N gày sắp tàn, chợ đã thưa người. Những chị hàng xén hối hả gánh nốt đồ đạc về nhà, mấy đống thúng sắt bị xách ngược va chạm nhau nghe rổn rảng.
Tôi khó nhọc lê từng bước lên thềm chợ, cái lưng còng cơ hồ càng còng thêm, mỏi từng đốt xương sống vì trọn ngày phải ngồi ròng rã.
Để cái bị gạo xuống vách tường hàng thịt, tôi thu dọn chỗ ngủ. Chợ to nhưng chỉ có mái và nền, không có tường bao bọc như nhà. Hàng thịt là một cái phòng hẹp, dài hút. Nó chiếm cả góc trên chợ. Vào trong, nhìn lên trông nó giống như một cái thùng sữa, cả dài nhưng hẹp ngang, nền chợ là đáy dưới, đáy trên chênh vênh, trống rỗng, xa lơ, phải có người mắt tốt hơn tôi mới thấy được: thấy một khoảng mái tôn chợ với ngang dọc những cây sắt to đen đúa. Ban ngày, người qua lại tấp nập ở bên ngoài. Bên trong, qua những ô cửa tò vò, mấy chị bán thịt ra sức cắt xẻo mấy mình heo to đến ngán. Những ngày trời động, hàng thịt đông khách, mấy chị bán hàng bận rộn luôn tay. Nếu một mảnh giấy được đưa ra cho người mua, thay vì xâu thịt, người ta có thể tưởng nhầm đó là một phòng vé trên ga xe lửa, với đám hành khách đang tranh nhau dành vé trước. Nhưng những hôm nhiều cá, hàng thịt vắng, ba bốn chị bán hàng xích ghế lại gần nhau tán chuyện gẫu. Các chị ngồi buồn, thỉnh thoảng quơ tay xẻo mạnh một miếng thịt nhỏ, bỏ lên lòng bàn tay cân nhắc lại một chút rồi quăng đánh phạch xuống đống thịt vụn. Vào những lúc ấy thằng Láng thường chơi ngổ: nó móc túi lấy một tờ hai chục thật mới. Tới một cửa tò vò có chị bán thịt gần ngủ gục, nó giơ tờ giấy bạc ra:
- Bán cho tôi. . .
Chị bán hàng ngồi thẳng người lên, vuốt phắt mấy sợi tóc xõa dài trên má, tươi tỉnh:
- Bao nhiêu em?
- Chắc bốn chục. Vé đi Nha-trang, khứ hồi. Chị bán thịt đứng bật dậy như chiếc lò xo:
- Tổ mẹ mày!
Thằng Láng phá ra cười. Nấp sau cái cột gần đấy, thẳng Rớt cũng cười dòn, thích chí. Chị bán thịt tức giận chửi theo:
- Đồ xạo! …
Hàng thịt chính là nơi chúng tôi nhờ cậy nhiều. Ngày tản mác nọi nơi, chiều về chúng tôi dựa lưng vào bức tường nghỉ mệt, đợi tối. Trên đầu chúng tôi một chút là những ô cửa còn thơm mùi mỡ heo béo bở. Đêm đến, chúng tôi mỗi người chiếm một khoảng, nhắc những chõng hàng án ngữ mặt ngoài. Nằm lọt ở trong, dựa vào chân tường, chúng tôi yên chí tìm hơi ấm đánh một giấc đến sáng. Mưa gió không tạt qua được hai bức tường hàng thịt, và bên ngoài căn nhà hun hút ấy, những manh chiếu rách không bao giờ bị ướt.
Tôi mân mê túi tiền, hôm nay mùng một, dễ chừng cũng được vài chục đồng. Trước kia, những ngày rằm, đầu tháng, mỗi đứa chúng tôi được ít ra cũng bốn năm chục, bây giờ thì khác. Những đồng bạc cắc nhỏ nhắn đáng yêu nằm gọn dưới đáy túi. Tôi nhớ lại những khuôn mặt có nọng của mấy bà nhà giàu, khổ nhọc bước từng bực cấp lên chùa, có mấy đứa con đi kèm đỡ cánh tay. Tôi đưa mũ ra: “Lạy bà, lạy cô…” Bà nhà giàu đứng lại, một đứa con gái bước tới bỏ vào nón tôi một đồng bạc cắc tròn trịa. Tôi xá xá mấy cái đền ơn. Bà nhà giàu lên không được mấy cấp nữa đã gặp phải vợ chồng thằng Mau, bà ta lại đứng, người con gái lại đi tới bỏ vào cái lon kẽm hai đồng bạc cắc. Tôi nhướng mắt trông lên thấy thằng Mau xá xá. Tay cô con gái bà nhà giàu vẫn còn những cắc bạc đáng yêu, và từ chỗ thằng Mau lên đến sân chùa trên cao, còn ít lắm cũng đến chín mười cái nón rách chìa ra hứng tiền kẽm, để rồi những chủ nhân của nó ngồi cạnh lại xá lia lịa khi một cắc bạc lăn tòm vào nón!
Những đồng tiền lẻ đã nuôi sống chúng tôi bao nhiêu năm tháng. Tôi có một cái chân ốm tong, cong lại, tôi nghe hình như nó là kết quả của những ngọn ác phong tôi mắc phải hồi nhỏ. Bây giờ tôi phải đi xà lỉa, chân nọ muốn đá chân kia, thằng Láng bảo rằng chân mặt muốn mắng mẹ chân trái. Thêm vào, tôi có một con mắt bị tước quyền nhìn thấy vĩnh viễn, chỉ còn là hai mảnh thịt giao lại, như một cái ao bị lấp đất chưa đầy hẳn. Con mắt kia thì cũng lờ mờ, chỉ đủ để thấy các bà nhà giầu và mấy đứa con gái dễ thương như những đồng bạc cắc.
Sau một ngày đi xin về, ngồi dựa vào tường, chúng tôi bày tiền ra đếm. Hôm nào tôi cũng được nhiều hơn hết.
Vợ chồng thằng Mau trông tội nghiệp lắm. Thằng chồng trông thấy nhưng không đi được, con vợ đi được lại mù tịt cả hai mắt. Nên, khi ăn xin, thằng chồng lết trước, con vợ lần mò theo sau. Một sợi nhợ cột ngang hông thằng chồng nối liền với cánh tay con vợ đằng sau, là sợi tơ hồng gắn bó cuộc đời hai vợ chồng thằng ăn xin. Giữa những buổi chợ đông, vợ chồng nó len lỏi từ hàng cá đến hàng rau, xin từng cọng cải héo đến con cá vụn. Thằng Mau lết, một tay chống đất lấy đà, tay kia ngửa chiếc mũ rách. vợ nó theo sau, tay quờ quạng cầm sợi chỉ, mồm hát nghêu ngao những thơ tuồng bình dân: Thoại-Khanh Châu-Tuấn, Lâm-Sanh Xuân- Nương. Giọng thảm não của nó bị cái khối người chen lấn ồn ào át hẳn.
Giữa chỗ tôi nằm và chỗ vợ chồng thằng Mau, ở tường hàng thịt, là nơi ăn ngủ của Nhoi. Nó còn trẻ lắm, chưa đến ba chục tuổi. Nó què, đi không được. Tay nó lại ốm tí teo và cong vòng, nên nó lết rất khổ sở. Mặt mày nó mốc khính, đầu tóc lồng bồng, rối bời, che kín ót và lấp cả hai bên má. Muốn xem mặt nó tỏ tường phải rẽ tóc ra. Nó không biết ca biết hát câu nào, nó cũng chỉ lết và: “Lạy ông, lạy bà” như tôi.
Thân hình bọn chúng khổ não, tiều tụy như thế, nhưng chẳng biết căn cứ trên những tiêu chuẩn nào mà các vị hảo tâm thường cho tôi nhiều hơn tụi nó, nên tôi luôn là người giàu nhất trong bọn. Không phải người nào cũng cho tất cả chúng tôi như các bà nhà giàu. Có ông cầm một tờ mười đồng, nhìn qua cả bọn một lượt, ông ta đi tới thả vào nón tôi tờ bạc bố thí độc nhất ấy, và bỏ đi thẳng. Cả bọn ngơ ngác nhìn theo. Tôi sung sướng nhét số tiền to lớn ấy vào tận đáy túi. Những hôm như vậy, tối về thế nào vợ chồng thằng Mau cũng bàn tán với Nhoi, và lần nào chúng nó cũng đi đến kết luận: tôi được tiền vì tôi già, trông đáng thương hơn chúng. Tôi ngồi nghe rung đùi cười không nói.
Nhích người lên, tôi kéo đầu chiếu thẳng ra. Đặt cái bị gạo làm gối tôi nằm xuống.
Hôm nay bọn chúng về trễ, thường ngày vừa chiều là đã có đủ mặt. Tôi hay về trước, lát sau đến thằng Nhoi, vợ chồng thằng Mau, rồi thằng Rớt dắt cha nó. Ngoài đường đi im lặng, nhưng vừa đến nơi chúng đã nói cười om sòm. Chiều bữa đó thằng Nhoi thấy chỗ nó nằm bỗng dưng hôm nay có một vũng nước tràn lan. Nó bực mình chửi đổng:
- Tổ cha con mẹ nào khéo đổ nước!
Nó mượn thằng Rớt đi kiếm chổi, quét xong nó tần mẩn tìm vài rách lau cho chóng khô. Thằng Rớt tò mò:
- Nước gì hổng biết. Nếu phải nước mắm thì khổ đa. Hôi dữ lắm. Nó cúi xuống lấy tay quệt một chút đưa lên mũi ngửi. Nó nhăn mặt, nhảy cỡn lên, la lớn:
- Nước đái! Con mẹ nào đau quá đái ẩu. Khai xé mây!
Thằng Nhoi vứt nhanh gói giẻ lau, chà mạnh hai tay xuống nền. Nó ngồi bệt ra mà cười. Vợ chồng con Mau thấy cũng cười theo.
Thế là từ ngày đó, những vũng nước xuất hiện thường trên nền chợ đều được thằng Rớt đặc biệt lưu ý. Lâu lâu thấy một vũng, nó quyết đoán:
- Vũng này của con Cheo sản xuất chớ không ai vào. Ngồi ở chõng đây, đau quá, bỏ đi xa thì lâu. Nó lẻn vào chỗ này nghếch lên xả lù, cũng tránh được một số cặp mắt soi mói. Nó cười, tiếp:
- Chỉ khổ cho anh Nhoi. Bị có cái cột chắn bên ngoài, chỗ nằm của anh thành ra kín đáo. Nếu mấy con mẹ ấy cứ đau bất thường hoài thì chỗ đó biến thành cầu tiêu mất. Hạng con Cheo phốp pháp như vậy hèn chi đái nhiều. Nó lúc lắc đầu, ngẫm nghĩ, buông một câu triết thòng, lẩm cẩm:
- Con người nhà giàu ăn uống sang trọng, cá mắm dồi dào, ỉa thúi hạng nhứt, đái cũng thiệt là khai.
Sau đó thằng Láng ra chơi, Rớt thuật lại chuyện mấy vũng nước. Nghe xong, thằng Láng vội đi tìm một viên phấn, nó viết khắp mấy cột trong chợ và ở bức tường hàng thịt: “Con Cheo đái ẩu nhứt chợ này.”
Chắc là nhờ vậy, nên lâu nay không thấy những vũng nước đáng để ý ấy xuất hiện nữa. Nhoi biết ơn thằng Láng, trầm trồ khen và thường nhắc lại chuyện đó.
Láng sung sướng tiếp nhận lời khen tặng và đáp lại một cách rất ư lịch sự. Những lúc như thế, thấy nó đáng yêu hơn là đáng ghét, vẻ nghịch ngợm hơi quá lố và gần như lỗ mãng đã biến mất khỏi người nó, trong tiếng nói, cái cười. Nó vốn tinh nghịch nhưng gương mặt nó nhiều lúc lại buồn và khó đăm đăm. Cha nó chết, mới đây. Mẹ nó đem về một ông chồng khác. Nó ghét ông này, ghét mẹ nó, ghét cái nhà, thương cái bàn thờ, chỉ trong mấy tháng nữa, chờ ngày dẹp đi, đã phải chứng kiến cảnh người đàn bà thân yêu âu yếm với kẻ khác hàng ngày, cạnh đó.
Bữa kia, đi chơi về, ban ngày, bước vào nhà, nó gặp hai người trên giường. Nó thấy mắc cở, mà lạ mắt.
Mấy hôm sau nó về nhà, mẹ nó gắt gỏng, hạch xách:
- Mấy ngày nay thằng nào, con nào chứa mày, hở thằng ôn kia?
- Không có ai chứa hết.
- Vậy mày ăn cứt à?
- Tui lớn rồi, tui làm tui ăn.
Thằng Láng chạy ra sân vì bà mẹ vừa nhảy xuống giường:
- A, thằng này giỏi thật! Mày leo lẻo. Mày ỷ làm ăn được mày một hai lại với tao. Từ nhỏ đến giờ ai nuôi mày hở? Quỉ sứ!
Thằng Láng nắm cánh cửa ngõ:
- Cha tui nuổi tui, bà không có nuôi. Cha tui chết đi để tiền lại, tui cũng ăn chưa hết tiền ấy nữa. Bà cho lão gì đó hưởng…
Nó giận run lên:
- … Rồi bà tìm cách tống tui đi. Ở đây ai cũng biết.
Nó lách qua cửa, chạy ra đường.
- Thiên địa ơi! … Bà mẹ nhảy ra sân la lên.
- Hết ngõ nói rồi. Ông con tinh ơi! Ông mà vô đây thì tao xé xác ra. Tao biết như thế này thì tao đã bóp mũi mày hồi nhỏ, uổng tiêu uổng nghệ! …
Bà mẹ la lối và tuyên bố từ nó. Nó cũng tuyên bố không sợ bị mẹ từ!
Thằng nhỏ lâm vào đời lãng tử con con. Cái khổ người đen đủi, khằn cứng như đứa bé mười hai của nó thấy như nhỏ và đen thêm vì nhiều bữa đã phải nhịn đói. Nó cũng về nhà nhưng một đôi khi, những lúc đói quá, nó lẻn về, xuống bếp cuỗm cả nồi cơm. Nó làm đủ nghề vặt vãnh. Nhiều hôm nó đã dắt cha thằng Rớt đi xin, vì thằng Rớt bịnh, để chiều về lãnh nửa số tiền xin được. Tối nó ở lại chợ ngủ chung với tôi, với thằng Nhoi, thằng Rớt. Để những đêm tối trời lại được làm ma chộ kẻ yếu vía. Mấy đêm trăng sáng bọn tôi tụ lại nói chuyện đời, chuyện mình. Con Mau ho bài chòi, cũng vẫn những bài ban ngày dùng để sinh nhai với cái giọng não nề. Nhưng ban đêm tiếng nó thanh, hay mà không buồn. Thằng Láng cũng đâm ra ưa hò hát. Nó ngồi đánh nhịp. Lúc thích chí, nó hò:
- “Thoại Khanh (ư…) dắt mẹ qua sông.
Cho mẹ uống nước (ừ) phình hông (mới) dẫn mẹ (ự) về.
- Thoại Khanh dắt mẹ qua đèo,
Bẻ roi quất đít (ứ) biểu mẹ trèo (mau… ứ) cho mau.”
Con Mau la:
- Người ta có lòng hiếu đạo, cảm thấu đến trời. Đừng nói như vậy mang tội chết, em.
Thằng Láng phục thiện lúc đó, vài hôm sau, hứng, nó lại:
“Thoại Khanh… ứ… ư… Cho mẹ uống nước…” Nó đã không sợ mẹ, nó cũng không sợ mang tội với trời.
… Trời sập tối. Thằng Nhoi lọc xọc lết về, vợ chồng Mau đã đến thềm chợ, con vợ mắt ngó lơ láo lên trời, tay nâng thằng chồng qua khỏi mấy bực cấp.
- Ngày nay được mấy chục, chú? Nhoi hỏi. Tôi trả lời:
- Được mười tám đồng, em.
- Cháu mười ba.
Con Mau tới, nghe, nó cười buồn:
- Tui được hơn chú Nhoi hai đồng.
Nó ngồi xuống ngó về phía tôi;
- Tụi tui gặp con Thung. Nó theo chuyến xe lửa trưa bán bánh, đi ra. Nó nói cha thằng Rớt bịnh, thằng Rớt biểu tại ổng buồn quá, nhớ tụi mình. Trong đó kiếm được cũng không hơn gì ngoài này. Nó nghỉ một lát:
- Thằng Rớt nói, phải biết như vậy không đi làm chi. Ở ngoài này ít nhiều cũng có bầu có bạn.
Im lặng lâu. Tôi nhớ tới thằng Rớt và cha nó. Ông đã ăn xin mấy chục năm qua và cũng đã bỏ làng xóm ra đi từng ấy năm, nhưng ông vẫn còn nhớ thương đất tổ. Những ngày xin được đủ ăn, no lòng, vui, ông thường đem chuyện ngày xưa ở quê nhà ra kể. Làng ông có cái đình đổ nát vì bị Tây thả bom. Cánh đồng khô cứng, ăn nước trời, mỗi năm một mùa, năm được ăn, năm không. Có một người đàn bà ở đầu xóm đi tự tử hoài mà không chết. Vì một lần mới nhảy xuống biển và bước ra được tới mực nước đến cổ, thì bà ta chợt nhớ mình đã mang theo mấy chục bạc, bỏ trong túi. Sợ … ướt rách mất bà trở lên bờ, cầm tiền về nhà cho con, và sau đó… lạnh quá nên không xuống nữa! Lần khác, tức ông chồng cứ cờ bạc mãi, can mấy chẳng được, bà khóc lóc bà chạy lên đường xe lửa tự tử. Bà ta nằm xuống đường rầy, ngửa cổ ra chờ chết. Nhưng lát sau, đoàn tàu sầm sập chạy đến, cái đầu máy hùng hổ phun ra từng cụm khói đen nghịt. Khiếp quá! Bà vợ nhỏm dậy chạy miết ra xa đứng ngó. Cái đầu tàu to gớm, cổ người đàn bà chắc chịu không nổi. Thôi nhịn đi là hơn!
Ông nhắc lại “trường hợp” ra đời của thằng Rớt. Vợ ông đẻ nhanh lắm. Hồi có mang thằng Rớt, ông chưa mù nhưng cũng đã nghèo, vì nghèo nên bà vợ phải đi làm luôn, gần ngày sanh cũng không được nghỉ. Bữa đó, bà đi mót lúa. Ra đồng mới một lát bỗng thấy trong người khó chịu, rồi đau bụng ngầm ngầm, và… thằng nhỏ lọt ra. Luống cuống bà bọc nó vào vạt áo dài, nơi bỏ lúa lượm được, lấy lưỡi hái phứt cuống nhau thằng nhỏ. Xong bà lễ mễ mang nó về nhà. Thấy vậy ông la trời la đất. Tính ra thằng Rớt đẻ thiếu một tháng…
Ông kể say sưa, nét mặt tươi, vui sướng như được sống lại quãng ngày xưa. Chúng tôi ngồi nghe, cười bà mẹ thằng Rớt đẻ mau như gà , và người đàn bà tự tử hoài không chết.
Nhoi mở gói lấy cơm ra ăn, tôi dồn tiền vào một cái túi nhỏ, giấu trong bị gạo. Thằng Mau bỗng nói:
- Lạ quá…
- Cái gì? Con vợ hỏi.
- Chú hai với thằng Rớt đi mình vẫn nhận được tin tức đều đều. Còn thằng Láng…
Nhoi nuốt trôi miếng cơm khô, góp:
- Ờ nó lưu linh lưu đại, đời nào chịu ở gần đây, chắc đã đi xa lắm.
Yên tĩnh hoàn toàn. Chúng tôi nằm xuống, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng. Lâu lâu lại nghe thằng Mau thở ra, thằng Nhoi thở ra. Trên cổng chợ có tiếng người rầm rì. Chắc đã đến giờ đóng cửa, canh gác. Từ lâu nay, đêm về cái chợ bị cô lập. Cồng chính vào chợ người ta đóng cho nó hai cánh cửa rất lớn, bằng thép gai đan vào nhau. Tối, hai cánh cửa ấy khép lại, một con chó nhỏ cũng không chun lọt. Mấy lối kia đều có thanh niên võ trang canh gác. Thời thế khó khăn, cả đêm lẫn ngày tiếng súng nổ ầm ầm, vọng lại nghe rõ mồn một. Tối lại, cái chợ bị phong tỏa bít bùng như một cái rọ heo. Những cặp nhân tình không còn chỗ để hò hẹn, dù bấy lâu trời đêm luôn luôn tối. Bên hàng thịt, chúng tôi buồn. Thằng Láng đi trước, nó đi đâu không rõ. Cha con thằng Rớt đi sau, tìm chỗ sinh sống. Trẻ nhỏ vui vẻ, sống động hơn người lớn. Thằng Láng, thằng Rớt không còn, bọn già buồn ngơ. Con Mau không biểu diễn bài chòi vì chẳng thấy hứng thích. Hôm kia chỗ thằng Nhoi nằm lại xuất hiện một vũng nước, nó dời qua chỗ khác chả buồn quét, chắc đó là nước tiểu của con Cheo. Những ngày vui xưa giờ đây chỉ còn như những ngày êm đẹp trong tuần trăng mật xa xôi để đôi vợ chồng đầu bạc nhìn nhau nghĩ lại mà tưởng nhớ.
Một con mèo trên tường hàng thịt nhảy phóc xuống, nom tới bên cái chõng hàng, nó bước từng bước nhẹ, thấy giống bộ thằng Láng, mấy tháng trước vẫn thường len lén men theo mấy chõng tre như thế, để rình xem những đôi nhân tình ghì nhau trên nền chợ. Chợt có một giọng hát cất lên, tôi nhỏm người dậy nghe, không phải con Mua hô bài chòi. Tiếng một người đàn bà ru con ở đâu đây vẳng đến, như tiếng súng vẫn thường nổ ầm ì nơi nào xa xăm, theo gió mây bay vào đây, vào những chiều xẩm tối.-./.