A
nh à, giữa những ngày hội của người làm phim cả nước tại thành phố biển Nha Trang, quặn lòng trước thảm cảnh của dân ta - nhất là người dân vùng núi Tây Bắc - Đông Bắc qua mấy đợt lũ lụt lên tiếp, em bỗng nhớ về anh… Những điều anh dự báo và khẩn thiết kêu gọi trong kịch bản phim truyện "Vùng rừng nóng bỏng" chưa kịp lên màn ảnh đã rơi ập vào chính số phận của anh: chiếc xe khách chở anh đã bị đổ tại đèo Chiềng Đông hiểm trở, do hậu quả của những cơn lũ rừng, sau nhiều năm tháng dài đốt phá rừng triền miên vô tội vạ! Cứ mỗi năm, những con suối Tây Bắc ngày một trở nên ngầu đục hung dữ hơn! Cả những cánh rừng hoa ban kỳ diệu mà chỉ riêng vùng rừng Tây Bắc mới có cũng đang bị chặt, bị đốt phá một cách không thương tiếc!
Sau gần một năm anh mất, em có đưa chú em kết nghĩa đang học quay phim lên Sơn La để làm bộ phim tốt nghiệp bằng một phim chân dung về anh. Tại thị xã Sơn La ngày đó, những dấu vết kinh hoàng của trận lũ tháng 7 năm trước vẫn đang còn in đậm trên làng bản, phố xá và trong tâm trí của mọi người. Đằng sau và bên cạnh ngôi mộ của anh - ngôi mộ đầu tiên trên ngọn đồi sau trở thành Nghĩa trang Nhân dân Thành phố - khi ấy đã xuất hiện thêm hàng chục ngôi mộ của nạn nhân cơn lũ quét đè bẹp thị xã Sơn La vào năm 91 ảm đạm đó! Vợ con anh đang chăm sóc phần mộ anh. Đôi mắt cháu nhỏ mất cha nhìn ngơ ngác... Giữa núi rừng lặng lẽ, bên hương khói mộ anh, em đã cầu mong anh thanh thản mà lại như nghe thấy anh đang khóc hô hô cho một vùng rừng đang bị phá hoại tàn khốc, cho môi trường sinh thái đang bị thiêu hủy từng giờ, cho cái thiên nhiên đang cất lên lời kêu cứu tuyệt vọng cuối cùng... Những đàn kiến rừng khổng lồ đang ùn ùn bỏ tổ ra đi mà em quay chộp được trên đường đi bộ từ Hua La về Mường Chanh phải chăng báo hiệu cho những cơn lũ rừng khủng khiếp sắp tới - những cơn lũ mang tên lũ ống, lũ tràn, lũ quét, lũ đầu mùa, lũ muộn...?
Mười năm sau đó, em có trở lại Hua La khi quay bộ phim truyện về số phận của một cô gái Thái xinh đẹp bị vu là "Ma cà rồng", và làm một phim tài liệu về những cánh rừng đầu nguồn. Vẫn là cảnh đốt nương mù mịt, núi đồi bị cạo trọc nhẵn thín, những bóng người và trâu bò xa tít trên các nương cằn cheo leo, dốc ngược; còn các luật tục khắt khe tự bao đời của người Thái đối với Rừng thiêng đã bị quy luật sinh tồn và kinh tế thị trường buông thả xâm phạm nặng nề...
Nói đến anh, mọi người thường lắc đầu thương hại. Lúc nào anh cũng là người túng thiếu nghèo khổ nhất trong giới nghệ sĩ điện ảnh... Anh đã buộc phải trở về quê hương thường xuyên hơn để tìm đường kiếm sống - làm phim truyền thống cho các xã các huyện, viết các vở kịch ngắn cho ngành truyền thông địa phương, lên núi phá hoang trồng ngô khoai sắn, nuôi gia cầm cùng vợ con ... Và dĩ nhiên, những ý đồ sáng tác vẫn cồn cào thường trực trong anh. Anh vẫn viết với một tình yêu theo cách đồng bào anh bộc lộ: "Yêu người nào thì muốn bồng, muốn cõng người ấy lên"- như câu tục ngữ Thái anh yêu thích... Song ngôi nhà tranh vách nát ở Thị xã đâu có che nổi cho những trang viết, những chồng bản thảo khỏi bị mưa dột? Tệ hơn, những kịch bản tâm huyết của anh dần trở nên lạc lõng thảm hại giữa "chợ trời" phim ảnh, chẳng một ông chủ hãng phim nào - kể cả ông giám đốc của xưởng phim truyện to nhất nước đang trả lương bèo bọt và thất thường cho anh, có thể mỉm cười chào đón anh nữa. Bởi lúc đó cả ngành Điện ảnh nước nhà trong tình trạng cấp cứu, lại đang bị ngập lụt trong thứ phim đã đi vào từ điển tiếng Việt hiện đại: "Phim mì ăn liền" - nghĩa là cái thứ phim câu khách bằng mọi giá, kể cả chà đạp lên sự liêm sỉ tối thiểu!
Nhưng chuyện cơm áo dày vò đâu có thể làm nguôi ngoai nổi những điều nung nấu tâm can người nghệ sĩ chót mang hồn vía của núi cao rừng thẳm và những bản tình ca dân gian say đắm như Tiễn dặn người yêu, Chàng Lù nàng Ủa, Nàng Tóc thơm...! Bữa no bữa đói, anh vẫn cắm cúi miệt mài viết, vẫn lắng nghe không bỏ sót một tiếng kêu cứu nào từ núi rừng quê hương! "Vùng rừng nóng bỏng" của anh dù phải vùi sâu trong chồng bản thảo hay phủ dày bụi trên bàn biên tập vẫn cựa quậy thôi thúc đòi được lên màn ảnh để đến với hàng chục triệu khán giả - bởi điều đó trước mắt có liên quan mật thiết đến sinh mệnh của các con anh, của những thế hệ em nhỏ Tây Bắc!...
Đằng sau vóc dáng đồ sộ nặng nề như gấu của anh là một tâm hồn nhạy cảm dễ ứa lệ và một khát vọng sáng tạo tựa ngọn lửa đêm lễ hội cao nguyên. Anh có lần bảo em: "Tớ phải viết, phải lao động nghệ thuật như một con trâu điên, cả cậu cũng vậy, đừng có dúm dó như thế, để mai sau mọi người sẽ hiểu: trong các đống bản thảo này là những trái tim khổng lồ rớm máu đã đập như thế nào".
Hai thập kỷ trước, em đã tới Mường Chanh - huyện Mai Sơn, quê hương của cây lúa nếp Tan và nghề gốm đất nung cổ truyền. Đó là một thung lũng tuyệt đẹp, có những mảnh ruộng xinh xắn, có dòng suối trong vắt mềm mại tựa dải lụa từng tắm mát tuổi thơ anh... Nhưng rời cái toàn cảnh rộng thi vị như tranh vẽ đó, em đã tới trước những lớp học tiêu điều, trống huếch, đầy phân súc vật dù đã sắp tới ngày khai giảng...Vốn xuất thân là một thầy giáo, chắc anh đã không ít lần xót xa trăn trở về giáo dục miền núi sau mỗi lần về quê hay đi tới các vùng cao vùng xa ở Tây Bắc để thu thập tư liệu cho sáng tác... Đến bao giờ thì Tây Bắc mới thực sự trở thành một "hòn ngọc của Tổ quốc"? Đến bao giờ tất cả các em nhỏ miền núi đều được đến trường - những ngôi trường ít ra cũng được khang trang gần bằng các trụ sở Công quyền?... Đến bao giờ những cọn nước quay chầm chậm chỉ còn là một biểu tượng đẹp và buồn của quá khứ trên sông suối Tây Bắc? Đến bao giờ lũ cuốn và sạt lở núi không làm tan hoang bao làng bản vốn đã nghèo khổ giờ lại càng thêm tiêu điều?... Phải chăng, đó cũng là những điều đã ngày đêm dằn vặt anh và tạo nên âm hưởng trầm buồn đến bi tráng trong các trang kịch bản của anh?... Dưới mái nhà sàn ám khói, người chị cả đáng kính của anh đã hát cho em nghe. Và em hiểu, nỗi buồn đó của anh còn bắt nguồn từ giọng hát lê thê buồn bã bên bếp lửa sàn đêm đêm của người chị nghèo thay mẹ nuôi em...
Bố mẹ chúng ta khuất núi từ lâu rồi
mấy chị em đùm bọc rau cháo chăm nhau
không ngờ em lại ra đi trước chị
trên cõi Trời em hãy bình tâm,
bởi điều đau đớn ấy chị để trôi trên dòng nước,
chị treo nó lên ngọn cây
cho gió bay xa,
tỏa khắp rừng sâu,
lan mọi phương trời
để con cháu biết rõ về em, noi gương em, tiếp tục công việc của em...
(Dịch nghĩa từ tiếng Thái)
Trong những lời "khắp" Thái buồn như tiếng khóc - lúc thầm thì kể lể nức nở, lúc dâng cao nhưng nhức xoáy tâm can, tiếng hát quấn quýt ngọn lửa sàn bập bùng, em lại hình dung ra những con nộc-phay, tức chim lửa mà anh từng kể cho em nghe sự tích về chúng - loài chim tượng trưng cho linh hồn những người chết vì đói ngày giáp hạt hay bị lũ cuốn thường quay trở về nương rẫy làng bản thành chảo lửa trên nền trời xám đục bởi tro than, chúng hót lời não nuột nhắc đừng bao giờ quên những thời đói khổ...
Em đã nhiều lần "Lên ngọn suối" - tên một trường đoạn của kịch bản phim "Vùng rừng nóng bỏng" chưa kịp thực hiện của anh, để tìm lại ngọn nguồn của một nỗi đau, một ước vọng trong "trái tim khổng lồ rớm máu" luôn hướng về quê hương Tây Bắc... Giai đoạn viết kịch bản này, cứ được trường đoạn nào anh lại gọi em tới bắt nghe và góp ý, bên chén rượu trắng và đĩa lạc luộc... "Vùng rừng nóng bỏng" đề cập tới sự cần thiết phải giao đất giao rừng cho dân với một chính sách để dân có thể sống được mà không phải phá rừng đốt nương, về chuyện phá rừng đầu nguồn ngày một trắng trợn… cho đến hôm nay càng nóng bỏng hơn lúc nào hết trước những vấn đề thời sự nhức nhối cấp bách về thiên nhiên & môi trường sinh thái - đặc biệt là rừng đầu nguồn cần được bảo vệ, về phương thức làm ăn để thoát nghèo đói, về môi trường văn hóa mang đậm bản sắc của các dân tộc Tây Bắc đã, hay đang có nguy cơ bị dìm vĩnh viễn trong nước lạnh hoặc bị xúc gọn vào bảo tàng... Nhưng cái tập kịch bản vang vọng tiếng kêu thống thiết của loài chim lửa kia cùng nhiều tập kịch bản ngồn ngộn sự sống khác chứa đựng huyết lệ của anh chắc cũng sẽ rơi tõm vào khoảng không đáng sợ... Biết làm sao được, khi còn tồn tại những người có trách nhiệm thiếu lương thiện hay thiển cận khiến cả ngành Văn hóa lẫn Điện ảnh lao đao tựa bị lũ quét, khi mà những ông chủ sản xuất phim hiện tại (cả Tư nhân lẫn Nhà nước) đang cay cú đến mờ mắt với những canh bạc phim ảnh hốt ra vàng nhờ khoe chân dài, váy ngắn, ngực phơi lưng hở của những "siêu mẫu siêu sao" và trưng bày cuộc sống vương giả hoặc nhầy nhụa tình dục mà nếu có đem phim lên chiếu không phục vụ đồng bào miền núi thì cũng chỉ là một điều oái oăm đến xót xa, hơn thế, một sự điếm nhục!
Nhưng anh à, điện ảnh Việt mấy năm nay đã bắt đầu khởi sắc lại rồi! Người làm phim đã bớt đi nhiều “bảo bối” ăn khách đáng xấu hổ là lột trần diễn viễn ra khoe hình thể và các cung cách làm tình, rồi khoe cuộc sống vương giả hơn cả quý tộc thời xưa… Nhiều phim đã lặn vào đời sống đậm mồ hôi và máu của dân để tạo ra những cảnh phim chân thật làm rung động số đông khán giả, và đã đoạt giải thưởng xứng đáng của Giải Cánh Diều do hội nghề nghiệp chúng ta tổ chức hàng năm. Tình yêu điện ảnh của người dân Nha Trang giữa những ngày bão lũ vừa qua cũng là lời kêu gọi các thế hệ điện ảnh sau anh cần phải có những tác phẩm xứng đáng hơn với lòng mong đợi chính đáng của khán giả cả nước... Còn riêng em, sẽ trở lại ý tưởng phim về thảm họa lũ ống-lũ cuốn-lũ muộn trên Tây Bắc do tàn phá rừng đầu nguồn mà em ấp ủ từ lâu, thay anh trả nợ lòng cho đồng bào Tây Bắc… Thưa nhà điện ảnh xứ hoa đào, Anh hãy yên lòng nơi Mây trắng Vĩnh hằng!
Em của anh, người cùng Hãng phim đã hoang tàn.
Cầm Kỷ là nhà biên kịch điện ảnh, tác giả nhiều kịch bản đã dựng thành phim: "Hai người mẹ", "Chom và Sa", "Lưu lạc", "Trở về Sam Sao"... Phim “Chom và Sa” đoạt giải Silver Elephent tại LHP Quốc tế thiếu nhi năm 1979. Phim dựa theo câu chuyện có thật kể về hai em bé người Thái đen ở Mường La (Sơn La) không còn cha mẹ, chạy trốn khu tập trung của giặc Pháp, sống lẩn khuất trong rừng, cho đến khi bộ đội Việt Minh vào giải phóng Tây Bắc đã cứu sống các em và nuôi cho ăn học...
(Ảnh: Chân dung nhà biên kịch Cầm Kỷ, do gia đình cung cấp)
VVM.20.9.2024.
mấy chị em đùm bọc rau cháo chăm nhau
không ngờ em lại ra đi trước chị
trên cõi Trời em hãy bình tâm,
bởi điều đau đớn ấy chị để trôi trên dòng nước,
chị treo nó lên ngọn cây
cho gió bay xa,
tỏa khắp rừng sâu,
lan mọi phương trời
để con cháu biết rõ về em, noi gương em, tiếp tục công việc của em...
(Dịch nghĩa từ tiếng Thái)
Cầm Kỷ là nhà biên kịch điện ảnh, tác giả nhiều kịch bản đã dựng thành phim: "Hai người mẹ", "Chom và Sa", "Lưu lạc", "Trở về Sam Sao"... Phim “Chom và Sa” đoạt giải Silver Elephent tại LHP Quốc tế thiếu nhi năm 1979. Phim dựa theo câu chuyện có thật kể về hai em bé người Thái đen ở Mường La (Sơn La) không còn cha mẹ, chạy trốn khu tập trung của giặc Pháp, sống lẩn khuất trong rừng, cho đến khi bộ đội Việt Minh vào giải phóng Tây Bắc đã cứu sống các em và nuôi cho ăn học... (Ảnh: Chân dung nhà biên kịch Cầm Kỷ, do gia đình cung cấp)