Việt Văn Mới
Việt Văn Mới









LỖI EM







C ậu phóng viên trẻ rủ tôi về làng cậu ta chơi.

Sếp ơi, làng em rất quê – nó gạ gẫm vậy. Vào hội, khách tứ phương, người xa quê về lễ chùa, đình đông nghìn nghịt. Nghe nói, chùa dựng từ thời Lê. Mà làng em còn nổi tiếng khoản rượu. Không phải vì lời giới thiệu đình chùa đẹp, hay rượu ngon, mà vì lý do khác, tôi quyết định về làng cậu ta chơi. Ngay hôm cu cậu đến nhận việc, xem sơ yếu lý lịch, thấy phần quê quán và tên ông bố đã ngờ ngợ, định hỏi, nhưng chưa tiện. Sáng ấy thầy trò lên đường. Xe phóng vù vù, ngồi sau xe, thỉnh thoảng tôi phải nhắc: "Vừa vừa thôi. Tao vợ đẹp, con khôn...". Nghe vậy cậu chàng khì khì cười:

- Sếp vô tư đi. Em tay lái lụa. Sếp xem này! Hà há ha!

Cứ như mô tả, thì làng cậu ta gần quãng mà ngày ấy tôi gặp em. Tưởng chuyện qua rồi, lạ sao, nay tóc điểm bạc, lúc buồn, lúc vui, lại hay nghĩ tới. Mình già rồi ư? Khi cao cao tuổi, người ta thường hồi tưởng, sống trong kỷ niệm, nhớ về quá khứ? Con gái tôi đang đại học năm thứ tư, tuần trước dẫn bạn trai về giới thiệu

. Không chỉ tôi sững sờ, mà bà xã cũng vậy. Tối ấy khuya rồi, tưởng vợ đã ngủ, vừa trở mình, tôi nghe vợ hỏi:

- Anh nghĩ ngợi gì thế?

- Về thời gian…

Sau câu trả lời của tôi, rồi cả hai im lặng. Chắc vợ cũng vậy, đang chìm trong không gian riêng tư. Tôi đã giấu vợ chuyện về em. Bằng linh cảm người vợ, qua những bài thơ, truyện ngắn của chồng, chắc cô ấy biết. Em, giá như ngày ấy... thì chúng ta ra sao nhỉ? Giờ này em ở đâu? Chắc cũng một tổ ấm. Biết đâu trong những đứa con của em, vừa dẫn người yêu về trình bố mẹ. Tôi từng giằng xé, ân hận về cái thuở sinh viên ấy, mấy ngày nghỉ hè còn lại, không tìm được em. Sau này có lúc định, toàn định cả thôi,… rồi nghĩ ngợi, giờ người ta yên ấm, có nên xáo động chăng. Để rồi trăn trở, dằn vặt...

Ba mươi năm trước trên con tàu liên vận, dịp nghỉ hè năm thứ ba, tôi từ Rumani về nước. Thật sốt ruột, chỉ ước giá sau giấc ngủ, tỉnh dậy là quê mẹ. Nhà tôi ở cái thị trấn giáp Hà Nội. Thư nhà gửi sang viết, bom đạn bắn phá tan nát, dân sơ tán hết. Lá thư mới nhận được, mẹ cho hay, bố đang phục vụ trên cung đường mạn khu Bốn, nơi máy bay đánh phá rất ác liệt, còn cơ quan của mẹ sơ tán mạn Hưng Yên, các em thì chạy theo trường.

Về nghỉ hè đợt này, tìm đến chỗ mẹ là tiện nhất.
Tôi du học Rumani vào đầu năm 1965, mấy tháng sau sự kiện vịnh Bắc Bộ. Ngày ấy chiến tranh với tôi khá mơ hồ, không hình dung hết tính khốc liệt của nó. Khái niệm về chiến tranh trong tôi ấy là: Dịp đó có chiếc máy bay thám thính vèo qua thị trấn. Chẳng ai nhìn thấy hình thù nó rao sao. Chỉ bất thần nghe âm thanh xé tai, chưa hiểu mô tê gì, ngẩng lên thấy vệt khói trắng vắt ngang trời. Người ta bảo, đấy là máy bay không người lái, chúng do thám tình hình của ta đấy.

Sau sự kiện đó thị trấn nhỏ quê tôi nhốn nháo. Có người mang loa đi rao dọc phố, giải thích máy bay vào thám thính, kèm theo là lời kêu gọi, khẩn trương sơ tán. Người người, nhà nhà vội vã thu xếp đồ đạc, tưởng như máy bay sắp rải bom, bắn phá đến nơi. Vì gấp gáp, chỉ những của nả gọn nhẹ mới mang đi, mẹ tôi sắp xếp: chăn bông, nồi xoong,... đại ý chỉ khuân lôi những vật dụng quý giá trong nhà. Tôi thấy sơ tán vui vẻ quá. Đoàn người lũ lượt tản ra các làng xóm lân cận. Đám trẻ được dịp tụ tập, vui chơi. Tôi nhớ, thấy anh em hơn hớn, mẹ mắng cho một trận. Cuộc sơ tán diễn ra chóng vánh, đi hai ba hôm, chẳng thấy máy bay đâu, lương thực mang theo cạn và rất nhiều thứ bất tiện khác, các gia đình lục tục kéo nhau về. Đấy, khái niệm chiến tranh của tôi là vậy - vui vẻ, ồn ã. Sau này bên Rumani, tin tức về cuộc chiến tranh Việt Nam hàng ngày đăng tải đầy trên báo đài, nhìn cảnh làng mạc, trường học, bệnh viện bị ném bom, tôi mới hiểu, tính khốc liệt của nó.

Tàu liên vận quốc tế dừng ở bên kia biên giới. Qua cửa khẩu Lạng Sơn, tôi phải đi từng chặng, lúc thì tàu hỏa, lúc tăng bo ô tô, đoạn cuốc bộ. Có trăm cây số từ Lạng Sơn về Hà Nội, đi gần hai ngày. Tối mịt tàu mới bò về tới ga Gia Lâm. Không nhớ phải hỏi thăm bao người, những người đạp xe hay cuốc bộ, lũi cũi trong đêm, tôi mới mò ra bến xe sơ tán về tuyến Hưng Yên. Lúc đó khoảng quá nửa đêm. May hôm ấy cuối tháng, trăng muộn. Bến xe núp dưới luỹ tre, nhìn ra xung quanh, thấy mấy ụ đất cao lù lù, sau này mới hay, đó là hầm kèo tránh bóm. Khách đợi chờ xe nằm ngồi vạ vật. Tôi chọn một chỗ trống, tệt xuống ngồi. Gió đêm lạnh. Chợt nhớ túi áo còn bao thuốc dở, tôi lấy ra một điếu. Vừa đánh diêm đã nghe tiếng quát tướng:

- Muốn chết cả sao mà hút thuốc. Máy bay nó không bắn cho bỏ mẹ bây giờ...

Tiếng ồn ĩ đánh thức những người xung quanh đang lơ mơ ngủ. Tôi tự dưng thành điểm chú ý của mọi người. Mấy người lúc trước nằm ngồi gần tôi, tự dưng tản qua chỗ khác. Rồi những tiếng bâng quơ:

- Quân rửng mỡ...

- Thằng đảo ngũ...

Ấy là họ đang nói tôi, một kẻ vừa từ nước ngoài về, mắc cái áo trắng lôm lốp. May mà ban đêm, chứ ban ngày, nhìn vẻ béo tốt, hồng hào, bởi xơi lắm bơ, nhiều sữa của tôi, rồi tóc tai cớp lên, chắc họ còn ghét nữa. Tôi chỉ biết im lặng. Cuộc cạnh khoé không biết diễn ra bao lâu nữa, nếu như không có tiếng động cơ rì rầm. Ai đó toáng lên, có máy bay, nhiều người nhớn nhác. Rồi sau lại hô tiếp, ô tô. Ngoài đường thấy chiếc xe tải dừng, động cơ vẫn nổ, thùng xe có người đứng ngồi lố nhố. Trên ca bin lái xe nhoài ra:

- Xe bộ đội đây! Ai qua phố Giác không?

Nhiều người ồ lên, quáng quàng thu dọn, nháo nhác chạy ra xe. Tôi cũng lếch thệch kéo va li chạy. Vừa bị xô đẩy, vừa vướng va li, tôi loay hoay mãi chưa leo lên được thùng xe. Chợt có giọng con gái vọng xuống: Anh gì ơi! Đẩy lên, em đỡ cho. Tưởng cô ta nói với ai, nhưng ngoái lại nhìn, duy nhất còn mình tôi. Hoá ra cô ta nói với tôi. Cô gái khom mình, hai tay giơ ra, tôi vội vàng nâng va li và chỉ kịp đu người, xe đã chuyển bánh.

- Cảm ơn...!

- Dạ, không có gì! Anh... về đâu?

- Phố Giác! Còn em ?

Tôi không nghe rõ tiếng em trả lời. Định hỏi lại thì mấy người khách lên cùng quay lại nhìn, tôi đành im lặng. Dù trong đêm tôi vẫn biết, họ còn khó chịu với tôi lắm, cái thằng du côn, áo trắng bôm bốp, quá bằng nhử mồi cho máy bay. Trong ánh trăng tôi nhận ra người vừa giúp mình - em đẹp và rất trẻ, trẻ lắm, một cô bé thôi. Bé bao nhiêu tuổi nhỉ? Tôi kín đáo quan sát. Mười sáu, hay mười bảy? Trên xe chật cứng, cả tôi và em đều đứng, tay bám vịn chặt thành xe cho khỏi nghiêng ngả. Khuôn mặt em kề sát bên tôi, cảm giác như có thể chạm vào hơi thở em. Hình như biết ánh mắt tôi đang chăm chắm nhìn mình, em ngượng ngùng, cúi xuống.

- Gì thế e…m?

- Không có gì. Chuyện vừa nãy, chắc anh g..i..ận... mọi người?

- Không! Có gì đâu. Anh vừa từ Rum... về!

- Em cũng đoán anh từ nước ngoài về. Anh họ em cũng học bên Liên xô đấy!

- Thế à! Thành phố nào?

- Ki... ép.

- Học năm thứ mấy?

- Dạ, năm...

- Tên... gì?

- Dạ... tên Th..à...

- Gì c...ơ ? Cùng năm với anh đấy.

Ngày ấy đoàn lưu học sinh của bọn tôi đông lắm. Tiếc là tôi không biết anh Th...à... hay anh Thành của em. Nhóm sang Rum là toán cuối cùng, xa nhất trên chuyến tàu chở đoàn lưu học sinh. Động cơ ô tô ầm ầm và gió ào ào thổi, tiếng em, tôi nghe câu được câu mất. Em giơ tay vuốt vuốt lọn tóc gió bay bay. Xe lắc làm tay em va nhẹ vào cằm tôi. Em ngượng ngùng rụt lại. Tôi mỉm cười trong đêm. Gió lại tung tóc em bay bay, những sợi tóc quấn quýt vào má, vào cằm, vào cổ tôi. Tôi ước ao, giá mà và tưởng tượng... Ý nghĩ làm tôi rạo rực. Thoang thoảng hương sả từ tóc em. Mấy năm rồi mới gặp lại mùi hương xứ sở. Vô tình tôi buột miệng:

- Hương sả...?

- Gì cơ?

Em hỏi và tôi thì thầm nhắc lại. Bé nhìn nhanh sang tôi, rồi thẹn thùng cúi xuống. Cái nét thẹn thùng của bé đáng yêu và duyên quá. Thật khác với phụ nữ Âu châu.

- Em học... lớp mấy?

Em nhại lại từ “lớp mấy” của tôi và khúc khích cười. Tiếng cười em trong vắt, ngây thơ:

- Em đang thực tập. Cô giáo làng...

- Cô giáo?

Tôi ngạc nhiên và lại thấy tiếng em cười.

- Cười gì đấy?

Tôi hỏi và em đáp lại:

- Cười anh hút thuốc bị người ta mắng. Thấy bảo trên cao, phi công nhìn cặp tóc to bằng chiếc đòn gánh. Ban đêm, đom đóm bay, chúng nhìn rõ đấy!

Thoáng nghĩ, em thật trẻ, trẻ như suy nghĩ của em. Vẫn tiếng em:

- Thế mà có người dám bật lửa hút thuốc. Mọi người lúc nãy hiền đấy, chứ phải em...

Tôi chen lời:

- Thì sao...?

Không biết từ lúc nào, bàn tay víu thành xe của tôi đã ấp lên bàn tay em và bàn tay em vẫn yên lặng trong bàn tay ấp ủ của tôi. Rồi cả cả hai im lặng, im lặng như để tận hưởng cảm giác lạ lẫm, ngỡ ngàng trong nhau. Bất chợt xe dừng đánh khự, mọi người trên xe xô dạt, nghiêng ngả vào nhau. Em cũng xô dạt, cả thân hình, mái tóc em trọn trong vòng tay tôi. Như con thiêu thân, không biết xung quanh có ai, không biết mình đang ở đâu, ghì mạnh và cuồng nhiệt, tôi thì thầm vào tai em. Em dùng dằng, nửa muốn thoát ra, nửa như nấn ná. Chợt tiếng lái xe cắt ngang giây phút thần tiên ngắn ngủi ấy:

- Đến phố G..iác rồi. Ai xuống, nh...a...nh lên!
Xung quanh tiếng người giục nhau í ới, tiếng cảm ơn chú bộ đội lái xe tốt bụng cho đi nhờ. Em và tôi bừng tỉnh, dứt khỏi cơn mê. Phố Giác, nơi mẹ tôi sơ tán. Tiếng em nhớn nhác giục, tiếng tôi hỏi lại, chìm trong tiếng người và động cơ ô tô. Dưới mặt đất, tôi đang chới với đón va li, thì một người nhảy uỵch xuống. Cú đẩy bất ngờ làm tôi loạng choạng, va li đè sấp lên người. Trên xe, em thất thanh hỏi, con tôi đang lồm cồm bò dậy, thì xe đã ì ì chuyển bánh:

- Đợi... đợi đã. Em ở đ..â..u?

- Em ở... - Tiếng em nghe câu được câu mất - Nhớ tìm em nhá! E...m đ...ợi!

Tôi luống cuống chạy theo xe. Chỉ còn ý nghĩ đuổi theo em, cuồng dại chạy theo xe. Trên xe bóng em chới với, tay em vẫy vẫy. Xe xa dần, xa dần, chỉ còn lại tiếng động cơ ì ầm và mờ mờ bóng đêm. Tôi thở dốc dừng lại, tự trách mình: sao ngốc nghếch, vô tâm thế; đến tên em, ở đâu cũng không rõ... Trong đêm chỉ còn mình tôi bơ vơ. Đường khuya vắng lặng, càng làm tôi thêm ân hận. Ngồi phịch lên chiếc va li. Chợt xung quanh tiếng kẻng keng keng. Gì thế nhỉ? Bất thần trên trời âm thanh chói tai xoẹt qua. Bầu trời đêm loé sáng, vun vút những vệt lửa đạn súng phòng không cheo chéo vút lên, cùng tiếng nổ đùm đụp. Bất chợt theo hướng con đường, bùng lên quầng sáng, tiếp đó mặt đất như chao đảo. Tôi chợt hiểu, bom. Sau tiếng nổ, xung quanh ắng lặng. Im lặng đến ghê người. Vẫn hướng phía con đường, quầng sang bùng lên hơn. Rất nhanh, ý nghĩ trong tôi, ô tô em bị máy bay oanh tạc. Phản xạ tự nhiên, tôi vụt nhổm dậy, thục mạng chạy về nơi vầng sáng ấy. Tôi chạy, chạy như điên. Ý nghĩ trong tôi, mình đã bỏ mặc em, bỏ trong lúc em gặp nạn,... Khoảng sáng trước mặt tôi mỗi lúc một sáng rõ thêm. Có người chạy ngược lại, vội vàng tôi hỏi và tiếng đáp: ô tô bị rốc két. Tim tôi thắt lại lo lắng.

Mặc cho người ta hét bảo: chạy lại làm gì; máy bay có thể quay lại oanh tạc. Rồi tôi ngửi thấy mùi khét lẹt và lù lù bóng chiếc xe tải lù lù đứng giữa đường. Hốt hoảng tôi hỏi mấy người đang dập nốt những đám lửa cuối cùng. Cậu lái xe cho biết, mọi người kịp tản ra trước khi xe bị oanh tạc. Trên xe hai khách đàn ông bị thương, vừa đưa đi cấp cứu. Những người khác tản vào trong làng, chắc theo đường tắt đi tiếp. Tôi thở phào nhẹ nhõm, em không việc gì. 
Biết tôi cũng là khách trên xe, lại có ý định rượt tìm em, mấy người xúm lại gàn, đêm hôm khuya khoắt thế này, biết đâu tìm chứ. Tôi thất vọng nhìn vào khoảng không đêm tối mênh mông. Đúng, có tìm nổi không. Chán nản, tôi đành quay lại. Chiếc va li nằm giữa đường, toán dân quân tuần tra phát hiện thấy. Khi tôi quay lại, họ vây quanh, lại phải trình bày, giải thích, đưa cả hộ chiếu và cũng may, cơ quan mẹ tôi sơ tán gần đó, liền bị dong tôi đến tận nơi, xem lời khai có khớp không. Mẹ tôi được bữa hoảng hồn, giữa đêm hôm khuya khoắt, có người đập cửa và bất ngờ nhìn thấy con trai bị vòng trong, vòng ngoài dân quân vây bủa.

Hơn ba tuần về nước trôi vèo. Tôi đạp xe đèo mẹ vào Thanh Hoá thăm bố, tới mấy trường các em học sơ tán, rồi thăm viếng họ hàng nội ngoại. Định dành mấy ngày cuối tìm em, thì tôi lăn ra ốm...


***


Đúng như cậu phóng viên mô tả, làng cậu ta cổ và đẹp thật. Con đường làng quanh co vỉa gạch nghiêng nghiêng, cổng ngõ rêu phong, cây đa già xỏa bóng. Vốn chữ Nho tự học, đủ để tôi lõm bõm đọc được dăm ba chữ, có cổng xóm xây từ đời vua Tự Đức, có cổng đời Thành Thái. Tiếp chuyện tôi là ông nội của cậu phóng viên. Cụ tuổi ngoài tám mươi, râu tóc bạc phơ, da đỏ au như quả bồ quân và còn rất minh mẫn. Cụ cứ gọi tôi bằng ông, mặc dù mấy lần tôi thưa, mình chỉ hàng con cháu cụ. Cụ hỏi thăm tình hình chính trị, hỏi nhận xét ông Thủ tướng điều hành đất nước ra sao, rồi chuyện chiến tranh Chesnia.

- Tiếc quá! Giá hôm nay bố cả nó ở nhà, tiếp cơm ông...

- Dạ thưa cụ, trước lạ sau quen, rồi sau này thiếu gì dịp anh em cháu gặp nhau.

- Đường sá xa xôi, mãi tận thành phố Hồ Chí Minh, bố cả nó một năm đôi ba lần ra họp ra công tác. Ngày trước bố cả nó học giỏi lắm nhá. Thế mới được cử đi Liên Xô học đấy!

- Thưa... anh nhà ta đi năm nào ạ?

- Sau cái đận thằng Mỹ gây hấn vịnh Bắc bộ.

- Dạ, có phải học ở Ki-ép không ạ? Anh ấy tên Th...à phải không?

- Ồ kìa, thế ra ông cũng biết thằng cả nhà tôi à! Đúng là đánh nhau vỡ đầu mới nhận ra họ.

Tôi chưa kịp giải thích với ông cụ, nào tôi có học hành với anh Th...à hay anh Th...ành con của cụ đâu. Trí nhớ của tôi còn đọng lại cái âm thanh trong đêm, về tên người anh họ của em. Từ lúc ấy trong tôi cảm giác hồi hộp, chờ đợi. Mình tìm đúng quê em rồi. Số phận chăng? Hiện nay em ra sao? Tôi sốt ruột muốn hỏi, nhưng chưa tiện. Tiếng ông cụ cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi:

- Tính đến lớp bố cả nó nhà tôi, làng có nó và con em họ là học cao nhất đấy. Thằng anh thì sang tận Liên Xô, còn con em nghề giáo học. Chỉ tiếc là con em... - nói rồi ông cụ huơ huơ đũa chỉ về hướng ao trước nhà - Nhà con em nó ở bên kia kìa. Khổ thân con bé! Người ta có số cả đấy!
Tôi lo lắng, mong chờ ông cụ nói tiếp, nhưng cụ lại dừng lời, chuyển sang chuyện khác. Không lẽ tôi hỏi lại. Ngay sau bữa ăn, lấy lý do thăm xóm làng, tôi loanh quanh ra ngõ. Cứ theo hướng tay ông cụ chỉ, thì chắc lối nhà em đây. Cổng tre cũ dựa hờ, xiêu vẹo. Con đường nhỏ chạy men sát bờ ao. Sao vắng lặng, quạnh hiu quá! Tôi thoáng lo lo cho em, rồi tự trấn an, chắc gì đã đúng, biết đâu trùng tên, trùng tuổi. Ngày đó mình nào nghe rõ đâu. Ý nghĩ vậy làm tôi mạnh dạn, bước tiếp vào ngõ và hy vọng, không phải là em.

Ngôi nhà chênh chếch hướng ra ao. Mái rạ lâu ngày mủn xẹp. Vách đất tua tũa, nhiều chỗ trơ cả dứng tre. Trong sân có người phụ nữ đang lúi húi băm bèo. Từ phía sau tôi có thể quan sát, mà người ta không hay biết. Một phụ nữ gầy guộc, khó đoán tầm tuổi bao nhiêu. Qua cách ăn mặc, chiếc áo nâu bạc thếch, trên vai còn mấy miếng vá, thì đó là một phụ nữ đứng tuổi. Đúng, không thể là em. Em tôi khác cơ. Nhận xét ấy làm tôi yên tâm, tiếp tục quan sát.

Dáng ngồi của người đó hình như không tự nhiên, thân hình lệch xô về một phía. Đúng là nhầm lẫn rồi. Đã định quay ra, song tôi phân vân. Mái tóc người phụ nữ xoã dài, chảy phủ xuống qua vai, buông bết tận mặt đất. Tóc em ngày ấy cũng buông dài.

Người phụ nữ vẫn lúi húi băm chặt đám rau lợn, không hề hay biết có khách. Tôi quyết định lên tiếng:

-Ư... m hừ. Dạ, tôi hỏi không phải...

Nghe tôi đánh tiếng, người phụ nữ chậm chạp ngoái lại. Mái tóc xoã phủ, tôi nhìn không rõ mặt. Chưa biết xưng hô thế nào cho phải phép, nhưng đủ thời gian tôi quan sát: khuôn mặt da rám xạm, không linh động, mà dài dại, nhất là một bên mắt. Chắc là di chứng của căn bệnh nào đó để lại.

- Bá...c hỏ...i ai?

Giọng nói đơn đớt - người phụ nữ hỏi và nhìn ông khách lạ. Tôi lúng túng cất lời xin lỗi, nói rằng mình vào nhầm nhà và giải thích là khách nhà bên kia ao. Đã định quay ra, chợt tôi thoáng thấy khuôn mặt người phụ nữ biến đổi, ánh mắt dại dại hơn... Kìa, đôi mắt người ấy trân trân ngó nhìn tôi. Sao đến tận lúc đó tôi mới nhận ra, có nét quen quen. Rồi những âm thanh lắp bắp, ngọng nghịu phát ra. Tôi nghe nhầm chăng? Không biết lúc đó tôi có động tác, cử chỉ gì, chỉ thấy người phụ nữ chậm chạp quay lưng, một bên vai lệch xuống và bước đi tập tễnh khó nhọc.

- Kìa,… em!

Tôi như kẻ vô hồn thốt lên thế! Không quay lại, em vẫn tập tễnh bước. Mái tóc buông dài phất phơ. Tôi như trong mê... Tận khi em khó nhọc bước lên hiên nhà, tận khi khuất sau khung cửa, tôi vẫn trân trân ngó nhìn theo. Nếu không có bà cụ cụ khua gậy, rờ rẫm trong nhà bước ra, tôi sẽ còn đứng như trời trồng bao lâu nữa:

- Nghe như ai đến nhà ta? Có phải các ông bên Ủy ban, hay ông giáo bên trường sang chơi? Lâu lắm rồi các ông

mới sang?

Tiếng bà cụ thều thào, nghe câu được câu mất. Tròng mắt trắng đục, nghếch nghếch “nhìn”. Xen lẫn tiếng bà cụ là tiếng khóc thút thít từ trong nhà vọng ra. Lại tiếng bà cụ:

- Khổ, khóc! Ngày nào cũng khóc. Ai người ta biết, mà ngóng, mà trông!

Tôi ngập ngừng định cất tiếng chào, nhưng nghe câu nói của bà cụ chợt sững lại. Mình mộng du chăng? Không, kìa bên tai tôi, vẫn còn như tiếng em tan loãng trong đêm:

- Nhớ tìm…! Em đợ...i!./.