhưng để nó cho Nhung dạy, cả thằng Minh lên lớp ba nữa.

An dạ nhỏ, trìu mến nhìn mấy chị em Nhung.

Ông Vĩnh hỏi :

- Sáng mai cậu đi mấy giờ ?

- Dạ khoảng bảy tám giờ

- Mai xe ở nhà đi Đông Hà. Đây về làng cậu cũng theo ngả đó. Cậu dậy sớm đi theo xe luôn tiện.

Ngẫm nghĩ một lúc, An trả lời :

- Dạ em có hẹn về với người bạn cùng làng. Thôi, để mai em đi xe đò cũng được.

Bà Vĩnh nói thêm :

-Tiền xe đây về đó không bao nhiêu, để cậu đi với bạn cho vui.

Cơm tối xong, An xuống bếp chào hai người làm. Chị Rớt và Lài đang ăn cơm,

An chào hai người:

- Mai tôi về nghe chị Rớt. Lài ở lại mạnh giỏi.

- Cậu An về thăm nhà lâu mau? Chị Rớt hỏi.

- Khoảng mươi bữa nửa tháng.

- Năm nay cậu vô sớm cho vui, mấy đứa nhỏ mến cậu lắm.

- Chớ không phải chị trông anh An vô sớm để khỏi chẻ củi ? - Lài chọc quê chị Rớt.

Chị Rơt trợn mắt :

- Con này ăn nói vậy mà nghe được.

Lài vẫn cười:

- Chủ nhật nào cậu cũng chẻ cho cả đống củi chụm suốt cả tuần, còn giả bộ. Ăn cơm xong lo nấu nồi chè cho rồi.

- Hồi chiều mợ có dặn ngâm đậu rồi, không cần nhắc đâu – Kèm theo tiếng cười, chị Rớt nguýt Lài con mắt có đuôi.

An lên lầu, nhìn quanh một lượt, có cảm tưởng như đây là căn phòng riêng của mình, nó thân thuộc quá. An chưa muốn rời xa nhưng đâu còn lý do gì để ở lại. Anh phải về thăm mẹ, cứ đến những ngày sắp nghỉ hè là mẹ anh vào trông ra ngóng. Anh phải về sớm để báo kết quả thi cho mẹ biết. Mẹ anh chỉ có hai con trai, Ba An mất sớm, sau một cơn bạo bệnh, lúc An mới ba tuổi.

Từ khi đỗ vào đệ thất trường Quốc Học, An ở nhờ nhà người bà con xa trên Nam Giao, mọi việc ăn ở sách bút đều do mẹ lo. Đỗ xong bằng trung học, người bạn cùng lớp với An là Chương, nhà khá giả, bảo An về nhà mình kèm cho mấy đứa em nhỏ. Ba mẹ Chương thấy An dạy dỗ con mình học hành có tiến bộ, tính hiền lành nên rất quý mến. Có điều An phải mất sức nhiều vì phải dạy đến bốn trình độ. Mẹ của Chương sinh năm một, tính ra phải kè từ lớp hai đến lớp đệ lục, mỗi buổi dạy cho xong cũng đến chóng mặt. Sợ ảnh hưởng nhiều đến việc thi cử của bạn sang năm, Chương giới thiệu An với Trung.

Bây giờ dạy ở đây, tuy có nhẹ hơn nhưng cũng ba lớp nhưng cũng khó có thể tìm đâu ra gia đình nào ít hơn, khi còn ở cái thế hệ cổ hủ, sinh đẻ không biết thế nào là giới hạn. Dù sao, sau mấy tháng ở trong nhà ông Vĩnh cũng có điều dễ chịu. Tính hiền hòa của An đã khiến ông bà Vĩnh quý mến. Lần này về quê, hình như An có vương vấn thêm một điều gì không rõ. Một đôi mắt to ngơ ngác của ai đó. Một tình cảm mơ hồ nào chưa có tên, khiến lòng anh bất chợt thơ thới như ngọn gió mùa hè nhẹ thổi trong vườn trái quê nhà. Nơi ấy đang có đôi mắt mong chờ của mẹ.


CHƯƠNG II

Đỗ xong trung học, Nhung thấy người nhẹ nhõm, cô cùng các bạn lập chương trình thư giãn những ngày hè còn lại. Ngoài thời gian học hè ở trường tư, cứ mỗi chủ nhật là hẹn nhau đến nhà một đứa. Nhiều bạn có vườn cây ăn trái ở Kim Long, Nguyệt Biều, Hương Thủy, xa bao nhiêu cũng đạp xe tới. Nhà những bạn ở trong phố không có cây trái thì phải nấu chè hoặc cùng nhau tập làm bánh tai vạc, bánh rơm. Thỉnh thoảng rủ nhau đi xem phim. Hè năm nay Nhung và các bạn chơi đùa đằm thắm hơn, không leo cây hái trái đùa giỡn như trước. Có lẽ sợ sướt tay trầy chân trên da thịt con gái mới dậy thì. Không dám cười lớn tiếng mỗi lần nhớ đến câu mẹ thường nhắc nhở:”Con gái chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là người vô duyên”. Mà con gái mới lớn có gì xấu hơn làm người vô duyên, khi đã biết bắt chước các chị lớp lớn cách đi dáng đứng, bắt chước gội chanh chùm kết để dưỡng mái tóc thề.

Vui chưa được bao lâu, đã thấy An trở lại. Anh xách theo một giỏ đầy ổi, cam, xoài. Mẹ Nhung để phần cho ông Vĩnh, còn bao nhiêu đem chia cho bọn nhỏ. Nhung đi học chưa về, được để phần riêng. Đến mười một giờ trưa Nhung mới đạp xe về, ngạc nhiên khi thấy An ngồi ở ghế salon nhà trên, mắt nhìn ra cửa.

An hỏi :

- Học hè sao về trễ dữ vậy Nhung?

- Mấy đứa bạn rủ đi ăn chè -Nhung mỉm cười.

Chỉ mới một thời gian ngắn, An đã thấy Nhung ra dáng cô gái xinh xắn. Nhung cũng thấy An có phần đổi khác. Thoáng ngạc nhiên qua đi, Nhung vào nhà thay áo rồi hỏi mẹ phần quà của mình. Cô lấy cam, ổi, mỗi thứ một trái, để dành cho Lan .

Chiều khoảng ba giờ Nhung ngủ dậy, nghe Bảo nói :

- Cậu An biểu chị ngủ dậy lên cậu hỏi chi.

- Sao bắt học sớm vậy ? Nhung hơi nhăn nhó.

- Chắc không phải học đâu, chỉ hỏi việc gì thôi.

- Sao em biết?

- Em đoán vậy thôi .

- Làm thầy bói giỏi ghê đi – Nhung đùa.

Nhung ra sau rửa mặt, chải tóc, xong lên lầu. An đang ngồi nhìn ra cửa sổ, trên tay cầm một cuốn truyện gì đó. Nhung định qua phía bàn mình ngồi nhưng An gọi lại. “Nhung qua bên này“. Cô đến đứng trước bàn An. Anh đưa ra một cành cam hai trái còn mấy ngọn lá xanh tươi, cười nhìn Nhung :

- Để dành cành cam này cho Nhung đây - Chờ Nhung nhận cành cam, An lại hỏi:

- Hè đi chơi vui không ?

- Vui – Nhung mỉm cười.

- Vui gì… kể nghe với .

- Đi học hè, tới nhà mấy đứa bạn chơi,... đi ăn chè.

- Còn gì nữa ?

- Xem phim.

- Gì nữa ?

- Hết – Nhung muốn bật cười.

- Học hè đến khi nào mới nghỉ ?

- Còn hai tuần nữa.

- Có bài vở gì nhiều không?

- Bài không nhiều mấy. Thầy giảng làm được hết. Lâu lâu mới có vài bài tập khó nhưng thầy cũng giảng luôn.

- Nghỉ học gần tháng nay rồi, bữa nay học lại được chưa ?

-Khoan đã, để từ từ -Nhung đáp vội.

Biết tâm lý của Nhung vẫn còn biếng học như Bảo và Bình, An đề nghị :

- Tuy có đi học hè nhưng không bằng học ở nhà, cố gắng ôn những cái căn bản kẻo vô năm không theo kịp.

Nhung không trả lời, biết cô rầu rầu, An tiếp :

- Thôi cũng được, nhưng mà không học mẹ sẽ la. Buổi tối không học, chỉ học buổi chiều, hai ngày một buổi được không ?

Thấy An sắp xếp thời gian có vẻ hợp lý, Nhung đáp nhanh:

- Cũng được.

-Thôi Nhung xuống.

Nhung để dành phần ổi xoài của mình ăn mấy hôm mới hết, nhưng hai trái cam An cho, cô chưa đụng tới, lá bắt đầu héo và ngả sang màu vàng. Thấy vậy An nhắc cô ăn đi kẻo để lâu khô ruột. Đợi An lên lầu xong, Nhung biểu Bảo mang lên cho An một trái.

Nhập học được mấy tuần thì đến Trung thu. Chiều mười bốn, ông Vĩnh sai người lơ xe mang từ trên xe xuống hai hộp bánh, ông rất thích bánh trung thu. Khi cắt bánh sắp lên dĩa cho ba mẹ, Nhung cất dành cho An nửa cái, mặc dù ông Vĩnh vẫn mời An ngồi chung ăn bánh với ông.

Tối đến, đã nghe tiếng trống xẻng múa lân từ phía đầu cầu, ông Vĩnh lên lầu treo giải chờ lân đến múa. Nhung và mấy đứa em ra đứng ngoài lan can, mắt không rời ông Địa. Lân uốn lượn rất điệu nghệ, quầng trước sân một đỗi rồi đầu lân cao dần, đứng trên vai hai người kênh nhau mới lấy được gói tiền nho nhỏ. Ôâng Địa cười mãi cười hoài, phẩy quạt liên hồi khiến ai cũng phải ôm bụng cười, cho đến khi đầu lân vái chào và tiếp tục sang nhà bên cạnh. Bảo và Bình chạy xuống lúc nào không hay. Nhìn đám đông kéo theo đoàn múa lân, An hiểu khó mà bắt hai đệ tử nhỏ của mình phải học tối nay.

Sáng hôm sau Nhung biểu Bảo đem lên cho An nửa cái bánh trung thu. An ngạc nhiên không ngờ Nhung lưu tâm mình đến vậy. Có lẽ đây là cử chỉ đáp lại quà tặng hai trái cam hôm trước. Anh cảm thấy lâng lâng, nhận thấy Nhung có ý có tứ. An kéo hộc bàn cất bánh vào. Chờ tối học xong, An lại đưa cho Nhung một nửa. Nhung không ăn, mang phần bánh xuống nhà.


♣♣♣

Nắng ráo được vài hôm. Chiều nay trời bỗng mưa tầm tã. An về trước hơn nửa tiếng nhưng chưa thấy Nhung về, anh vội xuống bếp hỏi chị Rớt thử Nhung có đem theo áo mưa không. Chị Rớt vào chỗ móc áo mưa, thấy áo Nhung còn treo. An vội xếp gọn lại rồi đạp xe ngược về trường. Vừa đạp vừa trông chừng bên kia đường. Trời bắt đầu nhá nhem. Đến giữa cầu Trường Tiền, anh thấy có bốn năm nữ sinh không mặc áo mưa nghiêng nón đạp nhanh, trong đó có Nhung, An gọi Nhung dừng lại.

Vừa đưa áo mưa, An vừa hỏi :

- Sao không mang theo áo mưa? Trời ơi, lạnh tím…

- Lúc trưa đi gấp, quên mất.

An giúp Nhung mặc áo cho nhanh.

- Thôi đạp mau về kẻo bị cảm –An giục.

Gío thổi mạnh , từng đợt mưa tạt vào người, Nhung cắn chặt môi để khỏi run. Hai người đạp nhanh, gió càng thốc mạnh, không ai nói với ai lời nào. Đến nhà, An tường thuật lại với bà Vĩnh, bà gọi Lài lấy khăn khô cho Nhung lau và nhắc con gái phải mang theo áo mưa trong mùa này. Chị Rớt gọi Nhung xuống, biểu ngồi bên bếp lửa cho mau ấm. Sau bữa ăn tối, An nói Nhung có mệt thì ở dưới nhà học bài thôi. Nhưng nửa giờ sau Nhung vẫn lên vì mai có bài tập Anh văn.

Chép bài vào vở tập xong, Nhung ôm cặp đi xuống với một nụ cười, như muốn cám ơn lúc chiều. An cười nhìn theo, nhắc chừng :

- Xuống nhớ mặc áo len ngủ, khi chiều bị mưa.

Sáng mai không thấy Nhung ra bếp rửa mặt, An hỏi Lài sao cô chưa dậy. Lài nói hồi hôm Nhung bị sốt.

An có vẻ bất ngờ :

- Hồi hôm lên học đã thấy gì đâu .

- Chắc lúc đó lương ương trong người rồi, khi xuống có nghe rên lạnh – Chị Rớt nói.

An biểu Lài vào hỏi Nhung có đi học được không. Ra đến phòng Nhung, anh nghe Nhung nói vọng ra mệt quá không đi được.

- Có xin phép không ?- An hỏi.

Nhung uể oải trả lời :

- Lên nhà Tuyết Lan nói xin phép cô giùm Nhung.

An ăn sáng vội vã rồi lên nhà Tuyết Lan ở đầu cầu nhắn lại, xong đi học luôn.

Buổi sáng, các giờ học ì ạch như chiếc tàu lửa leo lên dốc. An không hăng hái phát biểu như mọi khi. Nam, người bạn thân ngồi bên cạnh thấy sự khác thường của bạn, hỏi tại sao nhưng An không nói gì. Tan học, An đạp xe một mạch về nhà. Mẹ Nhung cho biết buổi sáng Nhung có uống viên thuốc sẵn trong tủ, nhưng đến bây giờ không thấy bớt, lại kêu nhức đầu và ho. Bà Vĩnh nhờ An đi mua thêm thuốc. Ở hiệu thuốc người ta nói có lẽ bị viêm phổi. An đưa thuốc cho Nhung, dặn :

- Nhớ ăn no mới uống thêm thuốc, biểu Lài khuấy thêm nước chanh.

Trước khi đi học buổi chiều, An dặn bà Vĩnh nếu chiều không bớt sốt thì phải đưa Nhung đi bác sĩ. Buổi học chiều An không tiếp thu được bao nhiêu. Anh ngẫm nghĩ, tại sao mình lại quá lo lắng cho Nhung vậy nhỉ, sao lại xao động, vu vơ quên cả học hành.

Ở trường về An vào thăm Nhung :

- Có bớt nhức đầu không?

- Bớt nhưng còn ho.

An đặt tay lên trán Nhung, thấy vẫn còn hâm hấp :

- Không biết đến mai có bớt để đi học?

Nhung nhìn nghiêng vào tường, không nói gì.

Tối nay chỉ có hai anh em Bảo và Bình. Bàn bên kia, vắng Nhung ngồi học, bức tranh biết cử động đó, không hiểu đã khắc vào hồn anh từ lúc nào. Đến trưa mai thấy Nhung ăn cơm được, An mừng trong bụng, đưa cho cô mấy viên ô mai và hộp kẹo Kim.

Thời gian êm đềm trôi qua. Những buổi học tối yên tĩnh dễ chịu vì An giảng giải rõ ràng, không hỏi han rắc rối, khỏi phải lúng túng trả lời, vì vậy ba chị em rất thích học. Mỗi sáng chủ nhật, An đi sinh hoạt Hứớng đạo chừng mười giờ về, chẻ một đống củi cao cho chị Rớt để dành chụm.

Chị Rớt có mặt trong nhà này khi nào không biết rõ, có lẽ lúc Nhung chỉ mới một hai tuổi gì đó. Nhung nghe bà ngoại kể lại, trong một dịp ngoại về quê thăm bà cố ở quê lên, trên chuyến xe về, ngoại thấy có người đàn bà gánh hai thúng mía, dắt theo một bé gái chừng chín mười tuổi. Chờ cho người lơ xe kéo hai cái thúng lên xong, chỗ ngồi ổn định, ngoại mới hỏi người đàn bà mang con đi đâu. Người mẹ trả lời cho con lên thành phố xin giúp việc. Ngoại hỏi có cho làm con nuôi không thì người mẹ vui vẻ bằng lòng ngay. Xe tới bến, người đàn bà nói ngoại chờ một chút để vào chợ bán xong gánh mía. Ngoại hỏi em bé “ cháu tên chi “ – “ Dạ tên Rớt”. Ngoại mua bánh ú cho Rớt ăn và dặn không được đi đâu, sẽ bị lạc.

Về nhà, thấy người đàn bà quê mùa gầy guộc, bà Vĩnh hỏi:

- Chị mấy đứa con tất cả?

- Dạ bảy đứa. Có con chị mười hai tuổi đã cho đi ở rồi, bên cầu Gia Hội. Cực quá không nuôi con nổi cô ơi!

- Vậy thì tôi xin con Rớt làm con nuôi, được không ?

- Dạ được - Chị vui vẻ ra mặt.

- Hiền ơi - Bà Vĩnh gọi người làm - Con vô coi mấy áo quần cũ của mợ, cái nào không mặc nữa, gói lại đem ra đây.

Bà Vĩnh đưa gói áo quần cũ và một số tiền, nói :

- Số tiền này coi như tôi mua con Rớt, nhưng lâu lâu chị cũng lên đây thăm cháu, tôi đưa thêm cho chút ít.

- Dạ – chị nhìn số tiền khá nhiều, ngoài mơ ước của chị. Chị cám ơn, nước mắt rơm rớm.

Khoảng chừng đôi ba tháng một lần, chị lên thăm con và nhận ít tiền của bà Vĩnh. Có khi ôm theo cả đứa con còn nhỏ chừng vài tháng. Ai nhìn thấy cũng ngao ngán. Nhưng được hơn hai năm thì không còn thấy chị lên thăm con nữa. Không hiểu vì lý do gì. Nghe nói chị ở An Lỗ, nhưng bà Vĩnh có bao giờ ra khỏi nhà. Lấy chồng xong là bà sinh con liên tiếp như cái máy sản xuất. Một hai năm sau thì Hiền xin về, đến khi Nhung được tám tuổi thì đã có bốn đứa em, bà Vĩnh phải nuôi thêm Hạnh để bồng bế, khuấy sữa đêm hôm. Ở đến năm mười tám tuổi, Hạnh cũng xin về, phải thuê người ở vú, vì đứa con thứ sáu của bà Vĩnh mới có ba tháng đã bị bú sữa non.

Năm Nhung lên lớp đệ ngũ, bà Vĩnh nuôi thêm Lài, lúc đó mười lăm tuổi, xấp xỉ tuổi Nhung. Chị Rớt năm nay đã hăm hai hăm ba gì rồi, nhưng chưa có ai để ý. Người chị tròn chắc, tóc dài chấm lưng được cuốn lên bằng chiếc kẹp ba lá, da hơi ngăm vì đi chợ gánh nước nhưng trông cũng được người. Tuy ở thành phố mười mấy năm nhưng chị vẫn còn vẻ chơn chất, không như Lài, mới ở quê lên mà mắt môi coi bề lúng liếng.


....CÒN TIẾP ....