Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      

tranh Lâm Chiêu Đồng

DÙ CHƯA ĐẾN TẾT MÀ HOA ĐÀO ĐÃ NỞ BUNG RỒI...

Dù chưa đến Tết mà hoa đào đã nở bung rồi!  Đẹp biết bao!

Tất cả Niềm Vui trong chớp mắt!  Cầu mong đẹp mãi đến muôn sau!

Kỷ Nguyên Mới nữa, ôi là sướng!  Hà Nội - Sài Gòn tựa gấm hoa!   Cẩm Tú Giang Sơn mình quá đúng, công ơn của Đảng đáng hoan hô!

Hoa Đào đang nở!  Nở mừng Xuân.  Ta thắng Thailand trận đầu năm! Ta vững bước đi Đường Đổi Mới!  Ta thêm dân số, biết đâu chừng?

*

Muôn năm nước Việt!  Muôn năm vui!  Ra ngõ đầu năm nở nụ cười! Trời đất nở hoa, Xuân Tứ Quý...Tương Lai Rực Rỡ nhé người ơi!

 
CHIỀU RƠI TRÊN ĐỒNG NỘI TẠ CHỊ MỘT BÀI THƠ

Chị tôi ra nghĩa địa.  Chị được nằm bên chồng.  Mười năm hơn, nhớ nhung... bây giờ Chị toại nguyện!

Khói nhang vờn.  Tan biến.  Chị bay lên Thiên Đàng...Có thể đám mây vàng lát nửa tan biển lớn.

Bốn mươi năm sóng gợn biết bao rồi hoàng hôn?  Hơn mười năm Chị buồn... Thôi, Chị đi vui vẻ...

Người đưa Chị, đường rẽ.  Giọt lệ cũng vừa khô...Đây, mộ không nhấp nhô mà khỏa bằng xanh cỏ...

Đây lồng lộng núi gió... chỗ ở cũng chỗ về... cũng là chỗ chia lìa.  Ai qua cầu sinh tử?

Chị đã thành quá khứ.  Mỗi ngày một ngày xưa...  Tết, tới rồi, Giao Thừa, Chị lung linh.  Muốn khóc!

*

Ai bày chữ Tơ Tóc?  Tổ Quốc sao nhẹ hều!  Nhớ hình ảnh anh dìu Chị đi mười năm trước...

Chừ Chị đi, không bước... Chị đi xa, đi xa... Con hạc vàng ngậm hoa mơ hồ hai cánh khói...

Chiều rơi trên đồng nội... tạ Chị Một Bài Thơ!

 
NĂM MƯƠI NĂM THỐNG NHẤT  BÀI THƠ ĐÊM GIAO THỪA

Năm Hăm Bốn qua rồi, năm Hăm Lăm đang tới!  Hồi nãy có chờ đợi, Giao Thừa qua..., thì thôi!

Phần tư Thế Kỷ, ôi:  chỉ là cơn cát bụi!  Nước Việt Nam chìm, nổi, năm mươi năm, biển dâu!

Hai Thế Kỷ rời nhau mà vẫn còn xích buộc... mà người đau không thuốc, mà trẻ thơ không trường...

Bao giờ cũng yêu thương, nói để cho có nói!  Những bà Mẹ vẫn hỏi:  "Sao con tôi chưa về?".

Những ông Cha ngồi kia... rượu và điếu thuốc lá!  Hai Thế Kỷ ngộ há... tròn đầy năm-mươi-năm...

Từ Tháng Bốn Bảy Lăm, biết bao là nước mắt, biết bao tờ Kinh Phật, biết bao lời Chúa Ơi!

Sông Cửu Long chảy xuôi, chín con rồng giãy giụa, nước nhiễm mặn tưới lúa, được hay mất, cũng đành...

Những mái tóc xanh xanh những chiều sương bỗng bạc... 

*

Thơ tôi, ai phổ nhạc, phổ giùm đi thời gian...phổ giùm đi Việt Nam - năm mươi năm thống nhất!

Kỷ Nguyên Mới có thật từ năm này hay không?  Nhìn hình ông Tô Lâm thấy ông cười chúm chím...

Mong không là kỷ niệm, ngày đầu năm, bài thơ...
Mong không là giấc mơ nửa vời tan mây khói...

TỪ NAY MÌNH SẼ GẶP TRONG MƠ

Đã tám giờ hơn, còn tối quá,  Đèn đường đã tắt.  Phố mù sương.  Không ai đi cả.  Đời hiu quạnh.  Không tiếng chim kêu, vẫn não nùng... (*)

Nhớ lại anh Nùng trong Cải Tạo, giáo sư Sư Phạm hay cười cười... Anh không than thở điều chi cả... mà mắt anh buồn, không thấy vui...

Anh ra tù tôi cũng ra tù... Ga Tuy Hòa cùng ngắm cái Thiên Thu:  "Lệ ơi, về sống hay về chết?".  Tôi ngó anh nhìn anh rất lâu...

Chưa xe lửa tới.  Hai thằng gậm, mỗi đứa bánh mì một tấc gang. Không nước mắm chan sao quá ngọt.  Sáu năm...Ngon quá:  Bánh Mì Ngon!

Rồi xe lửa tới.  Còi hu hú.  Rồi hú hơi dài, nó đứng yên. Khách xuống, người lên, xe chạy tiếp.  Tôi về Phan Thiết, anh Phan Rang...

Chào biệt bé con ly đá lạnh.  Chào Tuy Hòa.  Chào A 30!  Hai thằng một chỗ nhìn ra cửa: nhà cửa ruộng đồng...tất cả trôi!  

Đời ngược, mình xuôi, xuôi vạn lý.  Tôi ngó anh, buồn; tôi cũng như?  Anh gặp vợ con, tôi gặp Má... Từ nay mình sẽ gặp trong mơ?

*

Đoàn xe lửa tới Phan Rang rồi.  Anh xuống, tôi chờ xe lửa xuôi...Tay vẫy.  Chào nha!  Xe lửa hú.  Mình xa mình xa đời xa xa...

Anh sang Texas rồi anh mất.  Tôi tới Cali tôi sống còn. Anh của anh mất ngoài Hà Nội.  Em của tôi mất ngoài Đại Dương...

Sáng nay, trời tối, thơ tôi lóe... Đặng Vũ Nùng ơi...mình thật xa!  Nửa Thế Kỷ mà như chớp mắt.  Mặt trời?  Không phải!  Lệ người sa!

Tôi khép cửa cho trời tối mịt.  Tôi khép lòng tôi bài thơ này.  

(*) Đặng Vũ Nùng, dạy trường Sư Phạm Đà Lạt niên khóa cuối, 1974-1975.  Anh cũng như tôi, giáo chức biệt phái... Anh ruột của anh là Đại Tá Đặng Vũ Ruyến, Giám Đốc Nha Địa Dư, ra Bắc, chết trong năm 1975, tại một trại tù ngay trong lòng Hà Nội.  Tôi nhớ anh, tôi hay đùa anh..."Anh là Đặng Não Nùng!".  Anh và gia đình sang Mỹ năm 1992.  Tôi trước anh, 1989. Chúng tôi ra tù Cải Tạo năm 1981, từ trại cuối cùng A 30 Phú Yên, anh về Đà Lat ngay để đoàn tụ với gia đình,  tôi thì về Phan Thiết thăm Má tôi lần chót trong đời...



VVM.08.01.2025.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. vietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .