Nếu không có câu thơ Bạch vân thiên tải không du du (1)
Thì mây trắng trên trời Trung Hoa,
không trắng đến nỗi thế
Tôi đi hàng ngàn cây số đến xứ sở Người
Để chỉ nhìn làn mây trắng này thôi
Làn mây trắng một lần, bay qua lầu Hoàng Hạc,
bay qua hồn Thôi Hiệu
Vĩnh viễn trẻ và buồn, sống trên trời xanh
Khát vọng Tự Do và nỗi cô đơn thăm thẳm
Thấm vào tôi từ tuổi trong lành
Hạc Vàng có bay về cũng chả còn chỗ đậu
Nhà nhọn mọc như măng, trên bãi cỏ non xưa
Nơi Thôi Hiệu đề thơ, chỉ còn là chỗ thu tiền
của khách du lịch
Mây có trắng hết mình thì người đời cũng vẫn thờ ơ...
Sau một ngàn hai trăm năm, Thôi Hiệu
làm sao hình dung được
Có một nhà thơ từ tận cùng phương Nam,
đến ngắm làn mây bay qua thơ Ông
mà thương cảm bàng hoàng
Và thức suốt đêm trong thu lạnh
Nghe tiếng tàu ầm ầm lao qua sóng
Trường Giang...
Bắc Kinh 18 - 9 - 1999
(1) Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi (dịch), một câu thơ trong bài Hoàng Hạc Lâu (Lầu Hoàng Hạc) của Thôi Hiệu (701-754)
LÃO XÁ
Ông vốn là người mềm yếu, sẵn sàng đổ tội chết
cho bất cứ ai, miễn là cứu được mình
Nhưng rồi Ông có cứu được Ông đâu
Ông tự trẫm xuống đáy hồ Thái Bình (1)
trong nỗi khiếp đảm
Lũ trẻ con từng lấy thắt lưng da có móc sắt
quất vào mặt Ông
Giờ lôi xác Ông lên phơi nắng
Văn chương lỗi lạc một thời
Bể dâu đến thế thì thôi còn gì!...
Chúng đốt Tường Lạc Đà của Ông
Nhưng nó mãi mãi vẫn là một trong những kiệt tác
Nhân dân Trung Hoa nhờ những kiệt tác ấy mà bất tử
Tôi cũng vì những áng văn ấy mà đến đây
Bao người cũng đến như tôi, bằng đường bộ,
đường thủy, đường bay
May sao còn có những ngày
Nắm xương mỏng, dưới đất dày, bình yên…
Ông đón tôi nơi chiếu nghỉ cầu thang
Bên phải là Quán Trà, bên trái là Sân Khấu (2)
Trong kính trắng, mắt Ông cười hiền hậu
Như đất nước Ông chưa từng đứng bên bờ hủy diệt
Như Ông chưa từng có cái chết
Nào ai hiểu được lòng Ông
Cái giây phút chót khuất trong cõi đời
Ngoài kia, Quảng trường Thiên An Môn,
đèn màu chiếu lên lưng trời
Dưới Cống Long Tu bao nhiêu nước trôi
Đường tàu điện ngầm, người đi chen nhau,
một thời qua mau
Trên gương mặt ai dần phai nỗi đau
Nghĩ gì hôm nay, nói gì mai sau...
Nhạc bay từ Đại Tửu Lâu
Tôi đi, mái tóc ẩm màu trăng khuya...
Bắc Kinh 18 - 9 - 1999
(1) Hồ ở đường Tân Nhai, ngoại ô phía bắc thủ đô Bắc Kinh
(2) Tượng bán thân nhà văn Lão Xá (1899-1966) tác giả tiểu thuyết Tường Lạc Đà và vở kịch nói Cống Long Tu.
Theo một nguồn tư liệu, ông được xét tặng giải Nobel Văn chương 1968. Biết ông đã tự tử trong Cách mạng Văn hoá ngày 26-8-1966,
giải đã trao cho nhà văn Châu Á kế tiếp ông là Kawabata, Nhật Bản.
NGUYỄN DU
Đến đâu con cũng gặp Người
Xin dâng chén rượu giữa trời Trung Hoa
Hạc Vàng một bóng Lầu xa
Hồ Nam úa ráng chiều tà hanh heo
Tiệc to thường ở nơi nghèo
Đồng ngô khô xác, mái lều gió lay
Người xưa đi sứ qua đây (1)
Bùn lưng bụng ngựa, sông đầy thuyền trôi
Cỏ cây, thành lũy khác rồi
Hoàng Hà đã cạn, thơ Người vẫn sâu
Thời nào thì cũng như nhau
Nỗi buồn li biệt, nỗi đau dối lừa
Tiền Đường sầm sập đêm mưa
Nước âm u chảy như chưa vớt Kiều (2)
Nghiệp Thành còn tiếng quạ kêu (3)
Lâm Tri bến cũ, cầu treo rực đèn
Sắc tài chi để trời ghen
Người đâu phải nước đánh phèn cho trong
Cõi đời đâu cũng long đong
Văn chương bạc phận, má hồng vô duyên
Bời bời những cuộc đỏ đen
Chính trường sấp mặt, đồng tiền xoay ngang...
Đặt chân lên đỉnh Thiên Đàn
Bốn bề mây trắng thu vàng lá rơi
Bâng khuâng con lại thấy Người
Vái Người, con đứng ngang trời Trung Hoa...
Cố Cung 21 - 9 - 1999
(1) Năm 1813-1814, Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc
(2) Thuý Kiều (trong Truyện Kiều) trẫm mình ở sông Tiền Đường
(3) Nghiệp Thành: Nơi đóng đô của Tào Tháo, thời Tam Quốc