VÕ HỒNG

  • Võ Hồng lấy tên thật làm bút danh.

    Sinh ngày 05-05-1921 tại làng Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Tạ thế vào lúc 14.00 ngày 31/3/2012 tại NhaTrang.

    Còn nhỏ hoc ở trường làng Ngân Sơn, trường phủ Tuy An, trường huyện Sông Cầu, rồi ra học trường Trung học Qui Nhơn. Năm 1940 học ban tú tài ở Hà Nội. Dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim Ông làm bí thư toà Tổng Ðốc 4 tỉnh miền nam Trung Việt đóng tại Ðà Lạt. Trong thời kháng chiến Ông cùng Vợ dạy học ở Trung Học Lương Văn Chánh (Phú Yên) sau Ông làm hiệu trưởng trường này.
    Năm 1953 bị bệnh xin nghỉ dài hạn.
    Năm 1954 đưa gia đình về sống ở Ðà Lạt. Từ năm 1956 về sống ở Nha Trang, dạy học ở các trường tư thục và nghỉ hưu năm 1982.
    Vợ Ông, cô bé Marie Phan Diệu Báu xinh xắn ngày nào của xứ hoa Anh đào, đã cùng chồng dấn thân trong ngành giáo dục.

    Cuộc kháng chiến kham khổ đã làm hao mòn sức lực.
    Năm 1957 Bà sớm lìa trần vì bệnh tim, để lại cho Võ Hồng 3 đứa con nhỏ .
    Cuộc sống đơn chiếc đã đeo đuổi Ông từ ngày ấy và mái gia đình trọn vẹn sum họp đã trở thành một dĩ vãng xa xôi.

    Từ khi các con Ông lần lượt rời bỏ ngôi nhà sinh trưởng, cuộc sống của Ông chỉ còn là hiu quạnh.
    Vắng bóng người Vợ, xa cách những đứa con và thiếu thốn những quây quần Ông cháu.
    Ðó là tóm tắt cuộc đời quạnh quẽ trong căn phòng nhỏ của Ông .
    Võ Hồng sớm cầm bút, truyện ngắn đầu tay Mùa gặt được đăng trên báo Tiểu Thuyết thứ Bảy, Hà Nội năm 1939 với bút hiệu Ngân Sơn, khi Ông còn là học sinh đệ tam niên (3e année). Mãi đến năm 1959 Ông mới thật thụ gia nhập làng văn với tác phẩm đầu tay HOÀI CỐ NHÂN.

    Sau 1975 trong một hoàn cảnh xã hội phân cực trầm trọng (trong và ngoài nước), muốn tiếp tục giữ vững ngòi bút độc lập của mình và tránh mọi thị phi hiểu lầm Võ Hồng đã giới hạn sinh hoạt văn nghệ của mình nơi địa phương Khánh Hòa, giới hạn ngòi bút của mình trong đề tài giáo dục và tuổi thơ, giữ cuộc sống trầm lặng ẩn dật.
    Cũng trong thời gian này Nhà văn đã phải ẩn mình dưới 2 bút hiệu khác Võ An Thạch (*) và Võ Tri Thủy (*).

    Ông đã cho ra đời ngoài 8 tiểu thuyết, truyện dài, trên 70 truyện ngắn như :

    -Hoài Cố Nhân xuất bản năm 1959 tái bản hai lần vào năm 1969 và 1992 -
    -Lá Vẫn Xanh xuất bản năm 1962 -
    -Vết Hằn Năm Tháng xuất bản năm 1965 -
    -Con Suối Mùa Xuân xuất bản năm 1966 -
    -Khoảng Mát xuất bản năm 1966 -
    -Bên Kia Đường xuất bản năm 1968 -
    -Những Giọt Đắng xuất bản năm 1969 -
    -Trầm Mặc Cây Rừng xuất bản năm 1971 -
    -Trong Vùng Rêu Im Lặng xuất bản năm 1988 -
    -Vẫy Tay Ngậm Ngùi xuất bản năm 1992 -
    -Thương Mái Trường Xưa xuất bản năm 1993 -
    -Một Bông Hồng Cho Cha xuất bản năm 1994 -
    -Truyện ngắn chọn lọc xuất bản năm 1994 -
    -Vùng Trời Thơ Ấu xuất bản năm 1995 -
    -Thơm Ngát Hương Cau xuất bản năm 2001 -
    -Tuổi Thơ Êm Đềm xuất bản năm 2001 -
    -Chúng Tôi Có Mặt xuất bản năm 2001
    và nhiều tập tùy bút, bút ký, các tập truyện viết cho thiếu nhi, hơn 40 bài viết, bài khảo cứu, phê bình.

    Vän nghiệp của Ông sống qua mọi thời đại vì nó luôn gắn chặt với quê hương, với người dân quê mộc mạc Phú Yên của Ông.




  • TÁC PHẨM ĐĂNG TẢI TRÊN VIỆT VĂN MỚI