V
ừa
đi theo băng-ca đưa ông Tiến Lâm lên xe cứu thương để
về trường đại học Y Dược, cô Bình Phương trở về
căn hộ trước đã trống vắng nay thêm vẻ đìu hiu vì
ông Tiến Lâm đã đi về cõi vĩnh hằng. Cô Bình Phương
cảm thấy cô độc hơn bao giờ hết. Từ nay cho đến
ngày đến lượt cô về với ông anh ruột thịt ở bên
kia thế giới, cô sẽ phải sống một thân một mình
không ai chăm sóc trong khi tuổi cô đang tiến dần đến
hàng bẩy rồi. Dù rằng ông Tiến Lâm đã ra đi đột
ngột, nhưng cô cũng thấy được đã đến thời điểm
ông phải lên đường, và việc lên đường của ông vô
cùng thoải mái. Giống như ông đã biết trước nên ông
thảo di nguyện cho cô chi tiết tất cả những công việc
cô phải làm. Cô thấy ông anh của cô rất chu đáo, trù
liệu mọi công việc như một nhà kinh tế kế hoạch vĩ
mô. So sánh như vậy nhưng thực ra cô cũng không rành cái
kinh tế vĩ mô là gì nhưng cô thấy di nguyện anh cô viết
rất rõ ràng, đanh thép bắt buộc cô phải làm đúng theo
lời ông căn dặn. Ông muốn hiến xác không chỉ hy vọng
được cống hiến tấm thân 55 kí lô của mình cho khoa
học, cho việc nghiên cứu tìm ra cách chữa bệnh cho mọi
người, mà là ông còn muốn, ông nói như thật, kéo dài
thêm khoảng thời gian ở lại trên trần thế này dù ông
đang là một xác chết, vô tri vô giác, bất động thay vì
phải biến thành tro bụi sau khi ông qua đời vài hôm.
Lúc
sinh thời ông rất ghét cái việc tổ chức ma chay ở
những nhà có người chết. Ông hay nói người chết sao
lại tiếp tục làm phiền người sống khi ông thấy đám
tang ở gần nhà ông. Con đường chật hẹp ngày xưa là
con đường xe lửa, nay sửa sang lại, tráng nhựa làm
thành con đường phẳng phiu cho xe cộ lưu thông, nhưng vì
mặt đường được mở hết đến cửa nhà người dân
nên không có lề đường và có nhiều nhà người dân có
chiều sâu khoảng một mét tới hai mét và bề rộng cũng
chừng hai mét. Sau này một số người dân làm ăn khấm
khá, bỏ tiền xây dựng lại nhưng vẫn giữ chừng đó
mặt bằng. Căn nhà được xây lên hai tấm có sân thượng
đàng hoàng. Sách kỷ lục Guiness có lẽ phải đưa những
căn nhà này vô hàng “siêu dẹp” trên thế giới. Trong
thời gian làm ma chay cho người chết, người ta che rạp
ra tận giữa đường, vì chỉ cái hòm thôi cũng đã chiếm
hết chiều sâu căn nhà rồi. “Nghĩa tử nghĩa tận”,
bà con hàng xóm không ai phiền hà gì vì đời người ai
cũng chỉ có một lần, lúc chết rồi gây phiền hà chút
đỉnh có sao đâu. Thậm chí suốt ngày suốt đêm giàn
nhạc cổ, karaoke đua nhau khoe âm thanh nhức óc. Bây giờ
tiếng tụng kinh của mấy ông sư cũng được đưa qua
micro để phát ra âm thanh chát chúa vang vọng tới thiên
đình. Vào giờ cao điểm, xe kẹt nối đuôi vì cái rạp
đám ma này đã cản trở lưu thông, xe hơi xe máy bóp còi
inh ỏi, mấy ông dân phòng ra điều khiển cho qua chốt
chặn này đến toát mồ hôi trong khi mấy người trong nhà
mặc đồ tang cười cười nói nói. Ước gì người chết
linh thiêng hóa ra trận cuồng phong thổi bay cái rạp để
xe cộ lưu thông thoải mái. Nhưng rồi mấy ông dân phòng
cũng điều khiển được xe cộ qua lại thông thoáng. Đến
ngày cuối cùng, nếu cảm nhận được chắc là người
chết cũng cảm thấy mệt mỏi sau ba ngày trời làm khổ
bà con lối xóm.
Nhưng
trên đường đi lên nghĩa trang hay tới lò thiêu cũng còn
có chuyện khó coi hoặc làm phiền người ta không ít. Đầu
tiên là việc khiêng cái hòm ra khỏi nhà. Những đòn
ngang đỡ cái hòm bên trên vừa kê lên vai mấy ông đạo
tỳ tự nhiên có một âm thanh chói tai như có cái gì đổ
vỡ xuống đất. Sau này hỏi ra mới biết là người ta
đập một cái siêu bằng đất, thứ dùng để nấu thuốc
bắc, gọi là để tiễn người chết lên đường và cũng
để hù dọa ma quỷ không được bu theo quậy phá người
chết. Rồi cái hòm vừa ra khỏi cửa, các đạo tỳ quay
đầu hòm hướng vào nhà hạ đầu hòm xuống ba lần gọi
là “bái bai” cái tổ ấm của người chết. Cái thủ
tục này của dân nhà đòn sáng chế từ lâu để câu
khách. Lúc này thì cái rạp che lấn ra tới giữa đường
vừa dẹp xong. Xe cộ qua lại cũng biết cất tiếng thở
phào nhẹ nhõm.
Rồi
cái hòm cũng được đặt lên xe rồng. Đây là loại xe
đặc chế chỉ dùng riêng cho tang sự. Nói là đặc chế
nhưng không phải toàn bộ được “ma-ze in Việt Nam” mà
người ta lấy cái đầu, “sác-xi” gồm cả giàn bánh
của một xe tải cỡ trung bình, rồi đóng lên một cái
chuồng sơn son thếp vàng, hai bên gắn hai con rồng bằng
gỗ cũng sơn lên màu vàng rực dài ngoằng kéo từ mũi xe
tải đến tận sau đít cái chuồng. Không hiểu ngành giao
thông vận tải nghĩ sao về loại xe làm công việc vận
chuyển theo kiểu này. Một phương tiện vận chuyển hoàn
toàn được sáng chế tự do làm mất hẳn hình dáng một
chiếc xe tải không còn bảo đảm được an toàn giao
thông. Hình như trong luật giao thông vận tải có quy định
những phương tiện vận tải bị chế biến thành dị
dạng không bảo đảm an toàn giao thông sẽ không được
lưu hành như các loại xe công nông chế biến từ máy
cày, máy xới…
Những
nhà giàu có thường thuê thêm một chiếc xe tải loại
“pick-up”(1) chỉ để chở một cái bàn
để di ảnh và cái giá triệu, làm mất đi cái hình ảnh
câu ca dao đã phân công phân nhiệm cho con cái khi cha mẹ
qua đời được kể trong cuốn “Hương rừng Cà mau”
của tác giả Sơn Nam xuất bản trong thế kỷ trước:
Sau
khi cái hòm được đặt lên trên xe rồng người ta lục
tục đi bộ theo chiếc xe rồng vài trăm thước rồi tất
cả mọi người kéo lên chiếc xe buýt rồi cùng với xe
rồng tăng tốc nhắm hướng lò thiêu hay nghĩa trang trực
chỉ. Trên đường đi xe buýt và xe rồng đua nhau về đích
cho kịp giờ hoàng đạo, người ta không quên tung xuống
mặt đường vô số các loại giấy tiền vàng bạc bay
phất phơ trong gió gây mất vệ sinh công cộng…
Cô
Bình Phương thấy việc thực hiện di nguyện của ông anh
vô cùng đơn giản. Công việc kế tiếp của cô là quét
dọn cái tủ “côm-mốt”, trải lên một tấm vải hoa
màu xanh nhạt rồi đặt di ảnh của ông Tiến Lâm cô đã
cho tiệm hình làm từ trước, sau đó cô để bát hương
trước tấm ảnh, nơi đây hằng ngày cô cắm lên một
nén hương cho ấm lại gian phòng. Một công việc nữa mà
cô không thể nào dám quên đó là cái hộp nhạc nho nhỏ
hình tròn đã cắm sẵn cái USB, trong đó ông Tiến Lâm đã
thu âm tất cả các bài nói chuyện của ông tại diễn
đàn văn nghệ ông thường đến sinh hoạt. Nội dung các
bài nói chuyện của ông thường xoay quanh các vấn đề
về tâm lý xã hội. Ông dặn dò cô chỉ phát ra khi nào
có khách hay bà con thân thuộc đến thăm. Sau này khi có
khách đến thăm cô mở hộp nhạc cho nghe các bài nói
chuyện của ông, khách đâm ra sợ sệt:
- Sao
mà giống như ông ấy đang ngồi bên cạnh trò chuyện!
- Em
cũng nhát lắm. Ở nhà một mình em không bao giờ dám mở
máy ra nghe anh ấy nói chuyện.
- Hay
là thu mấy bộ kinh Phật về mở cho ông ấy nghe.
- Ô,
không được anh ạ. Anh ấy dặn đừng cho anh ấy nghe
kinh hay nghe nhạc. Đến ngày giỗ mở cho anh ấy nghe mấy
bản nhạc tiền chiến của thời xa xưa. Anh nói nghe nhạc
bây giờ anh bị lên tăng-xông.
- Chết
rồi còn gì nữa mà lên với xuống tăng-xông?
- Anh
nói nếu còn nằm ở trường đại học Y Dược anh ấy
sẽ biết.
- Trời!
Anh ấy là chúa tưởng tượng. Thế cô tin à?
- Dạ,
em biết anh ấy nói đùa.
Khách
vừa đứng lên định ra về cô Bình Phương vội với tay
tắt ngay hộp nhạc. Khách về rồi cô thả lưng xuống
ghế xa-lông nghĩ vơ nghĩ vẩn. Hết nghĩ đến ông anh
cuối đời sống cô đơn quạnh quẽ rồi nghĩ đến cô
với nỗi niềm đìu hiu, đơn chiếc. Cô nghĩ ông Trời
bất công quá, sao lại vận cho cả hai anh em cô cái nỗi
buồn da diết cuối đời. Đáng lý ra ông Trời cũng nên
dành cho một người có được cuộc sống gia đình đầm
ấm đến ngày con cái thành đạt để rồi tạo ra những
thế hệ tiếp theo, người ta gọi là nối dòng, nối
giống. Với ông anh cô còn có được một thằng con trai
nhưng nó lại theo mẹ nó về bên kia trời tây. Giờ này
nó đã lớn khôn chắc không còn biết gì đến đất
nước, cũng như ông bố già nua lụm khụm này nữa rồi.
Như vậy cuối cùng thì giòng dõi nhà cô và ông anh Tiến
Lâm coi như tắc tị. Nghĩ đến đây thì cô Bình Phương
tặc lưỡi:
- Ừ thì có kéo dài thêm nữa cũng chẳng được gì!
Thực
ra, hồi còn trẻ, cô Bình Phương không phải là một
thiếu nữ không có nhan sắc, cô cũng có dáng vẻ ưa
nhìn, nét mặt cân đối, điềm đạm, nghiêm trang. Nhìn
phía sau cô cũng có dáng vẻ của người con gái “em tan
trường về” lắm nhưng lại không được một anh chàng
tưng tửng nào theo sau.
Rồi
đến khi cô tốt nghiệp ra trường đi dạy học. Suốt
cuộc đời cầm phấn, đi lòng vòng nhiều trường trung
học trong thành phố, đâu đâu cô cũng thấy có nhiều cô
giáo còn phòng không chiếc bóng. Không lẽ ông Trời “kỵ
tuổi” những bông hoa của ngành nghề cao quý này, mà
sao số lượng những cô chậm có đức lang quân hơi bị
nhiều.
Cơ
hội cũng có lần đến với cô Bình Phương, đó là lần
một bà cô họ, tại một tiệc sinh nhật đã giới thiệu
cho cô một ông Việt kiều Pháp. Bà cô cho biết ông này
là một kỹ sư cơ khí làm việc tại một hãng tàu gì đó
ở Mạc-Xây, U60, gốc gác từ thuở “di cư” độc thân
chăm phần chăm, đang muốn tìm vợ ở Việt Nam đặc biệt
thuộc hàng ngũ giáo chức. Trong suốt bữa tiệc, có lẽ
đã có sự sắp xếp trước của bà cô nên hai người
được ngồi cạnh nhau trò chuyện thoải mái. Trong suốt
buổi nói chuyện, cô Bình Phương thấy anh chàng này kiến
thức tổng quát rất rộng. Mọi vấn đề liên quan đến
kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội anh ta có vẻ khá
thông thạo. Với cung cách nói chuyện, điềm đạm và lưu
loát anh ta có phần gây được cảm tình của cô Bình
Phương, trong khi phía đối diện có một anh chàng khác
cũng xàng xàng tuổi tác và cùng gốc gác với anh chàng
Mít-Mạc-Xây này. Hai ông này có vẻ đã quen biết nhau
nên ông kia nói chuyện như bắp rang và “nổ” chát
chúa. Khi ông này nói chuyện về văn chương thì ông kia
“nổ” liền một phát là ông ta có tài làm thơ không
cần suy nghĩ. Thấy cảnh nào đẹp ông ta ứng khẩu làm
thơ liền, về nhà nhớ lại ghi vào vở.
Về
phần ông Mít-Mạc-Xây, cô Bình Phương thấy đây là một
người đàn ông tốt và là một người chồng tốt mà cô
có thể trao thân gửi phận. Tuy nhiên cô đã nhờ bà cô
từ chối bữa hẹn đi ăn đồ hải sản với anh ấy tại
nhà hàng “Marino”. Cô thấy phải dứt khoát thôi. Ngoài
cái con người trí thức khi nói chuyện làm cho cô ngưỡng
mộ đôi chút, còn lại thì rất yếu. Anh ta gầy giơ
xương dù rằng anh có dáng dẻo dai cho nên mới còn có
thể làm việc ở bên đó. Thứ hai, anh ta hút thuốc như
ống khói tàu Titanic, phun khói mù mịt đến nỗi bà cô
phải để cây quạt ngay bên cạnh anh để thổi bay làn
khói thuốc mỗi khi anh nhả ra. Việc ăn mặc anh ấy không
được tươm tất, giống như một nghệ sĩ đường phố.
Vấn đề vệ sinh cá nhân của anh chắc không được chú
ý nhiều. Cô Bình Phương nghĩ, lấy nhau về chính cô lại
là người phải chăm sóc cho anh ấy và nếu như anh ấy
đột nhiên ngã bệnh cô sẽ rối lên như cái bòng bong.
Có thể lắm chứ. Với một mớ kiến thức có sẵn cô
thấy một con người gầy nhom như vậy lại hút thuốc
hết điếu này đến điếu khác có ngày dính phải bệnh
lao phổi. Quả đúng như vậy vài năm sau đó bà cô cho
biết anh ta qua đời vì chứng bệnh ung thư phổi, hũ tro
cốt để vào một cái chùa nào đó ở bên Pháp.
Rồi
duyên phận lại đến với cô Bình Phương. Một người
bạn nào đó giới thiệu cho cô một ông thầy giáo ở
một trường đại học. Thực tình mà nói, cô chưa thấy
một người đàn ông nào hiền lành như ông này. Cô tự
an ủi, đến tuổi này cô có được một người chồng
tốt như vậy cũng là hạnh phúc không phải ai cũng có
thể có dễ dàng. Một đám cưới đơn sơ đã diễn ra
nhanh chóng. Cuộc sống êm đềm đã đến với hai vợ
chồng ở vào tuổi trên dưới năm mươi. Buổi sáng chồng
chở vợ đến trường xong ông chạy thẳng lên trường
đại học để làm nhiệm vụ của mình.
Sau
khi về sống chung cô Bình Phương mới tìm ra được cái
“bí ẩn” vì sao ông chồng cô sống độc thân từ thời
trai trẻ cho đến bây giờ. Theo ông kể, đến nay bạn bè
hàng xóm, bà con hối thúc quá nên ông cắn răng thuê một
chiếc xe hoa để ngồi chung với cô đến cuối cuộc đời.
Thêm vào cái tính hiền lành lại có phần nhút nhát, ông
lại còn thiếu cả cái sự “dạn dĩ” trong những giờ
phút riêng tư của hai vợ chồng. Cô không hình dung được
niềm hạnh phúc của một người phụ nữ ở mức độ
nào khi người chồng làm nhiệm vụ của một người đàn
ông. Cô cũng không ước lượng được “trách nhiệm”
của người đàn ông phải được thực hiện ở một
chừng mực nào để đạt tới giới hạn nhứt định.
Tuy
nhiên cô Bình Phương cũng phải công nhận việc ông muốn
đi với cô đến cuối cuộc đời là chính xác, cho nên
cảm tình của cô đối với ông cũng tăng dần theo thời
gian, và cô cố gắng vun đắp niềm hạnh phúc chung của
hai người. Nhưng một bất hạnh lại đến với cô Bình
Phương, cuộc đời của ông chồng cô kết thúc sớm sau
một cơn tai biến mạch máu não nhanh chóng đưa ông đi
trước cô lên thiên đường… -./.
1. Một loại xe tải cỡ trung bình không có mui phía sau.
2. Người viết đã có hỏi tác giả nhà văn Sơn Nam và chính tác giả trả lời “cũng không rõ luôn”.
Người viết đoán “kinh” là cái bàn để di ảnh thường được hai người khiêng đi sau tấm giá triệu (Rất mong chư vị cao nhân chỉ giáo thêm).