V
ậy rồi tôi cũng về thăm được quê ngoại vào mùa lũ.
Thằng cháu hăm hở xách cây chỉa đi xăm chuột và rắn hổ. Thằng này có tướng sát cá. Đầu cạo trọc tếu, phía sau để cái xi nhông coi ngồ ngộ.
Nó phô hàm răng chín sáu ba không, cười toét với tôi: “Phải hồi nẳm cậu về, mặc sức mà ăn rắn mối. Giờ chỉ có chuột với rắn hổ hành. Chuột
khìa nước cốt dừa. Hổ hành hầm sả”.
Tôi nhớ hồi đó ngồi câu rắn mối với nó ngoài bờ bao kinh chuối. Mỗi người một cần câu. Đầu lưỡi câu mắc tòn ten bông bí rợ. Câu dập
dập bả trầu được ngoài chục con. Nó quơ lá chuối khô, đốt lên nướng mọi mấy con rắn mối. Xong xuôi thì đập đập mấy cái cho sạch tàn tro,
rồi lột da xé thịt ra, chấm muối ớt ăn ngoen ngoẻn. Coi vậy mà ngon hết biết.
Lần này nó rủ tôi vô rừng tràm khều ổ kiến vàng lấy trứng. Hai cậu cháu dùng trứng kiến câu cá rô. Cá rô theo mùa nước son, từ Nam Vang đổ về,
mỗi con chỉ nhỉnh nhỉnh cỡ hai ngón tay. Ngồi xuồng một chặp, giựt được gần cả rổ. Lúc trở về, nó rủ tôi đáo qua khu gò mả, kiếm bậy mấy con
rắn trun về nướng lèo.
Khu gò mả nằm thèo lãnh giữa đồng nước, cây cối rậm rạp như rừng.
Hồi xưa, dì Bảy tôi mê dượng Bảy, từng đưa nhau trốn vô đó cả tuần, cả tháng. Lúc dì đeo bầu, bà cố ngoại đành phải chịu cho dì theo không
dượng Bảy. Nhưng nói có Thần Phật, dì dượng cũng có làm đám đàng hoàng. Hai con vịt hãng nấu cháo. Bữa đó tôi cũng được phép uống mừng
một chung rượu. Rượu nhà tự cất. Tôi nhớ là vừa có mùi khê, vừa có mùi hèm. Hồi đó dượng Bảy nghèo tới trật duộc, tới thuốc giồng vấn
giấy nhật trình, còn phải hút kiểu dế nhủi dính trên vách lá. Bởi vậy dượng mới ngán cảnh đời mà thoát ly theo kháng chiến. Nhờ
theo kháng chiến, dượng mới biết đọc, biết viết. Lá thư nào của dượng gởi về, tuồng chữ cũng to cồ cộ; nét chữ gãy gập, xiên xẹo như
đồng đưng gặp phải mùa gió chướng. Dì Bảy mướn tôi đọc thư giùm bằng bánh ú, bánh da lợn.
Viết thư hồi âm thì được thưởng mười đồng.
Có lần dì Bảy dẫn tôi vào khu gò mả hái lá mỏ quạ về nấu canh. Lúc hai dì cháu ngồi nghỉ chân bên bờ con xẻo, dì ngùi ngùi kể:
Cái đận dì với dượng trốn vô đây sống với nhau, trong gò có một gia đình khỉ tá túc. Một bữa dượng bây bơi
xuồng đi bán rắn trở về,
có mua cho dì cái vòng bạc. Hồi đó có cái vòng bạc cũng là xa xỉ nhứt xứ. Lúc ngồi lui cui tát nước xuồng, dì sợ hư, mới tháo ra bỏ
trên mui sạp. Chừng lên bờ thì quên mất. Tới lúc dượng hỏi mới sực nhớ. Lúc dượng với dì cùng nhau ra tới nơi, chợt thấy trên xuồng
có gia đình khỉ. Con khỉ mẹ cõng trên lưng đứa con, ngồi chéo ngoảy trên mui xuồng. Con khỉ cha cầm cái vòng bạc, đang loay hoay
tìm cách đeo vô cổ tay con khỉ mẹ. Thấy vậy, dì tính la lên cho nó sợ. May mà dượng Bảy nhanh tay kịp bụm miệng dì lại.
“Bà la to, lỡ nó giựt mình, làm rớt cái vòng xuống nước, biết có mò được không”. Nghe có lý, dì với dượng ngồi núp sau lùm bình bát.
Meèng ơi! Hai vợ chồng khỉ cứ hết đeo vòng vô lại lột vòng ra, trửng giỡn với nhau thấy mà sốt ruột. Chừng ngồi nóng bàn giò mới thấy
con khỉ mẹ đặt cái vòng xuống sạp ván. Lập tức dượng với dì đứng vọt dậy, cùng là “ùy”ụ một tiếng. Vợ chồng khỉ giật mình, nhảy phắt
lên đánh đu trên cành cây. Trong lúc vội vàng, con khỉ mẹ làm rớt đứa con xuống nước. Bởi vậy mà dù sợ người, cả hai vợ chồng khỉ
cũng không dám bỏ đi xa. Chúng cứ thoăn thoắt vừa chuyền cành, vừa la chí choé. Thương vợ chồng nó, dì kéo dượng Bảy chun vô núp
trong đám ô rô. Biết sao không? Vừa thấy mất bóng người, cả hai vợ chồng khỉ đã nhảy ngay xuống mui xuồng. Rồi khỉ vợ nhào xuống nước
lặn mò con. Nó lặn dài hơi như người. Mấy lần lặn, mấy lần ngoi lên tay không. Mỗi lần thấy khỉ vợ tay không trồi lên mặt nước,
khỉ chồng lại cung tay cú lên đầu vợ nó. Cứ sau mỗi lần bị cú, khỉ vợ lại uồm xuống nước lặn mò con. Mình mẩy nó ướt rượt, xơ xướp
cả lông lá; chỉ coi thôi mà muốn thắt ruột. Lúc day lại, dì thấy hai tròng mắt dượng
Bảy đỏ hoe như hai cục than đước trong lò.
Lúc nghe dì kể tới đó, tôi ngây thơ hỏi: “Chớ cái vòng bạc giờ còn không?”. Dì cú lên đầu tôi, nói như thở hắt ra:
“Bữa đó dượng Bảy bây liệng luôn cái vòng xuống nước. Dám chừng tới bây giờ cái vòng bạc vẫn còn ở dưới”.
Thằng cháu tôi cũng được má nó kể cho nghe chuyện này.
Lúc tới bến nước vợ chồng khỉ mò con, nó đột nhiên nắm lấy tay tôi: “Cậu Ba à! Phải hồi đó mà cái vòng bằng vàng, chắc ba tui ổng cũng liệng.
Má tui bả nói, ổng với tui tánh tình y hệt như nhau”.
Trời ạ! Thằng nhỏ từ hồi sanh ra tới giờ, nó có biết mặt ba nó đâu. Ba nó theo đàng mình đi miết theo tiếng súng.
Tới tận giờ này cũng không biết ổng nằm xuống ở nơi nào. Chỉ nghe đồn mài mại: ổng nhào xuống sông cái, cứu một gia đình thuyền chài
bị máy bay chuồng heo quần đảo, bắn òng ọc bằng súng máy . Cũng chỉ nghe mài mại vậy thôi.
Quê tôi sông rạch chằng chịt, gặp mùa lũ chụp, nước trời liền nhau mênh mông như biển sở. Thuở ấy lại
còn bom đạn, biết tía nó trôi dạt nơi nào… -/.
Tôi nhớ hồi đó ngồi câu rắn mối với nó ngoài bờ bao kinh chuối. Mỗi người một cần câu. Đầu lưỡi câu mắc tòn ten bông bí rợ. Câu dập dập bả trầu được ngoài chục con. Nó quơ lá chuối khô, đốt lên nướng mọi mấy con rắn mối. Xong xuôi thì đập đập mấy cái cho sạch tàn tro, rồi lột da xé thịt ra, chấm muối ớt ăn ngoen ngoẻn. Coi vậy mà ngon hết biết.
Khu gò mả nằm thèo lãnh giữa đồng nước, cây cối rậm rạp như rừng.
Hồi xưa, dì Bảy tôi mê dượng Bảy, từng đưa nhau trốn vô đó cả tuần, cả tháng. Lúc dì đeo bầu, bà cố ngoại đành phải chịu cho dì theo không dượng Bảy. Nhưng nói có Thần Phật, dì dượng cũng có làm đám đàng hoàng. Hai con vịt hãng nấu cháo. Bữa đó tôi cũng được phép uống mừng một chung rượu. Rượu nhà tự cất. Tôi nhớ là vừa có mùi khê, vừa có mùi hèm. Hồi đó dượng Bảy nghèo tới trật duộc, tới thuốc giồng vấn giấy nhật trình, còn phải hút kiểu dế nhủi dính trên vách lá. Bởi vậy dượng mới ngán cảnh đời mà thoát ly theo kháng chiến. Nhờ theo kháng chiến, dượng mới biết đọc, biết viết. Lá thư nào của dượng gởi về, tuồng chữ cũng to cồ cộ; nét chữ gãy gập, xiên xẹo như đồng đưng gặp phải mùa gió chướng. Dì Bảy mướn tôi đọc thư giùm bằng bánh ú, bánh da lợn. Viết thư hồi âm thì được thưởng mười đồng.
Có lần dì Bảy dẫn tôi vào khu gò mả hái lá mỏ quạ về nấu canh. Lúc hai dì cháu ngồi nghỉ chân bên bờ con xẻo, dì ngùi ngùi kể:
Cái đận dì với dượng trốn vô đây sống với nhau, trong gò có một gia đình khỉ tá túc. Một bữa dượng bây bơi xuồng đi bán rắn trở về, có mua cho dì cái vòng bạc. Hồi đó có cái vòng bạc cũng là xa xỉ nhứt xứ. Lúc ngồi lui cui tát nước xuồng, dì sợ hư, mới tháo ra bỏ trên mui sạp. Chừng lên bờ thì quên mất. Tới lúc dượng hỏi mới sực nhớ. Lúc dượng với dì cùng nhau ra tới nơi, chợt thấy trên xuồng có gia đình khỉ. Con khỉ mẹ cõng trên lưng đứa con, ngồi chéo ngoảy trên mui xuồng. Con khỉ cha cầm cái vòng bạc, đang loay hoay tìm cách đeo vô cổ tay con khỉ mẹ. Thấy vậy, dì tính la lên cho nó sợ. May mà dượng Bảy nhanh tay kịp bụm miệng dì lại. “Bà la to, lỡ nó giựt mình, làm rớt cái vòng xuống nước, biết có mò được không”. Nghe có lý, dì với dượng ngồi núp sau lùm bình bát. Meèng ơi! Hai vợ chồng khỉ cứ hết đeo vòng vô lại lột vòng ra, trửng giỡn với nhau thấy mà sốt ruột. Chừng ngồi nóng bàn giò mới thấy con khỉ mẹ đặt cái vòng xuống sạp ván. Lập tức dượng với dì đứng vọt dậy, cùng là “ùy”ụ một tiếng. Vợ chồng khỉ giật mình, nhảy phắt lên đánh đu trên cành cây. Trong lúc vội vàng, con khỉ mẹ làm rớt đứa con xuống nước. Bởi vậy mà dù sợ người, cả hai vợ chồng khỉ cũng không dám bỏ đi xa. Chúng cứ thoăn thoắt vừa chuyền cành, vừa la chí choé. Thương vợ chồng nó, dì kéo dượng Bảy chun vô núp trong đám ô rô. Biết sao không? Vừa thấy mất bóng người, cả hai vợ chồng khỉ đã nhảy ngay xuống mui xuồng. Rồi khỉ vợ nhào xuống nước lặn mò con. Nó lặn dài hơi như người. Mấy lần lặn, mấy lần ngoi lên tay không. Mỗi lần thấy khỉ vợ tay không trồi lên mặt nước, khỉ chồng lại cung tay cú lên đầu vợ nó. Cứ sau mỗi lần bị cú, khỉ vợ lại uồm xuống nước lặn mò con. Mình mẩy nó ướt rượt, xơ xướp cả lông lá; chỉ coi thôi mà muốn thắt ruột. Lúc day lại, dì thấy hai tròng mắt dượng Bảy đỏ hoe như hai cục than đước trong lò.
Lúc nghe dì kể tới đó, tôi ngây thơ hỏi: “Chớ cái vòng bạc giờ còn không?”. Dì cú lên đầu tôi, nói như thở hắt ra: “Bữa đó dượng Bảy bây liệng luôn cái vòng xuống nước. Dám chừng tới bây giờ cái vòng bạc vẫn còn ở dưới”.
Lúc tới bến nước vợ chồng khỉ mò con, nó đột nhiên nắm lấy tay tôi: “Cậu Ba à! Phải hồi đó mà cái vòng bằng vàng, chắc ba tui ổng cũng liệng. Má tui bả nói, ổng với tui tánh tình y hệt như nhau”.
Trời ạ! Thằng nhỏ từ hồi sanh ra tới giờ, nó có biết mặt ba nó đâu. Ba nó theo đàng mình đi miết theo tiếng súng. Tới tận giờ này cũng không biết ổng nằm xuống ở nơi nào. Chỉ nghe đồn mài mại: ổng nhào xuống sông cái, cứu một gia đình thuyền chài bị máy bay chuồng heo quần đảo, bắn òng ọc bằng súng máy . Cũng chỉ nghe mài mại vậy thôi. Quê tôi sông rạch chằng chịt, gặp mùa lũ chụp, nước trời liền nhau mênh mông như biển sở. Thuở ấy lại còn bom đạn, biết tía nó trôi dạt nơi nào… -/.