K inh DUY MA CẬT được cho là xuất hiện từ thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên. Nội dung kể về một CƯ SĨ, vẫn làm ăn, sinh hoạt như một người bình thường, mà so lý lẽ Phật Pháp thì các Đại Đệ Tử của Phật còn phải nể sợ, làm nảy sinh nhiều luồng dư luận khác nhau. Kẻ bênh, người chống, cho là không thể có việc Cư Sĩ mà lại hiểu biết Đạo hơn là Tu Sĩ. Dù rằng Đạo Phật đã được khai mở đã gần 3.000 năm, nhưng nhiều người vẫn cho rằng chỉ những người Ly Gia, cắt Ái, vô Chùa tu hành, sống đời độc thân là mới có thể tu hành thành công.
Thượng tọa Thích Nhật Từ không biết dựa vào đâu mà khẳng định : “Chỉ có tu sĩ mới có thể chứng đắc, Cư sĩ chỉ đắc Chân Nhân thôi” ! trong khi đó, Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết : “ Ở Chỗ có Quyển Kinh, trong vuờn, ngoài rừng, dưới tàng cây, hàng Tăng Phường hay Bạch Y, CHỈ CẦN ĐÚNG NHƯ PHÁP TU HÀNH thì ở đó đều là Đạo Tràng”. “Các Đức Phật ở đây mà đắc Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Đức Phật ở đây mà Chuyển Pháp Luân. Các Đức Phật ở đây mà nhập Niết Bàn”.
Giáo Pháp Đạo Phật đã dặn dò chúng ta không nên Tin, kể cả những gì được truyền lại từ xưa hay được chép ra từ Kinh Sách. Vì vậy, tốt nhất là chúng ta nên tìm hiểu cho kỹ trước khi quyết định nên Tin theo bên nào. Vì niềm tin đó có thể dánh đổi bằng cả công phu tu hành của ta. Tuy nhiên, nếu biết được thế nào là mục đích tu hành theo Đạo Phật thì chúng ta có thể đưa ra một kết luận tương đối đúng đắn cho riêng mình.
Thật vậy, phải chăng ai cũng biết Mục đích của Đạo Phật ra đời là để ĐỘ KHỔ ? Tu hành theo Đạo Phật là để được THOÁT KHỔ ? Như vậy, ở đời có ai mà không bị Khổ ? Người muốn THOÁT KHỔ thì liệu có cần điều kiện nào ngoài : ĐÚNG NHƯ PHÁP TU HÀNH ? Bởi giả sử đặt trường hợp ngược lại : Nếu độc thân, ở trong Chùa, hình tướng đầy đủ mà KHÔNG ĐÚNG NHƯ PHÁP TU HÀNH thì liệu có Chứng Đắc hay không ? Nơi chốn ? Trang phục ? Có gia đình hay độc thân ? Già hay trẻ ? Nam hay Nữ ? có trở ngại gì cho việc Thoát Khổ hay không ? Hay đó chỉ là bề ngoài, có hay không cũng không cần thiết ? Do đó, tất cả mọi người đều bình đẳng, không phân biệt. Chỉ cần thấy Khổ, muốn Thoát, rồi áp dụng đúng Pháp của Đạo Phật thì đều Thoát Khổ như nhau.
Do Phật Tử từ nhiều đời qua đã bị những người trong lớp áo Tu Sĩ, dù nhiệt thành có thừa, sẵn sàng bỏ gia đình, nhà cửa, cha mẹ để Xuất Gia tu hành, nhưng không chịu học hết Giáo Pháp của Phật mà lại quá mến mộ Phật nên thay vì đọc Kinh là để tìm hiểu cho đến nơi đến chốn thì họ chỉ chọn một số Phẩm nào có đề cập đến điều họ cần, rồi dựa theo đó mà tuyên truyền vẽ vời, tưởng tượng thêm ra ! Họ quên rằng trong bối cảnh lập Đạo của Đức Thích Ca ngày xưa, do con người quá mê đắm trần cảnh, không chịu xa rời, nên Phật phải dùng nhiều Phương Tiện, hứa hẹn nhiều thứ để họ chấp nhận vào Đạo, rồi sau đó từ từ sẽ dẵn dắt đi tiếp. Quan trọng là cuối đường Đạo Phật dắt người tin về đâu.
Thật vậy. Nhiều người đọc Kinh mà thấy khó hiểu thì không chịu tìm hiểu thêm, đã vội cho rằng Đạo Phật là một Tôn Giáo cao siêu, huyền bí. PHẬT, Bồ Tát là những vị Thần Linh cao cả chuyên “Cứu Khổ cứu nạn cho bá tánh”. Mọi người cần gì thì cứ Cầu Xin là sẽ được ban cho, khi sống cũng như lúc qua đời ! Bậc Giác Ngộ là những vị siêu phàm nhập thánh. Tu Sĩ là những bậc thanh cao, ly dục, thoát trần, chuyên tâm phụng sự Phật và giảng pháp để mọi người tin, nghe mà quay về với Phật để được cứu độ ! Do đó, các Tu Sĩ thấy mình Xuất Gia là để phụng sự cho Phật, và thấy rằng chỉ có họ mới là Đệ Tử của Phật, vì đã “Thoát tục”, “Ly Trần”, xa rời vòng tục lụy !
Là người tu học thời nay, chúng ta không nên theo bất cứ kết luận của người đi trước. Bởi tại sao khi học hành, hay làm việc gì thì mọi người đều tính toán, lập kế hoạch để lường trước mọi việc, riêng Đạo Phật thì lại giao phó cho những Tu Sĩ để họ đọc Kinh rồi giảng lại cho nghe ! Kinh đã được dịch ra tiếng Việt từ rất lâu rồi, tại sao ta không tự tham khảo để có sự hiểu biết của riêng mình ?
Lịch Sử Đạo Phật có ghi rõ hành trình của Đức Thích Ca. Bắt đầu từ lý do Ngài Phát Tâm, bỏ lại ngai vàng cùng với vợ đẹp, con xinh. Rồi sau đó là cả một quá trình tìm thầy, tu học, Hành đủ thứ Pháp, từ Lõa Thể cho đến Khổ Hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một hột mè, suýt chết... cho đến cho đến khi Chứng Đắc.
Dù Kinh có nói rõ là Đức Thích Ca đã Chứng Đắc nhờ 49 ngày đêm Thiền Định dưới Cội Bồ Đề. Nhưng Chứng Đắc đó là Đắc những gì ? Mục đích để làm gì ? Mọi người có thể bắt chước giống như Đức Thích Ca, hay một mình Ngài độc quyền Thành Phật ?
Có tìm như vậy thì trước hết ta có thể loại bỏ những giai đoạn không cần thiết, nhanh chóng bắt tay vào hành trì, không phí phạm thời gian vô ích. Chẳng hạn thời gian đầu Đức Phật mất 6 năm học với Lục Sư ngoại đạo để được dạy những phép thần thông, “nách bên tả phun lửa, bên hữu phun khói” mà chính Ngài cũng thấy là sai lầm, vì những thứ đó không giúp Ngài đạt được điều Ngài cần tìm, mới bỏ đi học với thầy khác. Vậy thì ta dại gì lao vào để luyện cho có những Thần thông đó ? Như vậy ít ra ta đã đốt giai đoạn được 6 năm rồi. Giao khoán cho người khác đọc kinh rồi giảng lại cho mình, nhỡ họ hiểu sai thì ai chịu trách nhiệm việc mất thì giờ, công sức của ta ? Chưa kể là họ dắt đi vòng quanh, đổ thừa là Tiệm Giáo, trong khi chúng ta có thể đi trực tiếp bằng ngã ĐỐN GIÁO thì có phải là phí uổng thời gian hay không ?
Kế đó, ta thấy Phật nhờ THIỀN ĐỊNH mà chứng đắc. Vậy thì điều quan trọng là chúng ta cần biết Ngài đã NGỒI THIỀN như thế nào ? Trong lúc NGỒI THIỀN, Ngài đã làm gì ? Đã THẤY những gì mà cho là Chứng Đắc ? Bởi vì Ngồi Thiền cũng có năm bảy kiểu. Từ đếm hơi thở, điều khiển Luân Xa, cho đến Thiền Minh Sát hoặc Diệt Tận Định. Chúng ta sẽ chọn Ngồi Thiền Kiểu nào ? Bởi mỗi kiểu cho ra một kết quả khác nhau dù cùng một tư thế Ngồi bất động. Rồi do Cái tâm thanh tịnh, hành giả sẽ gặp nhiều cái lạ trong lúc Ngồi Thiền. Thí dụ gặp Thần Tiên. Gặp Phật, Bồ Tát giảng đạo. Thấy trước việc sẽ xảy đến. Đọc được tư tưởng người khác v.v. Người không hiểu sẽ cho đó là Chứng Đắc !
Do đó, trong Kinh này, qua những gì Ngài DUY MA CẬT giải thích từng Pháp cho những Đại Đệ Tử của Phật, cho ta một sự hiểu biết đúng hơn về Cách Hiểu về một số Pháp cần thiết của Đạo.
Tu Phật là để THÀNH PHẬT. Đó là mục đích Chư Tổ khi viết Kinh ĐẠI THỪA. Trong đó Các Ngài dựng lên những câu chuyện, bằng nhiều cách để dẫn dắt người đọc. Có Kinh mở đầu bằng Chư Đại Bồ Tát thưa thỉnh Phật để xin Phật giải thích những nghi vấn. Có Kinh là Ngài A Nan bưng bát đi xin sữa bị ngoại đạo cật vấn không biết trả lời thế nào nên về nhà hỏi Phật. (Kinh ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN). Kinh LĂNG NGHIÊM thì dùng hoàn cảnh Ngài A Nan bị Ma Đăng Già dụ vào phòng, ép uổng tình duyên. Trong kinh này, Ngài DUY MA CẬT xuất hiện trong lúc Chư Đại Đệ Tử của Phật đang giảng Pháp, để giải thích lại cho đúng, mục đích là để cho người tu học thời sau như chúng ta Hiểu cho đúng, để Hành đúng, thì mới đưa đến kết quả đúng, vì khi đọc Kinh, ngoài NGỮ còn có NGHĨA, mà người đọc Kinh cần “Y NGHĨA BẤT Y NGỮ”.
I.- PHẨM PHẬT QUỐC
Mọi người thường nghĩ Phật Quốc là Nước của Phật, nơi mà những người theo Đạo Phật đều mong muốn được về đó. Nhất là Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Theo mô tả đó sở dĩ gọi là CỰC LẠC vì là một nơi mà những “chúng sanh không còn bị những sự Khổ, chỉ huởng những điều vui”. Hơn nữa, cảnh trí trong đó tuyệt đẹp. “Bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng. Lại có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng, bạc, pha lê, hiệp thành đường. Trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Trong ao có Hoa Sen lớn như bánh xe, có đủ sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, thơm tho, trong sạch.. Tóm lại là từ cảnh vật đến chim chóc, đến đất cát cũng đều bằng vàng, bạc, pha lê, xích châu, mã não”..là những thứ mà người đời ham muốn, tranh giành nhau để có được, làm cho nhiều người đọc Kinh mà Y NGỮ đều mong mỏi được đến đó. Thậm chí có vị còn lập ra Tịnh Độ TÔNG, chuyên Niệm danh hiệu Phật A Di Đà ngày đêm để mong được về đó.
Đọc Phẩm Phật Quốc của Kinh DUY MA CẬT, chúng ta sẽ thấy : Phật Quốc không phải là NưỚc của vị Phật nào đó. Cũng không phải do Niệm Phật mà được đến đó, mà CÕI PHẬT là nói về một tình trạng thanh tịnh, an lạc ở trong TÂM CỦA MỖI NGƯỜI.
Do đó, người muốn thành lập Phật Quốc thì “PHẢI LÀM CHO TÂM THANH TỊNH. TÙY CHỖ TÂM THANH TỊNH MÀ CÕI PHẬT ĐƯỢC THANH TỊNH”, vì “Chúng Sanh là Cõi Phật của Bồ Tát”. Có nghĩa là Cõi đó được hình thành bằng công việc CỨU ĐỘ CHÚNG SINH của Bồ Tát trong chính Cái Tâm của mỗi người.
Cõi Phật mà Chư Vị giác Ngộ diễn tả đó là CÕI TÂM. Do đó, chúng ta phải hiểu Phật đã diễn tả Cõi Tâm có những gì trong đó thì mới hiểu được thế nào là ĐỘ SINH.
Từ mấy ngàn năm trước, Đức Thích Ca gọi là nơi sinh ra những tư tưởng là Cái Tâm. Ngài cho rằng trong Cái Tâm, từng sát na, những tư tưởng cứ liên tục khởi, diệt. Số lượng không tính nổi, Ngài gọi đó là Chúng Sinh. Cách đây khoảng hơn 15 năm, theo nghiên cứu của những Nhà Tư Tưởng Học người Úc, thì mỗi ngày, mỗi người khởi lên khoảng 50.000 tư tưởng. Nhưng số có ích thì ít, mà số vô ích lại nhiều. Đức Thích Ca cũng cho rằng chính tư tưởng mới điều khiển cho hành động, vì thế, muốn không có hậu quả xấu thì phải diệt cái Xấu từ trong trứng nước. Do đó mà Ngài bày ra cách thức để dạy cho con người kiểm soát ý tưởng, không cho nó thực hiện những toan tính làm điều Ác, gọi đó là CON ĐƯỜNG ĐỘ SINH hay BỒ TÁT ĐẠO.
Cũng theo Phật, trong Tâm của mỗi chúng ta từng sát na luôn có những Ý tưởng nổi lên, không chỉ thuần Thiện hay Thuần Ác, mà Thiện, Ác đan xen, nên Ngài gọi cõi đó là “Phàm Thánh đồng cư”. Mục đích việc tu hành là chuyển hóa những tư tưởng Xấu, Ác trở thành thánh thiện, trong sạch.
Nói về Công việc ĐỘ SINH, Chư Vị Giác Ngộ chia ra tư tưởng làm 3 chủng loại :
1/- Những tư tưởng thánh thiện, an lành, thanh tịnh, gọi là PHẬT, vì đã được Giải Thoát, không còn Phiền Não.
2/- Những tư tưởng lúc nào cũng động loạn, khởi những hơn, thua, tranh chấp, đố kỵ, giận hờn, Tham lam, ganh tỵ.. là CHÚNG SINH.
3/- Những tư tưởng trung gian, có thể can ngăn, giáo hóa, khuyên nhủ để cho những tư tưởng xấu xa bỏ đi, không thực hiện thành hành động, thì gọi đó là BỒ TÁT.
Trong Nội tâm, có tư tưởng luôn lắng nghe từng cái Khởi của Chúng Sinh để khuyên can nó, cho nó chịu bỏ đi, không đưa tới hành động xấu, Phật gọi đó là QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, vì nhờ sự theo dõi, lắng nghe mà kịp thời cứu vãn tìn hình, không cho cái Xấu đưa vào hành động. Khi Cái Tâm trở lại với sự thanh tịnh thì gọi là “Cứu Độ được Một Chúng Sinh”, hay “Đưa được một Chúng Sinh thành Phật” .
Cõi Phật tức là cõi thanh tịnh mà Bồ Tát của mỗi người sẽ tùy chỗ giáo hóa Chúng Sanh của mình mà lãnh lấy.
Tại sao Đạo Phật hay dùng con số BẢY và Cõi Phật được tả là hình thành bằng BẢY BÁU ?
Bởi vì trong cuộc sống, mỗi người luôn tạo ra BẢY NGHIỆP. Ba Nghiệp của Thân là THAM, SÂN và SI. BỐN NGHIỆP của KHẨU là Nói láo, nói lưỡi đôi chiều, nói để khen mình, chê người. Những Nghiệp này đeo bám con người từ vô lượng kiếp. Do mọi người khư khư ôm giữ, từ đời nọ đến đời kia không chịu xa rời, nên Phật ví như người giữ của báu. Có BẢY NGHIỆP, nên Phật gọi là BẢY BÁU. XẢ được BẢY NGHIỆP đó gọi là BỐ THÍ BẢY BÁU cho Phật. XẢ món nào thì coi như mang món đó đi trang hoàng Nước Phật. Vì thế, Phật Quốc được hình thành bằng BẢY BÁU, không phải là châu báu của thế gian. Vì Cõi Phật là VÔ TƯỚNG, đâu thể mang vật chất hữu tướng bỏ vô đó được. Mỗi người phải thành lập PHẬT QUỐC của riêng mình, bằng cách XẢ BẢY NGHIỆP vẫn ôm giữ từ nhiều đời.
Phật Quốc của ai ở nơi Tâm của người đó, được tạo dựng bằng những việc XẢ BẢY NGHIỆP, Giữ Giới và hành BÁT CHÁNH ĐẠO. Không thể do cầu nguyện mà đến, và cũng không thể về Nước của Phật khác, vì mỗi người đều có Cõi Tâm riêng nên Nước Phật cũng riêng.
Những người Nhị Thừa thường nghĩ rằng Phật, Bồ Tát là những vị Thần Linh để “Cứu Độ” cho mọi người. Nơi Kinh này, chúng ta sẽ được giải thích hành dụng thế nào mà được gọi là Bồ Tát.
Trong Đạo Phật có hai Hạng Đệ Tử.
Hàng Thinh Văn là những người CHẤP KHÔNG. Họ Quán sát thấy được CÁC PHÁP CUỐI CÙNG SẼ TRỞ VỀ KHÔNG nên buông bỏ tất cả. Không làm việc gì hết, việc cơm áo gạo tiền giao phó cho Thí Chủ, nên được sự an tịnh thì cho rằng đã đạt được NIẾT BÀN, cho đó là đạt mục đích của Đạo nên không thấy cần làm gì thêm nữa !
Họ không chấp nhận thực tế để thấy rằng hiện CÁC PHÁP ĐANG CÓ. Nhưng do không trường tồn, nên gọi là TẠM CÓ. Việc tu hành theo Đạo Phật là để vẫn tiếp tục sống, đối mặt với các PHÁP mà không còn bị nó làm KHỔ nữa, không phải là chối bỏ, xa lánh, trốn Pháp, trút gánh nặng cho người khác rồi thấy mình Thoát Pháp !
Người tu theo ĐẠI THỪA phải hành HẠNH BỒ TÁT, “Cứu Độ Chúng sinh”, mà Chúng Sinh là những cái Khởi Bất Thiện trong Tâm mình. Chuyển hóa nó, không cho nó đưa ra hành động, mà chịu quy thuận, bỏ đi ý tưởng xấu. Hành vi khuyên nhũ, giải thích cho Chung Sinh chấp nhận mà bỏ ý định xấu gọi là Bồ Tát.
Những người CHẤP KHÔNG thì không thành lập được PHẬT QUỐC vì CÕI PHẬT KHÔNG PHẢI Ở NƠI RỖNG KHÔNG, mà được hình thành bằng Các Chúng Sanh được Bồ Tát cứu độ đưa về đó. Cõi đó Ở TRONG TÂM CỦA MỖI NGƯỜI, vì thế, mỗi người cần có BỒ TÁT trong Tâm để làm công việc đưa Chúng Sinh về Nước Phật.
Bồ Tát muốn Giáo Hóa Chúng sanh thì bản thân phải có : Trực Tâm. Tức là Cái Tâm phải ngay thẳng, không quanh co, gian dối. Phải Phát Bồ Đề Tâm. Tức là Phát Tâm mong cầu Giải Thoát, và hành LỤC ĐỘ Ba La Mật gồm : Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ và một số việc khác như Tứ Vô Lượng Tâm tức là TỪ, BI, HỈ, XẢ. Tứ Nhiếp Pháp (được giải thích là 4 phương pháp để nhiếp độ Chúng sanh. Đó là Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành và Đồng Sự), và 37 Phẩm trợ đạo.. Tóm lại là Bồ Tát phải Hành Hạnh ĐỘ SINH. Độ hết Chúng Sinh để cho cõi Tâm được thanh tịnh thì gọi đó là CÕI PHẬT.
Để làm công việc ĐỘ SINH thì người tu phải biết thế nào là CHÚNG SINH.
Theo Đạo Phật, trong mỗi người chúng ta cũng như bên ngoài vũ trụ đều có 6 CON ĐƯỜNG, đó là : Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, Nhân, A Tu La, Thiên. Sáu con đường này là Sáu tính cách được mỗi người thể hiện trong kiếp sống được Đạo Phật mô tả :
1/- ĐỊA NGỤC là nơi mà người ở trong đó bị hành hình, tra tấn, làm cho đau khổ. Do đó, một người, dù đang ở CÕI NHÂN, nhưng bị rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo, đau khổ, lúc nào cũng bị bức bách, muốn thoát ra mà không thể được, có cảm tưởng như là đang bị giam cầm, trói buộc trong đó, thì gọi đó là NHÂN ĐỊA NGỤC. Người bị rơi vào những hoàn cảnh bế tắc, đau khổ hoặc bị bệnh hành hạ đau đớn, hay bị giam giữ, đày đọa thì gọi là rớt Địa Ngục.
2/- NGẠ QUỶ là Quỷ đói. Được mô tả bằng hình ảnh cái cổ nhỏ bé không đưa thức ăn vô cơ thể được. Ý Phật muốn diễn tả một người mà lúc nào cũng thiếu thốn, thèm muốn đủ thứ mà không thể đáp ứng được, hoặc do bệnh mà không ăn uống được thì gọi là Nhân Ngạ Quỷ hay là người đang thọ Nghiệp Ngạ Quỷ.
3/- SÚC SINH là loài thú. Một người mà đầu óc lúc nào cũng tơ tưởng đến những điều thấp hèn, hưởng thụ, không nghĩ được điều gì thanh cao, trong sáng thì gọi là Nhân Súc Sinh.
4/- Một người cũng có được phước báu, nhưng hay đố kỵ, ganh tỵ, sân si, đấu tranh, hơn thua, thì gọi là Nhân A Tu La.
5/- Một người đầy đủ đức tính cao quý của con người, biết kính trên, nhường dưới, yêu thương giúp đỡ mọi người thì đó là NHÂN NHÂN
6/- Một người đầy đủ đức tính cao quý của con người, nhưng thêm đức tính thanh cao, tao nhã, hướng thượng, thì là NHÂN THIÊN.
Nếu kiếp sống hành vi, suy nghĩ thuần thục, quen với đường nào, Tạo Nghiệp theo đường nào, thì sau khi cái Thân hiện tại hết Nghiệp thì Thần Thức phải thọ cái Thân vào con đường mà mình đã quen mà Đạo Phật gọi là Huân Tập. Không phải như vị Cao Tăng nào của Tây Tạng đã viết sách chỉ dẫn cho mọi người cách thức để được theo Phật, là chọn ánh sáng trắng hoặc màu vàng để đi vào đó, vì đó là ánh sáng của Phật ! Nhưng chúng ta thử nghĩ, nếu cả đời sống ác mà khi Chết không bị Nghiệp Lực điều khiển và đủ sáng suốt để tự chọn nơi đầu thai thì Nhân Quả bỏ đi đâu ?
Lục Độ là Sáu việc làm để ĐỘ cho Sáu con đường. Sáu con đường này cũng ở trong mỗi người. Vì vậy, muốn tháo gỡ phải làm ngược lại. Ba Đường dưới là Nghiệp Nặng, nên tu hành là cần “Độ” trước tiên. Địa Ngục là do Phá Giới, nên phải Giữ Giới. Ngạ Quỷ là do Tham Lam, thích ôm giữ, nên phải Bố Thí, phải Xả. A Tu La thì ham hơn thua, tranh đấu nên phải dùng hạnh Nhẫn Nhục. Càng tinh Tấn thì càng mau hết Nghiệp. Người đã ở trong Nhân Thừa, hay Thiên Thừa thì đã nhiều kiếp tu hành nên khi gặp Phật Pháp thì dễ tu hành hơn là những người còn đang ở Ba Đường dưới. Các vị Giác Ngộ cho rằng một khi đã rơi vào Ba Đường dưới thì rất khó để thoát ra. Vì thế, chúng ta đã có được Thân người đã là một điều khó khăn, Phật gọi là “Nhân Thân nan đắc” nên cố gắng tu hành, đừng bỏ qua cơ hội, và đừng tạo Ác Nghiệp, vì nếu để mất Thân người, lại bị Nghiệp lôi vào đường dưới thì Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN viết : “Một khi mất thân người, muôn kiếp khó trở lại”.
II.- PHẨM PHƯƠNG TIỆN
Phẩm này nói về Ông Trưởng Giả DUY MA CẬT. Ông là người giàu có, không những của cải nhiều, mà còn có uy tín lớn. “Đã từng cúng dường vô lượng các Đức Phật, trồng sâu căn lành, chứng các Pháp Tổng Trì, hàng phục ma oán, đặng sức vô ngại, thấu rõ Pháp môn thâm diệu.. đầy đủ các môn của Đạo Bồ Tát”. Vì muốn độ người nên thị hiện làm thân Trưởng Giả, vào đủ các nơi buôn bán, làm ăn, tiệc tùng.. Tuy ở Tại Gia mà không đắm nhiễm Ba Cõi, ở cảnh nào cũng làm lợi ích cho mọi người.
Theo mô tả về Trưởng Giả DUY MA CẬT như trên, thì ông đã là Bậc Giác, đang “thị hiện làm thân Trưởng Giả” không phải chỉ là một Cư Sĩ tầm thường đang học đạo. Hơn nữa, nhiều người thường theo thói quen mà cho rằng Tu Sĩ mới cao hơn Cư Sĩ, vì thường là Tu Sĩ giảng pháp cho Cư Sĩ. Tuy nhiên, theo Kinh PHÁP HOA, thì Tu Sĩ hay Cư Sĩ , nếu “Đúng như Pháp tu hành” thì đều đặng Vô Thượng Chánh Giác như nhau, bởi việc tu hành tùy thuộc vào sự hiểu biết và sự tinh tấn khi thực hành của mỗi người, không liên quan đến hoàn cảnh. Nếu tu ở Chùa mà gặp Sư Trưởng không có Chánh Pháp, hay Sư trưởng có Chánh Pháp, nhưng học trò không tinh tấn, không thiết tha với con đường tu hành thì liệu có thành công hay không ? Hơn nữa, chắc gì người tu ở trong Chùa mà tinh tấn hơn người ở ngoài mà có chí hướng, có quyết tâm ? Điều quan trọng là gặp đúng Chân Minh Sư có Chánh Pháp để hướng dẫn. Đó mới là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho kết quả. Nhanh hay chậm là do sức tinh tấn của hành giả mà thôi.
Ông Duy Ma Cật thị hiện có bệnh nên Quốc Vương, Đại Thần, Cư sĩ, các vị Vương tử, Bà la môn đều đến thăm. Ông dùng dịp Cái THÂN bị bệnh để nhắc mọi người QUÁN CÁI THÂN. Trong Kinh mô tả chi tiết về CÁI THÂN hư huyển để người không biết phải Quán thế nào cũng có thể nương theo đó mà thực hành.
Ai cũng biết, THÂN phàm này được kết hợp bởi TỨ ĐẠI, tức là ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA, do duyên của cha mẹ kết hợp mà hình thành, tồn tại nhiều lắm là một trăm năm rồi sẽ đi vào hư hoại, trả về cho Tứ Đại.
Nhiều người thường cho rằng làm Ác hay làm Thiện, sống Tốt hay sống xấu thì cuối cùng Chết là hết ! Nhưng theo Đạo Phật, kiếp sống của con người không kết thúc khi Cái Thân Chết. Cái Chết chỉ là sự kết thúc của cái xác Thân hư huyển mà thôi. Mỗi người còn có CÁI CHÂN TÁNH trường tồn, bất sinh, bất diệt, được nhiều Tôn Giáo gọi bằng những cái tên khác nhau, như TÂM, TÁNH, THẦN THỨC, LINH HỒN hay TIỂU LINH QUANG, và Tôn Giáo nào cũng đều cho rằng khi Cái THÂN chết đi, thì cái LINH HỒN hay Thần Thức sẽ bị phán xét, luận tội để được Thưởng hay bị Phạt, chứng tỏ họ đều biết có cái Phần Tinh Anh đi chung với Cái Thân. Khi cái Thân chết, nó vẫn còn tồn tại trong một dạng thức nào đó để Trả những gì đã gieo – Nếu làm Ác – và được Thưởng, nếu làm nhiều việc tốt đẹp!
Lúc sống, cái Thân Tứ Đại chỉ là một thứ tai sai, làm mọi việc theo chỉ đạo của Phần Vô Tướng, Phật gọi là cái VỌNG TÂM, tức là cái TÂM MÊ LẦM. Nó cũng chính là CÁI CHÂN TÂM, nhưng do VÔ MINH, tức là bị che mờ nên lầm tưởng Cái THÂN chính là Mình (TA hay NGÃ). Vì vậy, nó mới sai Lục Căn tìm kiếm, thu gom những thứ mà cái Thân ưa thích để phục vụ cho những cảm giác. Trong quá trình thu gom đó, nhiều khi bất chấp luật công bằng, vi phạm những thứ của người khác, gọi là Tạo Nghiệp. Do Tạo Nghiệp nên khi cái Thân hiện tại hết duyên, trả về cho Tứ Đại thì Cái TÂM MÊ đó phải nhận lấy một cái Thân khác để tiếp tục TRẢ những gì đã gieo. Chư Tổ ví cái VỌNG TÂM như con bò, cái Thân Nghiệp như cái Xe. Khi cái xe bị hư thì Con Bò phải nhận lấy một Cái Xe khác để tiếp tục kéo !
Do Nghiệp đã tạo thuần thục với Đường nào mà sau khi bỏ Cái Thân, Thần Thức sẽ phải rơi vào đường đó, là một trong Lục Đạo gồm : ĐỊA NGỤC, NGẠ QUỶ, SÚC SINH, NHÂN, THIÊN A TU LA. Ba Nghiệp nặng nhất là Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh. Chẳng may rơi vào đó thì việc được làm người trở lại rất khó khăn. Vì thế, Phật dạy người tu phải CẢI ÁC, HÀNH THIỆN để khỏi phải rơi vào Ba Đường Dưới này.
Cái CHÂN TÁNH hay BỔN THẾ TÂM của mỗi người bị gói gọn trong cái THÂN GIẢ TẠM. Do đó, khi vào tu, Phật dạy phải Quán Sát cái Thân. Hiểu rõ về nó để đừng vì sự ham muốn của LỤC CĂN đối với Lục Trần mà Tạo Nghiệp để phải rơi vào ác đạo, và tìm cách mài mòn cái Giả Ngã để cho cái CHÂN TÁNH lộ ra.
Quán Cái Thân sẽ thấy nó không phải là TA, và thấy cái đã điều khiển cho Lục Căn tạo Nghiệp là CÁI VỌNG TÂM thì phải TÌM TÂM. THẤY được cái TÂM rồi Tu sửa nó. CHUYỂN Mê thành NGỘ. ChuyỂn VỌNG TÂM thành CHÂN TÂM, gọi là “Phản Vọng, Quy Chân”, nên tu theo Đạo Phật gọi là TU TÂM.
Ngoài ra, Kinh còn khuyên mọi người nên tìm cách để hình thành THÂN PHẬT cho mình. Thân Phật được gọi là PHÁP THÂN, tức cái THÂN ĐƯỢC HÌNH THÀNH BẰNG NHỮNG THIỆN PHÁP, như GIỚI,ĐỊNH, HUỆ, GIẢI THOÁT, GIẢI THOÁT TRI KIẾN, TỪ, BI, HỈ, XẢ, ĐA VĂN, CÁC PHÁP BA LA MẬT, CHỈ QUÁN, TU CÁC PHÁP THIỆN v.v... Thân được hình thành bởi các Thiện Pháp như thế gọi là THÂN NHƯ LAI. Người muốn được Giải Thoát thì phải Hành những Pháp trên, không phải do Tụng Kinh, gõ mõ, Ngồi Thiền cho nhiều hay đi giảng pháp cứu độ cho mọi người mà có được Thân Phật.
Đó là cách HIỂU và HÀNH khác biệt giữa người NHỊ THỪA và người NHẤT THỪA hay PHẬT THỪA . Người NHỊ THỪA thì thấy mình là CHÚNG SINH của Phật. Việc tu hành là để Phật Độ lúc sống. Khi Chết thì được về Nước Phật. Vì thế họ đi tu là để “phụng sự cho Phật”, và làm mọi công phu là để kể công với Phật ! Trong khi đó, người tu hành theo NHẤT THỪA hay PHẬT THỪA thì tự hành trì theo những Hạnh mà Phật hướng dẫn để bản thân được THÀNH PHẬT hay GIẢI THOÁT. Tự Tu, Tự Độ, theo NHÂN QUẢ, không cầu xin, nương tựa, vì biết rằng ngay cả Phật Thích Ca cũng phải tu hành như tất cả chúng ta để thành Phật. Và Thành Phật không phải là thành Thần Linh, mà chỉ là thành tựu công việc Thoát Khổ, Thoát Phiền Não cho bản thân, nên Phật dù đã Thành rồi cũng không thể cứu độ hay ban ân, giáng phúc cho ai. Do đó, chỉ những người hiểu chưa đúng về Phật mới cầu xin, nương tựa Phật !
III.- PHẨM ĐỆ TỬ
Khi Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất đển thăm bệnh Cư Sĩ DUY MA CẬT thì Ngài từ chối và kể lại lý do không dám đến thăm, vì nhớ lại lúc xưa, khi Ngài Ngồi THIỀN ĐỊNH ở dưới gốc cây thì Ngài DUY MA CẬT đã nói :
Thưa Ngài Xá Lợi Phất. Bất tất “Ngồi sững ở đó” mới là Ngồi yên lặng (Ngồi Thiền).” Ngồi Thiền là Ở trong ba cõi mà không hiện Thân, ý. Không khởi Diệt Tận Định mà hiện các oai nghi.Không rời Đạo Pháp mà hiện các việc phàm phu. Tâm không trụ ở trong cũng không trụ ở ngoài. Đối với các kiến chấp không động mà tu 37 Phẩm trợ đạo, mới là Thiền Định. Nếu Ngồi được như thế mới là chỗ Phật ấn khả vậy”, làm ông không biết trả lời sao !
Phẩm này giải thích về THIỀN ĐỊNH.
Khi chưa hiểu thế nào là THIỀN ĐỊNH hay NGỒI THIỀN, nhiều người cũng giống như Ngài Xá Lợi Phất : “Ngồi sửng ở đó”. Tức là khoanh chân, tay chắp lại để trước bụng, mắt khép hờ, nhìn xuống đầu mũi, đếm hơi thở, NGỒI BẤT ĐỘNG, DIỆT HẾT NIỆM TƯỞNG thì cho như vậy là đang NGỒI THIỀN hay THIỀN ĐỊNH !
Trong khi đó, Kinh VIÊN GIÁC giải thích : Thiền Định là CHỈ QUÁN và CHỈ, QUÁN SONG TU, hay VIPASSANA, tức là THIỀN MINH SÁT, không phải ngồi một cục, diệt hết tư tưởng.
Mục đích của việc NGỒI THIỀN là dừng mọi hoạt động của Lục Căn. CHÂN, TAY KHOANH LẠI để không chạy theo, nắm bắt trần cảnh. MẮT KHÉP HỜ để không nhìn Sắc Trần. Thời gian đó, người NGỒI THIỀN sẽ tập trung CẢ THÂN LẨN TÂM để Quán sát, Tư Duy đề tài nào đó của Đạo – Như thế mới là THIỀN MINH SÁT – Quán Sát Các Pháp để sinh sự hiểu biết sáng suốt, đầy đủ về PHÁP, gọi là TRÍ HUỆ.
Quán cái gì thì Thấy cái đó. Mục đích tu hành là để THOÁT KHỔ. Mà KHỔ là do Ba Nơi : THÂN, TÂM và PHÁP. Vì vậy, người tu cần Quán sát THÂN, xem do đâu mà Khởi ? Tồn tại bao lâu ? Sẽ đi về đâu ? Quán sát CÁI TÂM, xem nó là cái gì ? Ở đâu ? Hoạt động, Khởi, Diệt như thế nào ? Hay sinh khởi những Pháp nào ? Chỉnh sửa nó như thế nào ? Quán Các Pháp khác để hỗ trợ như Tứ Diệu Đế, Thập Nhị nhân Duyên, Bát Chánh Đạo để từng bước chuyển hóa cả Thân Lẩn Tâm, không cho nghĩ Ác, Hành Ác để được thanh tịnh. Có hai hình thức THIỀN là THIỀN HỮU TƯỚNG và THIỀN VÔ TƯỚNG.
THIỀN HỮU TƯỚNG là hành giả phải NGỒI, khoanh tay, khoanh chân, mắt khép hờ, nhìn xuống đầu mũi. Thân bất động. Tức là CÓ TƯỚNG NGỒI THIỀN. THIỀN VÔ TƯỚNG thì hành giả không cần NGỒI MỘT CHỖ, vẫn tới, lui, hoạt động bình thường, CHỈ CẦN ĐỊNH CÁI TÂM, không cần Trói Cái Tướng.
Khi đã hiểu mục đích của THIỀN ĐỊNH thì hành giả không cần phải NGỒI THIỀN HỮU TƯỚNG, tức là không bắt buộc phải khoanh tay khoanh chân, ngồi bất động một chỗ. Mà hành giả có thể tìm một không gian riêng tư để dễ tập trung, không bị quấy rầy, để Tư duy. Tốt nhất là nên có giấy viết để ghi ra những gì mình tìm ra trong lúc chiêm nghiệm để kiểm tra lại khi Xả ra, xem mình đã Thấy những gì trong lúc Quán Sát, Tư Duy ? Thấy như thế nào ? Đầy đủ hay chưa ?
Lục Tổ dạy : “Tất cả các Pháp phải hiểu đến tận chỗ Chân” . Càng soi xét hết mọi khía cạnh của một Pháp thì càng thấy rõ hơn. Sau đó đối chiếu với lời giải thích của Chư Tổ trong Chính Kinh, nếu thấy “Khế hợp” thì thực hành. Thứ nào cần phải Xả thì Xả. Điều nào cần phải Hành thì Hành, vì Chư Tổ là người đã Chứng Đắc, lời của các Ngài là La Bàn, là cột mốc, để chúng ta nương theo đó mà đi không sợ lạc lối. Rừng phật Pháp thì bao la, nếu không có người đi trước đánh dấu, chỉ hướng đúng thì chúng ta sẽ biết đâu là nơi cần đến, trong khi tà sư thì dẫy đầy ?
Cuối cùng là NHƯ LAI THIỀN, tức là người đã có được SỨC ĐỊNH, giữ được Cái TÂM không xao động, dù tới, lui, làm ăn, sinh hoạt, tiếp xúc với vạn pháp thuận cũng như nghịch mà không vọng động thì gọi đó là NHƯ LAI THIỀN.
IV.- PHẨM MỤC KIỀN LIÊN
Đến lượt Ngài Mục Kiền Liên. Khi Phật bảo ông đến thăm bệnh Ngài DUY MA CẬT thì ông cũng không dám.
Lý do là vì có lần Ông vào trong thành Tỳ Da Ly, ở trong xóm Nói Pháp cho hàng Cư Sĩ nghe. Lúc đó Ông Duy Ma Cật bảo ông :
“Nói pháp cho bạch y cư sĩ không phải như Ngài nói đó. Nói Pháp phải đúng như Pháp (Xứng Tánh) mà nói.
Muốn NÓI PHÁP, trước hết phải hiểu thế nào là PHÁP. Đạo Phật đưa PHÁP ra mục đích để làm gì ? Không phải chỉ học thuộc lòng rồi cứ thế mà đưa ra giảng cho nguời khác. Cái gì có Khởi, có Diệt thì đều gọi là pháp. Chính bản thân của mỗi người cũng là một Pháp. Trong Các Pháp có Pháp Thiện, Ác, có Pháp tạo Nhân Thiện, có pháp sinh quả Ác. Do đó, người tu trước khi Hành Pháp nào cũng nên quán sát để hành cho có hết quả như mong muốn. Khi muốn Thuyết Pháp thì nên như lời Ngài Duy Ma Cật :
“Vả chăng người NÓI PHÁP, không nói, không dạy. Còn người nghe Pháp, cũng không nghe, không được. Ví như nhà huyển thuật nói Pháp cho người huyển hóa nghe. Phải dụng tâm như thế mà nói pháp. Phải biết căn cơ của chúng sanh có lợi độn. Khéo nơi tri kiến không bị ngăn ngại, lấy Tâm Đại Bi khen ngợi pháp Đại Thừa, nghĩ nhớ đền trả ơn Phật, chớ để ngôi Tam Bảo dứt mất. Như vậy mới nên Nói Pháp”.
Phần trước là cách Quán Soi Các Pháp, diễn tả tính cách của Pháp. Phần sau là để nhắc nhở người NÓI PHÁP.
Thường thì ta thấy nhiều người mới tu một giai đoạn học được một số điều trong Đạo Phật thấy hay quá nên nhiệt tình gặp ai, ở bất cứ đâu, cũng hay Nói Pháp !. Đa phần là để khoe sự hiểu biết của mình ! Trong khi đó, Chư Cổ Đức dạy “Pháp bất khả thuyết”, tức là pháp không phải để thuyết cho người khác nghe, mà để mình tự chiêm nghiệm, thấy cần phải Hành như thế nào thì tự Hành cho có lợi trong việc tiến tu. Người ta không cần, không yêu cầu mà mình cứ Nói Pháp thì đó là tự mình làm mất giá trị của Phật Pháp. Hơn nữa, người muốn Nói Pháp ngoài việc phải biết căn cơ của người nghe còn phải “Tùy thời, tùy lúc” mà nói. Phải biết đo lường trình độ của người nghe để “Không đem nước biển đổ vào lỗ chân trâu mà cũng không đem ngọc thả cho heo dày”, tức là người ta chưa hiểu tới đâu mà mình đem Pháp lớn trút vô cho họ thì khác nào “mang nước biển đổ vô lỗ chân trâu”. Họ không thích nghe, mà cứ ép họ phải nghe mình thuyết thì không khác nào mang ngọc thả cho heo dày !
Nơi đây, Kinh dạy Người Nói Pháp phải nói Pháp với tinh thần “Không nói, không dạy” tức là KHÔNG CÓ TA NÓI PHÁP, NGƯỜI NGHE NHỜ TA MÀ ĐẮC QUẢ NỌ QUẢ KIA. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA dạy người muốn Nói Pháp “Phải Vào Nhà Như Lai, Mặc Y Như Lai, Ngồi tòa Như Lai” rồi mới nói. Tức là phải nói với cái Tâm thanh tịnh, không vì Ngã chấp, không vì khinh người hay nịnh bợ họ, mà với cái Tâm Từ Bi, muốn làm ích lợi cho người nghe mà nói. Nói vì đền trả ân Phật, vì muốn phá kiến chấp của họ, không vì phô trương kiến thức. Nói được như vậy thì mới nên nói.
Mục đích tu PHẬT là để Thoát Khổ, Thoát Sinh Tử. Do đó, người học PHẬT PHÁP là để hiểu về PHÁP và Cách thức để THOÁT PHÁP. Vậy thì không phải học bài chung chung, mà học để biết PHÁP nào đã ràng buộc ta và cách thức để tháo gỡ rồi thực hành. Do đó, nếu người không biết là “Ràng buộc hay Giải Thoát cũng chỉ ở nơi Tâm” để QUAY VÔ tìm trong chính THÂN và TÂM của mình, mà quay ra nhìn trời đất hoa lá cỏ cây đễ Quán Sát thì không thể nào đi đến Giải Thoát được !
Khi bản thân người tu học đã hoàn tất cho mình, rồi vì lòng đại bi, muốn khai mở cho người nghe, thì nói cho họ, và chỉ nói khi họ cần nghe, muốn nghe và tùy sức họ tới đâu mà nói đủ cho họ tiếp nhận. Do đó, ta thấy không đơn giản là cứ thuộc được chút nào thì đ tới đâu, gặp ai cũng Nói Pháp làm mất giá trị của Pháp Phật ! Những kẻ bạ đâu nói đó chứng tỏ chưa học bài học về Nói Pháp của Chư Vị Giác Ngộ, làm cho người khác coi thường pháp của Phật vậy.
PHẨM ĐẠI CA DIẾP
Phần này nói về HẠNH KHẤT THỰC.
Thời Đức Phật mới tập trung Chư Đại Đệ Tử để giảng dạy thì ngài buộc họ không được có gia đình, bỏ hết mọi nghề nghiệp, làm ăn để chuyên tâm nghe Phật giảng. Do các Đại Đệ Tử của Phật là lực lượng đầu tiên và nồng cốt, cần tập trung mà Nghe để tương lai giảng lại nên mọi việc ăn uống Phật nhờ những Thí Chủ lo cho, tới giờ ăn họ chỉ cần mang bình bát đến từng nhà của Thí Chủ để nhận phần cơm.
Nhưng thời đó Phật và chư Đệ Tử chỉ đi chân không, ở trong rừng hay dưới các cội cây, mặc chỉ 1 bộ y bằng vải thô, rẻ tiền nhất. Đi Khất Thực ngoài mục đích dành thì giờ để tu học còn là hạn chế sự thèm ăn, thích ăn ngon của cái Khẩu. Vì được cho gì thì ăn nấy, không đòi hỏi chay, mặn, và chỉ ăn Ngọ, tức là một bữa, giữa trưa thôi. Không có để dành lương thực, thậm chí muối cũng không được để qua đêm nên thí chủ cũng không phải tốn kém bao nhiêu khi cung dưỡng cho các Vị.
Ngài Ca Diếp đi Khất Thực mà bỏ xóm nhà giàu để đi đến xóm nhà nghèo hẳn là có dụng tâm phân biệt, cho là “mình là bậc tu hành, người thí cho mình sẽ được phước”, nên đến xóm nghèo, mục đích là để tạo phước cho họ ! Chính vì vậy mà ngài Duy Ma Cật nhắc : “Đó là lòng từ bi mà không phổ cập ! Và đã đi Khất Thực thì nên theo thứ tự, không nên phân biệt”. Trong lúc đi cũng phải giữ lấy cái tâm cho thanh tịnh, không bị ngoại cảnh ảnh hưởng. Lúc ăn cũng phải soi, quán, vì đi Khất Thực không chỉ để xin cơm, và “Ăn” không chỉ để ăn, mà ngay cả khi đi xin ăn hay dùng các món ăn nếu có chú tâm quán sát thì sẽ được lợi lạc. Người tu hành có nghiêm chỉnh thì người cúng dường cho mình mới được phước.
KHẤT THỰC còn có một nghĩa khác mà người tu Phật rất cần : Đó là KHẤT PHÁP THỰC. Tức là người tu cần học hỏi nơi Kinh điển hoặc những Thiện Tri Thức, gọi đó là Khất PHÁP THỰC. Pháp Thực mới cần hơn là Vật Thực. Vật thực chi nuôi cái thân phàm, trong khi PHÁP THỰC nuôi dưỡng Huệ mạng để đưa đến kết quả sau cùng là Giải Thoát. Nếu chỉ thuần Khất Vật Thực đểnuôi thân phàm cho khỏi đói thì khác gì những người ăn xin để sống ?
TU BỒ ĐỀ
Phẩm này bàn tiếp về KHẤT THỰC.
Cơm là thực phẩm để nuôi cái Thân phàm cho nó được tồn tại. Vì thế không nên phân biệt ngon, dở, để khi nhận được món ngon thì thấy thí chủ tốt, cầu phước nhiều cho thí chủ. Nhận được thức ăn dở thì thấy mình không được tôn trọng ! Không Trừ Dâm, Nộ, Si nhưng cũng không chung cùng với nó. Có nghĩa là ngày nào còn sống là nó còn bám theo mình. Chỉ có chết thì nó mới kết thúc theo cái Thân. Nhưng người tu không diệt Dâm, Nộ, Si bằng cách diệt hết ý thức, không dám suy nghĩ, mà cứ mỗi lần có Tham, Sân, Si Khởi lên, ta lại giáo hóa nó, đưa nó trở về với thanh tịnh là ta đã “Cứu Độ được một Chúng Sinh”. Do đó mà một đời tu hành Bồ Tát “Cứu độ vô lượng vô số chúng sinh”.
Kinh gọi là “DIỆT ĐỘ Vô lượng vô số chúng sinh mà thật ra không có DIỆT”, là vì chỉ chuyển hóa nó từ Chúng Sinh, tức là tình trang xao động, sang Phật, tức là tình trạng thanh tịnh, an ổn mà thôi.
Không dứt Si Ái sinh ra Giải Thoát cũng thế. Đã biết được bản chất của các Pháp, thì khi Si, Ái nổi lên, ta điều phục nó, giải thích để nó biết cái Quả của những việc chạy theo Pháp mà không dính mắc với nó nữa.
Không Thấy Tứ Đế cũng không phải không thấy Tứ Đế, tức là ta học Pháp TỨ DIỆU ĐẾ, nhưng là để thực hành, không phải để khoe khoang sự hiểu biết, tự cho là mình đã thuộc Phật Pháp !
Không phải Đắc Quả cũng không phải không Đắc Quả có nghĩa là người tu vẫn phải Đắc Quả, nhưng không kiêu mạn, không thấy ta đã Chứng Đắc là cao hơn người khác. Do dó, Không phải Đắc và Khống Đắc giống như nhau, nên không cần học hỏi, hành trì. Trái lại, người tu phải đi qua từng giai đoạn, phải Chứng Đắc. Nhưng “Đắc” mà không thấy “Mình Đắc”. Người còn thấy “Mình Đắc” thì Kinh dạy đó là người Tăng Thượng Mạn.
Người tu cũng phải vượt qua phàm phu, tức là không còn suy nghĩ, hành động bất chấp Nhân Quả như phàm phu trước kia. Nhưng nếu thấy mình là Thánh Nhơn thì chứng tỏ dù bỏ được cái Ngã phàm phu, nhưng chưa thoát được cái Ngã Tu Hành ! Đó cũng là CÁI CHẤP mới mà người tu cũng phải xả bỏ thì mới hoàn toàn Giải Thoát.
Khi thuyết pháp cho người khác cũng thế. Nếu thấy CÒN TA ĐỂ THUYẾT PHÁP, Còn người nghe là những bậc cao quý, có học vị, chức tước... trong đời để thấy mình cao siêu thì cũng không nên thuyết pháp. Tất cả các việc cũng thế. Phải giải thoát trong từng pháp cho đến không còn vướng mắc vào đâu, thì mới hoàn tất công việc tu hành.
PHÚ LÂU NA
Phật bảo Phú Lâu Na đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật thì ông lại từ chối, vì có lần ông nói Pháp cho các Tỳ Kheo mới học, thì Ngài Duy Ma Cật bảo ông “nên nhập định trước để quán sát tâm địa của những người này rồi sau mới nên nói Pháp. Phải biết rõ tâm niệm của các Tỳ Kheo, Không biết căn nguyên của chúng sanh thì đừng nên dùng pháp TIỂU THỪA mà phát khởi cho họ. Những Tỳ Kheo này đã Phát Tâm ĐẠI THỪA, nửa chừng quên lãng, sao lại đem TIỂU THỪA mà dẫn dắt họ” ? Rồi Ông Duy Ma Cật làm cho những vị Tỳ Kheo nhớ lại kiếp trước của mình từng ở nơi 500 Đức Phật vun trồng các cội đức hướng về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên họ rỗng suốt trở lại đặng Bổn Tâm. Nhân đó ông nói pháp làm cho tất cả đều không thối lui nơi Đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Phẩm này tiếp tục dạy về CÁCH NÓI PHÁP.
Ngoài việc bản thân đã nắm vững Các pháp, người tu còn phải quán sát tâm địa người mà mình muốn thuyết pháp. Nếu họ không muốn nghe thì cũng đừng ráng cố gắng thuyết cho họ. Trường hợp thuyết Pháp thì chỉ nên thuyết ĐẠI THỪA, bởi vì Đại Thừa do chính những Vị Tổ được Phật Truyền Y Bát tức là giao cho trách nhiệm giữ gìn và phổ biến Giáo Pháp của Phật. Hơn nữa, người TIỂU THỪA chưa hiểu hết Giáo Pháp của Đạo Phật. Họ bị dừng ở cái KHÔNG, thấy các Pháp là KHÔNG, cho rằng Các Pháp đều là KHÔNG, là mâu thuẫn với thực tế, vì thực tại là CÁC PHÁP ĐANG CÓ, đâu có phải là HOÀN TOÀN KHÔNG ? Vì nếu CÁC PHÁP LÀ KHÔNG sao họ đang CÓ đây ? Hàng ngày vẫn phải mặc áo, ăn cơm. Đến giờ thì phải tụng Kinh, Niệm Phật, Ngồi Thiền, học Pháp, thì KHÔNG chỗ nào ? Các Pháp là KHÔNG sao lại vận động bá tánh cất Chùa cho to, dựng tượng Phật cho lớn ? Các Pháp là KHÔNG sao lại có Tây Phương Cực Lạc để mong về, có bá tánh để cho họ giảng dạy, thuyết pháp, Có Phật để ngày ngày họ thắp hương, phụng sự ?
Do vậy Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN dạy rằng những người cho rằng CÁC PHÁP LÀ KHÔNG là làm hư chân tạng của Phật Pháp. Chư Tổ dạy Các Pháp KHÔNG PHẢI CÓ, KHÔNG PHẢI KHÔNG, MÀ CŨNG CÓ, CŨNG KHÔNG. Tức là lúc nó xuất hiện với đầy đủ hình tướng, thì nó là CÓ, nhưng chỉ là TẠM CÓ, vì sau khi nó diệt thì nó sẽ về KHÔNG. Do đó, nói nó là CÓ HẲN hay KHÔNG HẲN thì đều không đúng.
Tu Phật không phải là để bàn cãi về PHÁP về CÓ, KHÔNG, mà là học cách để làm sao SỐNG VỚI PHÁP MÀ KHÔNG CÒN BỊ NÓ LÀM KHỔ. Bởi trong Các Pháp thì có Pháp Thuận và Pháp Nghịch. Nếu pháp Thuận làm cho ta hài lòng hay vui thích, thì Pháp Nghịch sẽ làm cho ta đau khổ. Để không còn bị Các Pháp làm Khổ nữa, thì người tu Phật học cách để ĐIỀU TÂM, làm cho cái Tâm miễn nhiễm với Pháp, chớ không phải ĐIỀU PHÁP, là tránh né các Pháp hay không nghĩ đến nó nữa, hoặc muốn tất cả các Pháp phải giống như ý mình mong cầu. Đó là lý do Đạo Phật dùng HOA SEN làm biểu tượng, vì nó sinh ra, lớn lên, tàn rụi trong bùn, nhưng không bị Bùn làm cho ô nhiễm. Người tu phải được như Hoa Sen, vẫn sống giữa các pháp, giữa phiền não mà không bị các pháp làm cho điên đảo, đau khổ, gọi là được Thoát Khổ hay Giải Thoát.
Các Pháp Phàm tuy Huyển, nhưng cái Huyển làm cho con người phải Khổ, thì Phật Pháp cũng Huyển, nhưng chữa được bệnh Khổ. Khi bệnh hết thì thuốc cũng trừ. Người còn thấy mình là Pháp Sư, mình cao, mình giảng pháp tế độ cho mọi người để cao thấp, hơn thua với người khác, thì người đó vẫn tiếp tục vướng Pháp, chưa Thoát Pháp vậy.
MA HA CA CHIÊN DIÊN
KHỔ, KHÔNG, VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ là những Pháp mà người tu Phật nào cũng được dạy phải Quán để bớt đi sự ham muốn, tham đắm với trần cảnh. Nhiều người nghe Đạo Phật dạy rằng “đời là Bể Khổ” thì nghĩ rằng Xuất Gia, vô Chùa tu, có nghĩa là bỏ đời, thì sẽ hết Khổ. Cũng như nghe nói các Pháp là KHÔNG thì bỏ hết, không làm gì nữa, không muốn tu, không cần Chứng Đắc, vì thấy tất cả đều là Không thì tu làm gì ? Cuộc đời là VÔ THƯỜNG, thấy đó rồi mất đó thì tội gì tu học cho cực, cuối cùng rồi cũng về Không thôi. Đã KHÔNG thì làm gì có Niết Bàn, có Phật, có Quả Vị, Chứng Đắc ? Cái NGÃ này vốn Không thật, vì nó là VÔ NGÃ thì có ráng sức học hỏi thì nó cũng có ích lợi gì đâu ? Mai kia rồi cũng hư hoại thôi.
Thật sự ra cuộc đời là KHỔ thì ai cũng có thể quán sát để thấy điều đó. Đồng thời cũng thấy rằng tất cả mọi người, ngày nào còn thân mạng là vẫn phải sống trong cái Khổ đó, không thể trốn đi đâu được. Những người nông cạn đã tưởng rằng vô Chùa tu, ở đó không phải làm gì, mọi việc từ ăn, mặc ở, chi phí đều giao cho thí chủ là không còn phải bon chen với cuộc sống để kiếm cơm nữa, thì thấy mình đã thoát Khổ, trở lại chê người đời là tiếp tục ngụp lặn trong bể Khổ ! Họ quên rằng Đạo Phật dạy Nhân Quả. Ta tu là chỉ để cho bản thân ta nhờ. Vì thế, Thọ dụng của ai một chén cơm, một bát nước cũng là món nợ không trả kiếp này cũng kiếp khác mà Kinh VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN và QUY SƠN CẢNH SÁCH đã cảnh báo. Không phải cho rằng mình tu hành theo Phật rồi thì sẽ không còn bị lãnh Nghiệp nữa !
Chính vì cuộc đời là KHỔ mà có Đạo Phật xuất hiện để chỉ cho con người cách thức để Thoát Khổ. Khi biết nguyên nhân thì có cách để trừ. Biết gút ở đâu thì mở ở đó. Chùa cũng chỉ là một cái nhà cất theo kiểu đặc biệt, thì vô Chùa chắc gì đã hết Khổ, bởi vì nơi cái KHỔ đeo bám là CÁI THÂN, CÁI TÂM của mỗi người. Cái Khổ đâu có bám trong cái nhà hay xã hội mà nghĩ rằng chỉ cần thay đổi chổ ở, đổi môi trường sống là sẽ hết KHỔ ? Do vậy, Đạo Phật đưa ra TỨ DIỆU ĐẾ để con người quan sát những nỗi Khổ của kiếp sống. Biết rằng do thói quen làm cho những nỗi Khổ đó cứ tiếp tục (Tâp ĐẾ) để nhờ DIỆT ĐẾ và ĐẠO ĐẾ chấm dứt những nỗi KHỔ.
Tất cả đều theo NHÂN QUẢ. Do đó người tu phải HỌC, phải HÀNH, không phải chỉ là học lý thuyết suông rồi cả ngày tụng kinh, niệm Phật, cho đó là mình đang tu. Học VÔ THƯỜNG không phải để khóc gió, than mây, buồn vì cảnh vậy đổi thay, mà để thấy các Pháp không trường tồn, cuộc sống không kéo dài mãi để khi tu học hay làm bất cứ việc gì phải làm một cách tốt nhất.
Người ý thức Vô Thường thì khi sống cạnh cha mẹ, người thân, vợ chồng con cái, bạn bè, sẽ cư xử hết tình, vì mai kia có thể không còn gặp nhau, không còn có điều kiện để thực hiện những điều mình mong mỏi nữa. Khi tu hành thì Phật dạy là “Phải tu như lửa đang đốt tóc, cháy áo” để Hành trì một cách tinh tấn.
Học các Pháp là KHÔNG để đừng nuối tiếc, níu giữ khi không thể, và học VÔ NGÃ để biết rằng Cái THÂN này không phải là TA, nên phải đi tìm cái TA THẬT (HỮU NGÃ) Đó là cái BỔN THỂ TÂM hay CHÂN TÁNH mà người nào tìm được thì mới thấy rằng trong cái GIẢ này có CÁI CHÂN, như viên ngọc vẫn nằm trong sỏi đá mà người quyết tâm tìm thì mới gặp được mà Kinh hay ví như viên châu nằm trong túi gã say không hay. Khi tìm được Cái Chân Tánh rồi thì người tu sẽ có cái Cái CHÁNHPHÁP NHÃN sẽ thấy cuộc trần với tất cả những đổi thay vốn vậy, không có gì phải lo âu, buồn khổ, được cuộc sống an vui gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Đó chính là lý do người tu cần học để Hiểu và Hành Các Pháp vậy.
A NA LUẬT
Phẩm này nói về THIÊN NHÃN.
Ông A Na Luật là người được xem là có Thiên Nhãn rất cao, nhìn thấu suốt cảnh Phật.
Người Ngồi Thiền một thời gian, khi định được cái Tâm thì có những hiện tượng lạ diễn ra trong lúc Thiền Định. Họ mở được Thần Thông, Thiên Nhãn, thấy được các cảnh giới. Tiếp xúc được với cõi Thần Tiên. Được gặp Bồ Tát, Phật giảng đạo. Đọc được suy nghĩ của người khác. Biết trước một số việc sắp xảy ra.. Người không hiểu thì thấy rằng đó là Chứng Đắc nên say sưa Ngồi Thiền. Không dè tất cả những thứ đó đều là Ma Cảnh, theo những hướng dẫn trong đó lần hồi sẽ trở thành bất thường.
Chính vì vậy Ngài Duy Ma Cật đã hỏi Ông A Na Luật :”Thiên nhãn Ngài thấy đó là làm ra tướng mà thấy hay không làm ra tướng mà thấy ? Bởi vì nếu không làm ra tướng thì đâu thể thấy, mà nếu làm ra tướng thì khác gì Ngũ thông của ngoại đạo” ?
Cái THẤY của người tu Phật là TRÍ HUỆ, tức là kết quả của Quán, Soi, và Thấy cách làm để được THOÁT KHỔ, không phải là thấy trước thấy sau của người có Thần Thông nhờ Ngồi Thiền. CẢNH PHẬT không phải là một cảnh trong đó có hình ảnh của Phật giảng pháp với Chư Bồ Tát ngồi quanh, mà là một sự thanh tịnh trong cái Tâm không còn bị các Pháp làm cho phiền não. PHẬT là nghĩa của Giải Thoát, không phải là Ông Phật với 32 Tướng Tốt, 80 vẻ đẹp. Cho nên chúng ta đừng nhầm lẫn TRÍ HUỆ với Thần Thông, Thiên Nhãn.
Kinh LĂNG NGHIÊM dạy : Con người sở dĩ KHỔ là vì TÂM và MẮT. Mắt nhìn, TÂM sinh. Do đó, mà phải Khổ. Vì vậy, vào tu Phật, người tu hành cần phải học, phải tu để có HUỆ NHÃN, tức là con mắt nhìn thấu, hiểu rõ Các Pháp, và PHẬT NHÃN tức là CON MẮT NHÌN CÁC PHÁP MÀ KHÔNG BỊ nó ẢNH HƯỞNG, LÀM CHO ĐỘNG TÂM, gọi là NHƯ THỊ. “Nhìn mà như không nhìn”, “Thấy mà như không thấy”. Không vì cái Thấy làm cho khởi tâm. Gọi là NHƯ THỊ. Thấy CÁC PHÁP ĐỀU NHƯ, nhờ đó màThoát Pháp vậy.
ƯU BA LY
Thời Phật tại thế, Ngài ƯU BA LY được mệnh danh là “Đệ Nhất Trì Giới”.
Phật bảo ông Ưu Ba Ly đến thăm bệnh Ông Duy Ma Cật thì ông cũng từ chối vì nhớ lại ngày trước có hai vị Tỳ Kheo phạm Luật Hạnh, lấy làm hổ thẹn đến hỏi ông, mong ông giải rõ chỗ nghi hối để được khỏi tội, thì ông y pháp giải nói cho họ.
Nhưng Ông duy Ma Cật đến nói : Thưa Ngài Ưu Ba Ly. Ngài chớ nên kết thêm tội cho hai vị Tỳ Kheo này. Phải trừ dứt ngay, chớ làm rối loạn lòng họ. Vì Tánh Tội vốn KHÔNG. Không ở ngoài, không ở trong, không ở giữa. Phật dạy : “Tâm nhơ nên chúng sanh nhơ. Tâm sạch nên chúng sanh sạch. Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Tâm kia như thế nào thì tội cấu cũng như thế. Các Pháp cũng như thế, không ra ngoài chơn như.
Về NHƠ, SẠCH thì Vọng tưởng là nhơ, không vọng tưởng là sạch. Điên đảo là nhơ, không điên đảo là sạch. Chấp Ngã là nhơ, không Chấp Ngã là sạch. Tất cả các pháp sanh diệt không ngừng, như huyển, như chớp, Các pháp không chờ nhau cho đến một niệm không dừng. Các Pháp đều là vọng kiến, như chiêm bao, như nắng dợn, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, do vọng tưởng sanh ra. Người nào biết nghĩa này là giữ Luật. Người nào rõ nghĩa này là khéo hiểu.
Phẩm này bàn về GIỚI LUẬT.
GIỚI trong Đạo Phật quan trọng đến nỗi Kinh viết : “Nếu có 100 hay 1.000 vị A La Hán thì vị đầu tiên cho đến vị cuối cùng đều nhân Giới mà thành”.
Nhưng bắt Tu Sĩ phải giữ quá nhiều GIỚI, Nam thì 250 Giới, Nữ thì 350 Giới làm cho họ bị ràng buộc bởi Giới, quay đâu cũng đụng Giới thì rõ ràng cuộc sống trở thành nô lệ cho Giới thì còn có ý nghĩa gì ? Chẳng lẽ cả đời sống chỉ để khư khư Giữ Giới ? Điều quan trọng là liệu giữ hàng mấy trăm Giới đó mà hành giả có thành Phật được hay không ? Nếu thành Phật được thì từ gần 3.000 năm qua, biết bao nhiêu lớp Tu Sĩ, từ khi Xuất Gia đã giữ Giới miên mật đến chết, mà được bao nhiêu vị thành Phật ?
Trong Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới thì Giới thứ 48 PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP dạy : “Nếu Phật Tử, do lòng tốt mà xuất gia, lại vì danh tiếng cùng tài lợi, giảng thuyết Giới của Phật, cho Quốc Vương và các quan, làm những sự gông trói các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni , người thọ Giới Bồ Tát như cách của ngục tù, binh nô. Như trùng trong thân Sư Tử ăn thịt sư tử, chớ chẳng phải trùng ở ngoài đến ăn. Các Phật Tử tự hủy phá Phật Pháp, không phải ngoại đạo hay Thiên ma phá được”. Tức là Kinh nói về những người lợi dụng chức vụ làm Thầy của mình để bắt những người tu học phải giữ Giới để trói buộc họ, như môt thứ gông, một thứ xiêng xích, làm cho họ sợ mà không dám phát tâm tu hành ! Như vậy là Phá diệt Phật Pháp, là thứ trùng trong thân Sư Tử làm hại sư tử !.
Thật ra GIỚI chỉ là bờ ngăn giữa Thiện và Ác, cho người chưa ý thức được bảo vệ để không bị vi phạm công bình, đạo đức, không vi phạm Luật Nhân Quả. Giới của Đạo Phật phải ở mức độ vừa đủ, không quá đáng để trở thành trói buộc người tu để họ lúc nào cũng nơm nớp sợ Phạm Giới. Theo tôi, chỉ cần NGŨ GIỚI và BÁT CHÁNH ĐẠO là đủ, bởi vì người tu nào chịu kiểm tra từng ý nghĩ (CHÁNH NIỆM), lúc nào cũng Tư Duy để có Cái Thấy Chân Chánh. Nuôi Thân bằng Nghề Nghiệp Chân Chánh, Từ lời nói đến việc làm đều Chân Chánh, Thân, Khẩu, Ý đều tịnh Ba Nghiệp thì còn làm sao mà phạm Giới được ?
Chính vì vậy, trong Kinh VỊ TẰNG HƯU THUYẾT NHÂN DUYÊN, Phật dạy : “Nói tóm lại là ta bắt giữ Cấm Giới là chính vì người ngu si không có Huệ Phương tiện, chớ chẳng phải là hạng người Trí Huệ biết rõ thời nghi vậy”. Có nghĩa là nếu người đã ý thức : tốt, xấu, thiện, ác, Nhân Quả thì không cần thiết phải Thọ Giới, vì họ đương nhiên đã Có Giới. Lục Tổ cũng dạy :”Lòng bình đẳng đâu cần giữ Giới”.
Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới cũng chỉ có 10 Giới trọng và 48 Giới khinh, và trong Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên, Hoàng hậu đang giữ Giới, vì cứu trù giám khỏi bị vua giết mà trang điểm xinh đẹp, rồi cùng mang rượu thịt đến uống với Vua để cho vua nguôi giận, rồi lén truyền lệnh vua tha chết cho trù giám, được giải thích là “Phá Giới mà được phước”, vì ngăn được vua khỏi giết oan trù giám. Giả sử Hoàng hậu cứ máy móc, sợ Phạm Giới, rồi để mặc cho vua đang trong cơn giận, mất kiểm soát, ra lệnh giết trù giám đi thì sao ? Do đó, giữ Giới cũng đòi hỏi phải sáng suốt, vì thà phạm Giới mà có lợi ích còn hơn là khư khư Giữ Giới rồi trở thành nô lệ cho Giới mà việc tu hành chẳng đi đến đâu.
Khi lỡ Phạm Giới thì không cần Sám Hối với Phật, bởi vì người vi phạm phải chịu Nhân Quả của việc mình làm. Mình làm tội thì bản thân mình phải gánh lấy hậu quả. Phật không thể chịu tội thay, mà cũng không thể tha thứ cho ta được. Do đó, người lỡ vi phạm phải tự ăn năn sám hối và không vi phạm nữa. Như vậy, với người đã lỡ phạm Giới mà biết Sám Hối thì tánh tội đã hết, nhưng Nhân Quả thì vẫn phải chịu. Làm tội thì chấp nhận hậu quả thì đó cũng là việc đương nhiên, không cần xin giảm hay miễn vì ngay cả Phậtcũng không có quyền thay Nhân Quả để làm tha tội hay giảm án cho người Phạm Giới vậy.
LA HẦU LA
Ông La Hầu La cũng không dám đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật vì nhớ lúc các Trưởng Giả Tử ở ThànhTỳ Da Ly đến hỏi về lợi ích của việc Xuất Gia. Ông đã đúng theo pháp mà nói lợi ích của công đức Xuất Gia. Lúc đó Ông Duy Ma Cật đến nói rằng :
“Thưa Ngài La Hầu La, Ngài không nên nói cái lợi của công đức Xuất Gia. Vì sao ? Không lợi, không công đức mới thật là Xuất Gia. Về pháp Hữu Vi có thể nói là có lợi, có công đức, còn Xuất Gia là pháp Vô Vi. Trong pháp Vô Vi không lợi, không công đức. Rồi ông Duy Ma Cật giảng về Xuất Gia : Không đây, không kia, cũng không ở chính giữa. Lý 62 món kiến chấp, ở nơi Niết Bàn, là chỗ nhận của người trí, chỗ làm của bậc Thánh. Hàng phục các ma. Khỏi Ngũ Đạo, sạch Ngũ nhãn, đặng Ngũ lực, lập Ngũ căn, không làm não người khác, rời các tạp ác, dẹp các ngoại đạo, vượt khỏi giả danh, ra khỏi bùn lầy, không bị ràng buộc, không ngã sở, không chỗ thọ, không rối loạn trong lòng, ưa hỗ trợ ý người khác, tùy Thiền Định, rời các lỗi. Nếu được như thế mới thật là Xuất Gia”.
Chỉ cần “ Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề, đó chính là xuất Gia, đó chính là đầy đủ giới pháp”.
Từ xưa đến nay mọi người đều nghĩ rằng bỏ nhà, đi vô Chùa tu là XUẤT GIA, cho rằng như thế là được phước, đi tu là cứu độ cho cha mẹ, cho bá tánh.
Người Xuất Gia đi tu, sau đó thì Cạo tóc, đắp Y, quanh năm suốt tháng chỉ biết Tụng kinh, Niệm Phật, Ngồi Thiền, Học Pháp. Đó là những công việc được lập đi lập lại cả một đời của Tu Sĩ. Nhưng nếu cứ theo hình tướng đó mà làm, thì đó chi là Y NGỮ. Trong khi đó, NGHĨA của những việc trên như sau :
XUẤT GIA ; là Ra khỏi Nhà Lửa Tam Giới
CẠO TÓC là Cạo sạch phiền não.
ĐẮP Y : là trùm phủ lên Thân và Tâm một màu thanh tịnh của Giải Thoát.
Tụng kinh không chỉ là mang quyển Kinh ra đọc theo âm thanh trầm bỗng một cách máy móc, mà là “Thọ trì đọc tụng giải nói biên chép, Y PHÁP TU HÀNH”. Tức là đọc đi đọc lại nhiều lần, tìm hiểu nghĩa cho rõ để thực hành.,
NGỒI THIỀN có nghĩa là hành giả dừng hoạt động của Lục Căn để nhiếp niệm mà Tư Duy gọi là THIỀN MINH SÁT. Không phải NGỒI một đống, Diệt Tận Định, bỏ tư tưởng trống không mà gọi là THIỀN. Trong lúc Dừng Lục Căn thì tư Duy về những điều cần hiểu biết trong Đạo, không phải là để hôn trầm – (tức là một dạng của ngủ ngồi - vì ý thức bẵng đi mất, hành giả không còn biết gì). Hoặc thả hồn rong chơi các cõi, tới cảnh giới lạ, gặp gỡ, tiếp xúc với Thần, Tiên hay gặp những vị trong trang phục Bồ Tát, Phật mà ta thường thấy trong các hình vẽ rồi nghe họ thuyết pháp. Những cảnh đó là ma cảnh. Hình ảnh trong đó là Thiên ma. Nếu nghe họ thuyết thời gian sau sẽ bị “Tẩu hỏa nhập ma”, thì trở thành bất thường hoặc điên loạn. Vì thế, người Ngồi Thiền cần có thầy đã hiểu rõ về Thiền hướng dẫn để tránh gặp phải những tình trạng như vừa kể.
Thiền Định là để Định cái Tâm, rồi Tư Duy để sinh Trí Huệ.
A NAN
Đến lượt Ngài A Nan thì Ngài nhớ lại. Lúc trước Thế Tôn thân hơi có bệnh phải dùng sữa bò, nên A Nan cầm bát đến đứng trước cửa nhà người đại Ba La Môn. Lúc bấy giờ Ngài Duy Ma Cật hỏi con : “Làm gì cầm bát đứng đây sớm thế”. Con đáp, Thế Tôn thân hơi có bệnh phải dùng sữa bò, nên tôi đến đây xin sữa”.
Ông Duy Ma Cật giải thích về Thân Phật : Thân Như Lai là Thân Kim Cang, các ác đã dứt, các lành khắp nhóm. Ngài A Nan, phải biết Thân Như Lai chính là Pháp Thân, không phải thân tư dục. Phật là bậc Thế Tôn hơn hết ba cõi, Thân Phật là vô lậu, các lậu đã hết. Thân Phật là vô Vi, không mắc vào các số lượng, Thân như thế có bệnh gì” ?
Kinh viết : “Thân Phật là PHÁP THÂN do vô lượng công đức Trí Tuệ. Do Giới, Định Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến. Do Từ Bi Hỉ Xả sinh. Do Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Như Hòa, Cần hành, Tinh Tấn, Thiền Định, Đa Văn, Luc Độ Ba La Mật, Chỉ Quán, Thập lực, Tứ vô sở úy , Thập Bát Bất Cộng , Đoạn tất cả pháp Ác, tu các Pháp Thiện, Chơn thật, vô lượng pháp thanh tịnh .. Những pháp như thế sinh ra. Thân như thế làm sao có bệnh được ?
Ngài DUY MA CẬT đã giải thích để chúng ta hiểu lại cho đúng : Cái THÂN PHÀM bằng xương bằng thịt không phải là Thân Phật. THÂN PHẬT là cái Thân được hình thành bởi các Thiện Pháp.
Tuy nhiên, khi nhập thế để hướng dẫn Con Đường Giải Thoát cho mọi người, thì Chư Phật vẫn phải có một cái Thân Phàm như tất cả chúng ta. Vì thế, Thân đó vẫn phải chịu theo Quy Luật là Sinh Lão Bệnh Tử như tất cả mọi người bình thường. Chính Đức Thích Ca, sau khi đắc đạo, cuối đời vẫn bị ngộ độc thực phẩm do thức ăn của Thuần Đà cúng dường, và đã tịch diệt, cho ta thấy lời Phật không hề hư vọng : “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Đã Có Tướng thì là hư vọng, đến một lúc nào đó sẽ phải theo quy luật là Sinh, Lão, Bệnh Tử, dù là Phật, Thánh cũng không ra ngoài quy luật này.
Cái THOÁT SINH TỬ của Đức Thích Ca và của tất cả những người Chứng Đắc là Cái CHÂN TÁNH. Cái mà những người tu nương Giáo Pháp của Phật để tu hành, sau một thời gian Quán sát, Tư Duy, làm đầy đủ Công Đức thì sẽ nhận ra. Đó là cái PHẬT TÁNH, tức là cái TÁNH GIẢI THOÁT mà mọi người vốn có, nhưng không có công đức tu hành thì không nhận ra được. Chính vì vậy mà Chư Vị Giác Ngộ gọi là “Thấy Tánh Thành Phật”.
PHẨM BỒ TÁT
BỒ TÁT DI LẶC
BỒ Tát Di Lặc cũng không dám đến thăm bệnh ngài Duy Ma Cật, vì khi Ngài thuyết Pháp Bất Thối Chuyển cho vị Thiên Vương ở cõi trời Đâu Suất và quyến thuộc thì Ngài Duy Ma Cật bảo :
“Thưa Ngài Di Lặc ! Thế Tôn thọ ký cho Ngài sẽ được Quả vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là đời nào ? Nếu là đời quá khứ thì quá khứ đã qua. Nếu là đời hiện tại thì hiện tại không dừng. Như ông ngay bây giờ cũng sanh, cũng già, cũng chết. Nếu từ Như mà Ngài được Thọ Ký thì tất cả chúng sinh cũng phải được thọ ký. Nếu Ngài được diệt độ thì tất cả chúng sinh cũng phải được diệt độ, vì Như không hai, không khác. Tất cả Chúng sanh rốt ráo vắng lặng chính là tướng Niết Bàn. Phải làm cho các Thiên Tử này bỏ chỗ kiến chấp phân biệt Bồ Đề”. Và Ngài giải thích rất nhiều về nghĩa của Bồ Đề.
“Bất Thối Chuyển” có nghĩa là khi đã quyết định vào tu tập thì không thối lui nữa. Nhưng để không thối lui thì phải hiểu rõ những việc mình đang hành trì, kết quả mà mình sẽ đạt được là có xứng đáng hay không thì mới không lùi bước. Nếu tu hành mà nói như Thiền Sư Nguyệt Khê nói là để “Chẳng được cái gì cả” . “Đức Thích Ca nói Pháp rồi phủ định hết”. Như vậy thì Ngài bỏ cả ngai vàng, vợ đẹp, con khôn, để đi tu và bỏ ra 49 năm để thuyết pháp làm chi cho uổng công ? Rồi người sau tu theo nào phải giữ Giới, phải thức khuya dậy sớm tụng Kinh, Niệm Phật, Ngồi Thiền, ăn uống cũng kham khổ để làm gì ? Nếu làm Phật để như các Thiền Sư nói Phật chỉ là “Que cứt khô” hay chỉ giá trị bằng “Ba cân mè” thì công phu làm chi ? Do có nhiều người ngày trước, học hành, tu tập chẳng tới đâu, nghe người khác nói, chẳng hiểu gì nhưng cũng lập lại những lời như vậy, ra vẻ hiểu biết, để trở thành phỉ báng Phật Pháp !
Con đường của Đức Thích Ca mở ra có mục tiêu rõ ràng : Là để THOÁT KHỔ, THOÁT SINH TỬ. Người hành trì theo sẽ đạt được cái Thoát Khổ ngay trong cảnh Khổ. Vẫn tiếp tục sống trong phiền não, mà không bị phiền não làm hại, được an vui, tự tại, giữa cuộc đời đầy Phiền Não, gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Sao nói là không được gì ? Sở dĩ Phật dạy “Đắc mà Vô Đắc” hay “Tu vô Tu, Chứng vô Chứng” là để ngăn những kẻ Tăng Thượng Mạn, vì thấy mình cao, mình thành Thánh, thành Phật ! Người tu vẫn phải hành trì, vẫn phải CHỨNG, hay ĐẮC. Nhưng Chứng hay Đắc chỉ là Đắc cái KHÔNG CÒN MÌNH. Không còn MÌNH thì lấy ai để CHỨNG ? Do đó, nói rằng TU VÔ TU, CHỨNG VÔ CHỨNG, không phải là không có gì để Chứng, mà là KHÔNG CHẤP vào kết quả Tu Chứng vậy.
ĐỒNG TỬ QUANG NGHIÊM
Phẩm này nói về ĐẠO TRÀNG.
Có hai loại ĐẠO TRÀNG. ĐẠO TRÀNG HỮU TƯỚNG và ĐẠO TRÀNG VÔ TƯỚNG.
Nói đến Đạo Tràng thì ai cũng hiểu đó là một địa điểm, nơi nhiều người hội họp cùng nhau để tu học. Nhưng đó chỉ là Đạo Tràng hữu tướng. Người tu hành cần có Đạo Tràng Vô Tướng ở nơi Cái Tâm :
Đó là : “Trực Tâm, Thâm Tâm, Lục Độ, Tứ Vô Lượng Tâm, phương tiện, Tứ nhiếp Pháp, Đa Văn, hàng ma, Vô Úy, Tứ Đế, Duyên Khởi, Tam Minh v.v.”.. Tóm lại ltheo giải thích của Ngài Duy Ma cật thì : Nếu người tu “Đúng theo Pháp Ba La Mật mà giáo hóa chúng sinh của mình, thời bao nhiêu việc làm, hoặc nhứt cứ nhứt động, phải biết đều là ở nơi Đạo Tràng mà ra, ở nơi Phật Pháp vậy”. Có nghĩa là nếu người tu thực hiện những Hạnh để mài giũa cái Tâm Vô Minh, chuyển hóa nó trở lại với Chân Tâm, thì những việc làm đó được xem là xuất phát từ Đạo Tràng Vô Tướng nơi Tâm của hành giả. Do đó, Đạo Tràng mà người tu cần chính là Cái Tâm thực hành những pháp của Đạo, không phải là một chỗ tụ họp hữu tướng của mọi người vậy.
BỒ TÁT TRÌ THẾ
Phẩm này nói về việc “Mồi ngọn Vô Tận Đăng”.
“Mồi ngọn Vô Tận Đăng”, có nghĩa là người đã tu hành thành công, đã Giải Thoát được cho bản thân, khi có người cần thì nhắc nhở cho họ.
Trước kia, mọi người có niềm vui là cung cấp cho Ngũ Căn được đầy đủ những gì nó yêu thích. Sau thời gian Quán Soi, Tư Duy, tìm hiểu, thì thấy những thú vui đó chẳng qua chỉ là sự thỏa mãn nhất thời, phục vụ cho cái Thân giả tạm, nên tìm đến niềm vui thanh tịnh của Phật Pháp tức là Pháp Giải Thoát.
Được học hỏi, thực hành mỗi Pháp là một niềm vui. Quán Ngũ Ấm như oán tặc, vì nó lôi chúng ta tạo Nghiệp. Quán Thân Tứ Đại như Nhà Lửa, vì luôn khởi Tham, Sân, Si. Do Quán thấy những chấp nhất, dính mắc vào Danh, Sắc của đời rồi chạy theo nó, rốt cuộc chẳng được gì ngoài những niềm vui khi đạt được, rồi khi đánh mất lại phải khổ, nên quay vào tìm cái CHÂN NGÃ của mình. Vui với công việc giữ gìn Thân, Khẩu, Ý cho thanh tịnh. Vui khi Thiền Định để mở mang Trí Huệ. Vui khi Xả những chấp nhất để được thanh thản. Hành những Thiện Hạnh, bỏ những Ác Nghiệp, gần gũi bạn lành, Thiện Tri Thức để học hỏi mà tăng trưởng sự hiểu biết. Nếu có được niềm Vui hay là an lạc khi Hành những Thiện Pháp thì hành giả cũng sẽ lan tỏa được tới những người chung quanh.
Mọi người cứ tuần tự hành trì theo con đường Giải Thoát. Cải Ác, hành Thiện để Bồ Đề Tâm được nhân rộng thêm. Nếu đủ duyên thì nhắc nhở người có duyên với mình. Đó là góp phần để Ánh Sáng Giải Thoát đến với nhiều người, để tất cả cùng được hạnh phúc, an vui nơi kiếp sống là mục đích của Đức Thích Ca khi lập Đạo vậy.
TRƯỞNG GIẢ TỬ THIỆN ĐỨC
Phẩm này giải thích sự khác nhau giữa HỘI TÀI THÍ và HỘI PHÁP THÍ.
Khi Trưởng giả tử Thiện Đức lập ra Hội Đại Thí bảy ngày tại nhà ông để cúng dường cho tất cả các vị Sa Môn, Bà La Môn cùng hàng ngoại đạo, kẻ nghèo khó, người ăn xin.. thì Ông Duy Ma Cật đến nói : Sao không làm Hội PHÁP THÍ mà lập Hội TÀI THÍ làm chi.
HỘI TÀI THÍ là Cúng dường cho những vị tu hành, hoặc là thức ăn, tiền bạc để giúp cho những người đang cần. Nhưng người tu nên lập HỘI PHÁP THÍ là quay vào để Giúp cho Chúng Sinh NƠI TÂM CỦA CHÍNH MÌNH. Đó là Làm Lục Độ Ba La Mật, học hỏi, thực hành các Pháp như KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC, TỨ NHIẾP PHÁP. Hành những Thiện Pháp, học hỏi nơi các bậc Thiện Tri Thức, Ngồi Thiền, Tịnh cõi Nước Phật, làm tất cả các Pháp Trợ Đạo. Như thế mới là bậc ĐẠI THÍ CHỦ, là phước điền cho tất cả chúng sanh.
Người tu cần HỘI PHÁP THÍ hơn, vì phải lo “Cứu Độ cho chúng sinh” của mình trước, không phải là mang tiền bạc, tài vật đi cúng, đi cho bên ngoài, vì đó chỉ là để dành phước báo, lúc nào đó sẽ được nhận lại. Chỉ có quay vào tu hành, thì phước đó mới có giá trị vĩnh viễn.
Khi đã Bố Thí cho bên ngoài thì nhiều người nhắm vào Chùa chiền, vì thấy Kinh viết là “Cúng dường cho người tu hành thì được phước báo trả lại gấp trăm, gấp nghìn lần”. Cho nên họ không tiếc tiền của. Thậm chí có người còn cúng cả Nhà to, đất mẫu để xây Chùa ! Nhưng họ không biết rằng chính họ đang “đầu tư để sinh lợi”, không phải là bố thí với cái Tâm bất cầu báo, không cần nhận lại. Vì vậy, Ngài Duy Ma Cật dạy : “ Nếu người thí chủ dùng tâm bình đẳng thí cho một người ăn xin rất hèn hạ xem cũng như tướng phước điền của Nhu Lai, không phân biệt, lòng đại bi bình đẳng, không cầu quả báo. Đó gọi là đầy đủ Pháp Thí vậy”.
V. PHẨM VĂN THÙ SƯ LỢI
Ngài Văn Thù Sư Lợi vâng lệnh Phật đi thăm bệnh Ngài Duy Ma Cật, thấy vậy nên các hàng Bồ Tát, Đế Thích, Phạm Thiên, năm trăm Thinh Văn và hàng trăm nghìn Thiên nhơn đều muốn đi theo.
Đây là một cuộc trao đối Phật Pháp giữa hai vị đã thông đạt Giáo Pháp, làm cho những vị theo nghe đều hoan hỉ.
Lúc đó Ngài Duy Ma Cật đã biết trước nên dùng thần thông làm cho nhà trống rỗng, không có vật dụng cũng không có thị giả, chỉ có mình Ngài với chiếc giường bệnh mà thôi.
Ngài Văn thù Sư Lợi bước vào thì Ngài Duy Ma cật lên tiếng chào.
Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi thăm Ngài Duy Ma Cật rằng bệnh do đâu mà sanh ? Sanh đã bao lâu ?Làm thế nào mới lành ?
Ngài Duy Ma Cật đáp là từ SI mà có ÁI. Vì tất cả chúng sanh bệnh nên Ngài có bệnh. Bồ Tát vì chúng sanh mà vào đường Sanh Tử. Hễ có sanh tử thời có bệnh. Bồ Tát có bệnh là do lòng Đại Bi.
Ngài Văn thù Sư Lợi hỏi nhà này vì sao trống không, không cả thị giả và hỏi cách an ủi người có bệnh cũng như người tu khi bệnh thì phải quán sát như thế nào ?
Qua những đối đáp của hai bên thì ta thấy như Kinh dạy : “Chư Phật Ba Đời không nhàm chán xác thân”. Chư Vị Giác Ngộ vì thương Chúng Sinh, nên khi các Ngài đã Giải Thoát rồi thì đời đời vẫn theo dõi để cứu giúp chúng sinh. Muốn giúp chúng sinh thì phải “Đồng sự nhiếp”, nghĩa là đến với chúng sinh, hòa đồng cùng chúng sinh để có cơ hội trực tiếp nhắc nhở, hướng dẫn chúng sinh đi đến Con Đường Giải Thoát.
Bồ Tát khi vào thế gian thì cũng phải mang thân phàm như tất cả mọi chúng sinh. Mà đã có Thân thì có Bệnh. Khi có bệnh thì phải Quán sát để TRỪ GỐC BỆNH. Biết Thân này Vô Ngã, chỉ do Tứ Đại hợp thành. Do các Pháp Khởi và Diệt. Đã có Khởi thì phải có Diệt. Phải dùng Tâm Không Thọ mà thọ các món Thọ, tức là dù đang Thọ lấy Cái Thân, nhưng Biết Thân này không phải là Ta, mà sở dĩ ta nhận lấy nó là vì Tâm Đại Bi. Ở trong Thân vì Chúng Sinh trong Ba cõi. Dù Hành Thiền, nhưng viết rằng Thiền chỉ là phương Tiện để sinh Trí Huệ, không tham đắm, mà quán sát các Pháp để dù có bệnh, vẫn ở trong Sinh Tử mà làm lợi ích cho chúng sinh. Thực hành đầy đủ các Pháp. Phân biệt tất cả các Pháp. Dù chứng được Quả Phật, Nhập Niết Bàn nhưng vẫn không bỏ đạo Bồ Tát, là không rời bỏ Chúng Sinh. Chúng sinh đi đến đâu thì Bồ Tát theo dõi như bóng theo hình, đến khi nào tất cả được Giái Thoát thì các vị mới nghĩ ngơi vậy.
VI.- PHẨM BẤT TƯ NGHÌ
Ngài Xá Lợi Phất lúc đó thấy trong nhà của Trưởng Giả Duy Ma Cật trống không, không có giường ngồi, nên tự nghĩ không biết mọi người sẽ ngồi ở đâu ? Ngài Duy Ma Cật biết được ý đó nên hỏi : Nhân giả vì pháp mà đến hay vì giường ngồi ? để thuyết cho Ngài Xá Lợi Phất về CẦU PHÁP.
Ngài cho rằng người cầu Pháp không phải vì giường ngồi, không phải vì có Các pháp, vì đắm trước nơi Phật, nơi Pháp mà cầu, vì Cầu Pháp phải KHÔNG NHIỄM. Nếu nhiễm nơi Pháp, dù là cho đến Niết Bàn thì đó cũng là nhiễm đắm, không phải Cầu Pháp. Có nghĩa là họ vẫn làm những điều như những người vì cầu mong đạt được Quả vị mà làm. Nhưng không không mong, không cầu đắc Quả Vị. Chỉ làm để được Giải Thoát mà thôi. Vì thế, những người tu hành vì cầu mong Quả vị, Chứng Đắc không thể hiểu được.
Nói rằng “bất khả tư nghì”, vì người được Giải Thoát thì chỉ tự họ biết, người khác không thể biết được. Chư vị Giác Ngộ dùng thí dụ là “ai ăn nấy no”. Vì cảm giác no tự người ăn biết, không thể tả cho người khác cảm nhận cái no đó là như thế nào, vì nó diễn ra trong bao tử của người ăn.
Những người Nhị Thừa nghĩ về Phật và Cõi Phật là ở đâu đó tận Tây Phương, Đông Phương. Trong có có Bồ Tát “bay lướt Mười Phương để cứu độ Chúng Sinh”. Không biết rằng Chư Vị Giác Ngộ mượn cảnh bên ngoài để diễn tả những việc diễn ra trong nội Tâm của người tu hành, nhưng do thời xưa vì thiếu ngôn ngữ nên không thể diễn tả cho người khác hiểu được.
“Bồ Tát bay lướt Mười Phương để cứu độ chúng sinh” là lúc nào trong Tâm cũng được kiểm soát, không để cho Niệm dữ khởi lên. Nếu có, thì ngay lập tức chuyển hóa, đưa nó về Tịnh Quốc vậy.
VII. PHẨM QUÁN CHÚNG SANH
Ngài Duy Ma Cật chỉ cách Quán sát Chúng Sanh cho Ngài Văn Thù Sư Lợi :
Ngày xưa, ngôn ngữ chưa phong phú, sự hiểu biết của con người có giới hạn, không thể diễn tả Cái Tâm và những Ý Tưởng khởi lên trong đó, nên Phật phải dùng những thí dụ tương tự để minh họa. Nhưng về sau thì chữ nghĩa đã phong phú, mọi thứ đều có thể diễn tả rõ ràng, nên ai cũng có thể hiểu được : Tâm, mà Phật nói chính là đầu óc của mỗi con người. Chúng sanh mà Phật dạy phải cứu độ chỉ là những ý tưởng của mỗi chúng ta. Trong Tâm của mỗi chúng ta từng sát na có vô số ý tưởng khởi, diệt. Có những thứ kiên định thì về sau thực hiện được. Có những thứ thấy không thể thực hiện được, hoặc sau khi suy nghĩ thấy có hại nên tự dẹp đi.
Cách đây gần 3.000 năm mà Đức Thích Ca đã khám phá ra điều mà khoảng hơn 20 năm về trước, các nhà Tư Tưởng Học người Úc mới công bố, là “Trong một ngày, mỗi người khởi ra khoảng 50.000 tư tưởng”.
Đức Thích Ca cho rằng Trong Tâm của chúng ta có hai loại tư tưởng TỐT và XẤU đan xen, nên Ngài gọi là “Phàm Thánh đồng cư”. Nhưng dù gặp duyên thì chúng “trùng trùng duyên khởi”, nhưng không ngoài hai xu hướng : Một là tốt đẹp, thanh tịnh. Hai là loạn động, toan tính những điều xấu, mưu mô, thủ đoạn... Vì vậy, Ngài thêm vô đó có loại tư tưởng trung gian để giải thích, khuyên can, ngăn ngừa, không để cho tư tưởng xấu tiếp tục để đưa ra hành động, gọi đó là Bồ Tát. Bồ Tát này có nhiệm vụ nhắc nhở, để nó bỏ đi, không nghĩ tới mưu đồ xấu xa đó nữa. Khi tư tưởng đã chịu thay đổi, không tiếp tục để đưa ra hành động Xấu, thì Phật gọi là “Bồ Tát đã cứu độ được một Chúng sinh”, hay là “Đưa được một Chúng sinh về Phật Quốc”. Hay gọi là DIỆT ĐỘ CHÚNG SINH.
Kinh KIM CANG VIẾT : “Ta đã DIỆT ĐỘ vô lượng vô số Chúng Sinh, nhưng thật ra không có chúng sinh nào bị Diệt Độ cả”. Nhiều người đọc thấy khó hiểu, tại sao Diệt mà nói rằng KHÔNG CÓ DIỆT ? Bởi không giống như những hàng Thinh Văn, DIỆT hết mọi Ý tưởng, cả Tốt, lẩn Xấu. Người tu theo ĐẠI THỪA không DIỆT, mà chỉ CHUYỂN HÓA chúng, cho chúng “Cải tà, quy Chánh, Cải Ác, hành Thiện mà thôi”. Vì thế, nói rằng DIỆT ĐỘ nhưng mà KHÔNG CÓ DIỆT.
Phật Quốc là một nơi thanh bình, an lạc ở TRONG TÂM, do các Chúng Sinh được cứu độ đưa về đó. Cả một kiếp tu hành, BỒ TÁT “ĐỘ” chúng sinh nhiều vô số kể, nên ta thấy Kinh viết : Mỗi lần đến dự Hội, BỒ TÁT mang theo mấy trăm muôn ức quyến thuộc là nghĩa đó. Không phải là ngài Tu Bồ Đề mang theo những Phật Tử nhờ nghe Ngài thuyết pháp mà Quy Y theo Phật ! Hoặc TRONG Kinh PHÁP HOA, Phật bảo : “ Ông Tu Bồ Đề đây phụng thờ ba trăm muôn ức na do tha Đức Phật, cúng dường, tôn kính, tôn trọng ngợi khen, thường tu hạnh thanh tịnh, đủ đạo Bồ Tát, ở thân rốt sau đặng Thành Phật” , có nghĩa là Ông Tu Bồ Đề đã đưa Ba trăm muôn ức na do tha Chúng Sinh thành Phật, và đã làm đủ đạo Bồ Tát, nên thân rốt sau mới thành Phật.
Kinh viết rõ “Muốn Độ Chúng sanh phải trừ phiền não”, và phải thực hành Chánh Niệm, có nghĩa là “ Pháp Bất Thiện không Sanh, Pháp Thiện không Diệt”. Đó là căn bản của việc ĐỘ CHÚNG SINH vậy. HOA mà các Thiên nữ dâng cúng cho các vị Bồ Tát và các Đại Đệ tử là lời khen tặng. Người đã Giải Thoát được thì không ảnh hưởng, ngược lại, người chưa Giải Thoát thì thường vướng vào những khen chê, khinh, trọng của người đời. Sự Chứng Đắc cũng thế. Người đã Chứng Đắc thì không thấy có Mình chứng đắc. Người còn thấy Có mình Chứng Đắc để sinh kiêu mạn thì chứng tỏ chưa Giải Thoát rốt ráo vậy.
VIII. PHẨM PHẬT ĐẠO
Phẩm này nói về những vị đã thông đạt Phật Đạo, nhưng vì muốn hướng dẫn, giúp đỡ cho người khác mà thị hiện vào hoàn cảnh giống như họ để “Đồng sự nhiếp”. Phật và Chư Bồ Tát là những vị đã Giải Thoát thì đâu có thích vào trần gian đầy phiền não, phải mang cái thân Ngũ Uẩn này để làm gì. Nhưng vì muốn “Độ” cho cõi Nhân, nên các Ngài cũng phải vào đời, làm một con người bình thường, vào đủ mọi cảnh như tất cả Chúng Sanh để gần gũi mà có cơ hội giúp cho Chúng Sinh thức tỉnh. Chúng Sinh bị NGHIỆP lôi mà phải vào các cõi, thì Chư Phật cũng vì NGUYỆN mà đi theo Chúng Sinh như bóng theo hình. Trong cái Thân giả tạm của mỗi người đều có Hột Giống Như Lai. Tức là tất cả những Phiền Não, Tà Kiến, Tham Sân Si, Điên Đảo, Bất Thiện đều là Hột Giống Như Lai. Vì nhờ có những bùn lầy phiền não mới có Chúng Sinh nghĩ đến Phật Pháp. Nếu đã vào Vô Vi thì không sanh được Phật Pháp. Như Hàng Thanh Văn đoạn hết kiết sử thì ở trong Phật Pháp không có ích lợi chi mấy, vì họ không còn Phát Tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nữa.
Quyến thuộc của Bồ Tát là Trí Độ, là phương tiện, là Tâm thành thật, là Bát Giải Thoát. Bồ Tát thị hiện vào nhiều nơi để cứu độ cho những chúng sinh đang đau khổ để đưa họ vào Phật Đạo. Nhưng như Kinh Lăng Nghiêm dạy : “A Nan. Ta có dạy các Bồ Tát và A La Hán. Sau khi ta diệt độ, các ông phải thì hiện thân hình trong thời mạt Pháp để cứu độ các Chúng Sinh đang trầm luân. Hoặc hiện làm Thầy Sa Môn, cư sĩ, vua, quan đồng nam, đồng nữ, cho đến hiện đàn bà góa, kẻ dâm nữ, người buôn bán để lẫn lộn trong lớp người, chung làm một nghề nghiệp đặng giáo hóa chúng sanh trở về Chánh Đạo”.
Nhưng các vị ấy quyết chẳng bao giờ nói “
Ta đây thật là Bồ Tát hay A La hán v.v..” hay tỏ ra một vài cử chỉ làm tiết lộ sự bí mật để cho người ta biết mình là Thánh nhơn thị hiện. Chỉ trừ sau khi mạng chung mới âm thầm để lại một vài di tích cho người biết thôi”.
Qua lời Kinh dạy thì chúng ta có thể phân biệt đâu là Thánh Nhân thì hiện và đâu là những kẻ lợi dụng Đạo Phật. Bậc chân tu thì “Ngũ uẩn giai không”, “Lục Căn thanh tịnh” chê chán trần tục nên đâu có màng danh lợi. Ngược lại, những kẻ thấy những bậc tu hành vừa được ăn trên, ngồi trước lại được mọi người trọng vọng, nên cũng vô Chùa, mượn hình tướng, sắc áo Đệ Tử Phật, lợi dụng danh nghĩa tu hành để “mượn Đạo tạo đời” thì đó là những kẻ bất chấp Nhân Quả nên sẵn sàng quảng cáo, khoe khoang để được nhiều người chú ý, để thu nhận được nhiều đệ tử.
IX . PHẨM VÀO PHÁP MÔN KHÔNG HAI.
Đã vào đời, mang lấy xác thân thì con người lúc nào cũng phải sống với Các Pháp Hữu Tướng, tức là CÁI CÓ. Thân của ta và Vạn Pháp đều CÓ. Chúng ta học Tu Phật là để học cách tiếp xúc, cư xử, giải quyết Cái CÓ thế nào để không bị nó làm cho vướng mắc, phiền não, đau khổ, để tuy sống trong cảnh CÓ với đầy đủ các Pháp Thuận, Nghịch, mà Tâm cũng như Hư KHÔNG. Sống trong Trung đạo. Nên gọi đó là Pháp Môn KHÔNG HAI.
Giữa hai đầu đối đãi : CÓ, KHÔNG - TÁNH TƯỚNG - CHÂN, GIẢ - NGÃ, VÔ NGÃ – HỮU VI, VÔ VI - ĐẮC, VÔ ĐẮC - GIẢ NGÃ, CHÂN NGÃ v.v..Người tu tuy sống trong cái Giả, nhưng Tâm phải TRỤ ở cái CHÂN thì mới Thoát được phiền não, đau khổ được.
X . PHẨM PHẬT HƯƠNG TÍCH
Phẩm này nói về giáo hóa Chúng Sanh của các Cõi Phật. Cõi trần gian thì vì chúng sanh quá can cường, khó giáo hóa nên Chư Phật phải dùng Phương Tiện để điều phục họ. Nói Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Nói Quả báo, của Thân, Khẩu, Ý làm việc Tà. Nói Ngũ Giới và quả báo của người vi phạm. Nói đó là thế gian, đó là Niết Bàn, vì con người khó giáo hóa nên phải dùng biện pháp mạnh mới đưa được họ vào khuôn khổ.
Nhưng Bồ Tát ở cõi này làm lợi ích cho chúng sanh nhiều hơn trăm nghìn kiếp tu hành ở cõi khác, vì cõi này có 10 điều lành mà cõi khác không có. Đó là Lục Độ. Nói Pháp trừ tám nạn, Dùng Pháp Đại Thừa để độ kẻ ưa Tiểu Thừa và Dùng các Pháp lành để cứu độ người vô đức, và Tứ Nhiếp Pháp để cứu độ chúng sanh.
Nếu Bồ Tát thành tựu được 8 Pháp thì được sanh về Cõi Tịnh Độ. Đó là : Làm lợi ích cho chúng sanh mà không mong cầu báo đáp. Thay thế chúng sanh để chịu mọi điều khổ. Công đức mình lập được đều cho chúng sanh. Lòng bình đẳng đối với chúng sanh, khiêm tốn, không ngại. Đối với Bồ Tát xem như Phật. Những Kinh chưa nghe thì không nghi. Không chống trái với hàng Thanh Văn. Không đố kỵ khi thấy người khác được lợi lộc hơn mình. Thường xét lỗi mình, không xét lỗi người.
Làm được những điều trên thì ta thấy đó là bậc tu hành không còn 4 Tướng : Nhân, Ngã, Chúng sanh, Thọ giả, tức là Không còn chấp cái Ta Giả nữa. Như thế thì Tâm của người đó đã là Cõi Tịnh Độ rồi vậy.
XI. PHẨM HẠNH BỒ TÁT
Phẩm này nói về cách làm PHẬT SỰ của các Bồ Tát. Mỗi cõi tùy theo chúng sanh ở đó cần gì mà làm Phật Sự.
Ở cõi Hữu Vi tức là trần gian này, thì các Bồ Tát Không Tận Hữu Vi, Không Trụ Vô Vi. Không Tận Hữu Vi là ở trong Các Pháp Có Tướng thì luôn làm những điều tốt, giúp đỡ mọi người, không chỉ lo cho riêng bản thân mình. Tu Tập pháp lành, Thân Khẩu Ý tịnh ba nghiệp. Không buông lung. Đem Pháp Đại Thừa thành tựu Bồ Tát, Tăng.
Không Trụ vô Vi là dù người tu học Môn KHÔNG, nhưng không lấy KHÔNG làm chỗ tu chứng. Không lấy Vô Tuớng, Vô Tác làm chỗ tu chứng. Học Vô Thường nhưng không bỏ việc Thiện. Quán Tịch Diệt nhưng không Tịch Diệt hẳn. Không bỏ Đại Bi, không bỏ các phước đức, Thiền Định, Trí Tuệ. Tóm lại là tuy tu học các Môn KHÔNG nhưng không chấp vào cái KHÔNG, mà vẫn thực hành các Thiện Pháp, lo tu hành Các pháp một cách tinh tấn.
Chính hàng Thinh Văn là những người CHẤP KHÔNG. Họ Quán sát thấy Các Pháp cuối cùng sẽ trở về KHÔNG, nên cho rằng Các Pháp là KHÔNG rồi không thiết tu tiến, dẹp hết mọi nghĩ tưởng, để cái Tâm rỗng không, cho là đạt Niết Bàn. Đó là những người không thực tế, vì các Pháp hiện đang CÓ, chỉ có điều là không bền, nên gọi là TẠM CÓ. Trong cái tạm Có này có biết bao nhiêu điều phải củng cố, xây dựng để thêm tốt đẹp, đâu có ngồi đó chỉ Tụng Kinh, Niệm Phật, buông trôi ngày tháng, chờ chết để về Niết Bàn ? Do vậy mà Phật gọi họ là “Chồi khô, mộng lép” vì không sinh ích lợi gì cho cuộc đời.
XII. PHẨM THẤY PHẬT A SÚC
PHẬT A SÚC được dịch là bất Động.
Muốn Quán Phật A Súc thì trước hết là Quán thật tướng của Cái Thân. Quán Ngũ Ấm Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Quán Sáu Đại tích tập nơi Thân, Tâm cũng như Hư Không. Quán tất cả Các Pháp để thấy rằng tất cả đều là hư huyển. CÓ đây rồi một thời gian nào đó sẽ bị hoại diệt, sẽ phải về KHÔNG. Nhưng Quán như thế không phải để bỏ hết, không tu tập, không làm những Hạnh lành. Vì cái đau khổ tuy không trường tồn, nhưng thời gian nó hoành hành cũng làm cho chúng sanh bị điêu đứng Khổ Sở. Vì thế, phải có Phật Pháp để đối trị. Quán tất cả các mặt Hữu Tướng, Vô Tướng. Quán Thân, Tâm, Pháp rồi Quán tất cả các pháp tu hành để “dùng huyển trị huyển”.
Cõi trần gian tuy bất tịnh, nhưng nhờ đó mới sinh được các Đức Như Lai, tức là những bậc nhờ tu hành mà được Giải Thoát, không nhiễm những cái bất tịnh đó. Cõi trần động loạn nên có Chư Bồ Tát hành dụng để mang lại sự an vui, Niết Bàn, Phật Quốc.
Các Bồ Tát nếu muốn được Cõi Phật thanh tịnh thì cần phải học cái đạo của Đức Vô Động Như Lai.
XIII. PHẨM PHÁP CÚNG DƯỜNG
Phẩm này xưng tụng Kinh DUY MA CẬT này gọi là “Bất khả tư nghị tự tại thần thông quyết định thật tướng” . Nếu ai hiểu nghĩa lý, nghe kinh này mà tin hiểu, thọ trì không nghi, và nếu người đúng như lời nói mà tu hành thì được các Chư Phật hộ niệm. Hàng phục ngoại đạo. Dẹp ma oán. Tu đạo Bồ Đề. An nơi Đạo Tràng. Theo dấu vết thực hành của Như Lai. Quả Bồ Đề của Phật đều từ Kinh này sinh ra, phước đức cũng vô lượng.
Lúc đó Vua cùng quyến thuộc cúng dường Dược Vương Như Lai tất cả đồ cần dùng mãn năm Kiếp. Nhưng khi hỏi Dược Vương thế nào là PHÁP CÚNG DƯỜNG thì Ngài dạy : “ Đó là những Kinh thâm diệu của Chư Phật nói ra, nhiếp về Pháp Tạng của Bồ Tát, trong đó nói về các Pháp Ấn cho đến bất thối chuyển. Thành tựu Sáu Độ. Phân biệt các nghĩa. Thuận pháp Bồ Đề. Lìa các việc ma và các tà kiến. Đưa chúng sanh vào Tạng của Phật. Nhiếp tất cả trí tuệ của hiền thánh. Diễn nói cách tu hành của Bồ Tát. Trái cái Khổ Sinh Tử, Chỉ cái Vui Niết Bàn.. Nếu người nghe những Kinh như thế mà tin, hiểu, thọ, trì, đọc tụng, dùng sức phân biệt giải nói, chỉ bày rành rẽ cho chúng sanh, giữ gìn Chánh Pháp gọi đó là PHÁP CÚNG DƯỜNG.
Lại ĐÚNG NHƯ LỜI NÓI MÀ TU HÀNH, tùy thuận 12 Nhân Duyên, lìa tà kiến, quyết định không có ngã, đối với quả báo nhơn duyên không có trái cãi. Lại theo TỨ Y : Y Nghĩa Bất Y Ngữ. Y Trí Bất Y Thức, Y Pháp Bất Y nhân. Y Kinh liễu nghĩa bất Y kinh không liễu nghĩa.. Nghĩa là đối với các Pháp PHẬT phải tin giữ, thực hành, đó chính là PHÁP CÚNG DƯỜNG, không phải đem lễ vật phàm tục mà Cúng Dường.
XIV.- PHẨM CHÚC LUY.
Phật phó chúc cho Bồ Tát Di Lặc : Những Kinh như thế sau khi Phật diệt độ thì phải đem lưu bố khắp các cõi để người nghe rồi tin thuận Phát Tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Có hai hạng Bồ Tát : Bồ Tát ưa những câu văn hay, đẹp đó là BỒ Tát mới học. Bồ Tát không sợ nghĩa sâu xa mà nghe rồi tâm thanh tịnh thọ trì thì phải biết đó là Bồ Tát đã tu hành lâu trong Đạo.
Lúc đó Bồ Tát Di Lặc và Bốn Vị Thiên Vương hứa sẽ truyền bá và dẫn dắt cho những người nói pháp được Kinh này và không bị những kẻ khác làm hại.
Phẩm này thì chỗ đáng chú ý là nói về hai hạng người nghe Kinh. Hạng ưa những câu văn hay, thì đó là Bồ Tát mới học. Còn những hạng nghe rồi tin, hiểu và thọ trì thì đó là Bồ Tát đã nhiều kiếp tu hành.
Tóm lại :
Đúc kết nhiều quyển Chính Kinh, tôi thấy Đạo Phật không có nói triết lý gì cao cả, chỉ đem sự thật về kiếp sống của con người để nói cho mọi người biết : Nó rất là mong manh, ngắn ngủi không đầy trăm năm. Vậy mà thời gian sống phải gặp biết bao nhiêu điều không vừa lòng. Phải chịu biết bao nhiêu là cảnh Khổ. Nhưng không muốn Thoát và cũng không biết Cách Thức để Thoát.
Chính vì vậy mà Đạo Phật đưa ra cách thức để giúp cho con người Thoát khỏi cảnh Khổ bằng rất nhiều Phương Tiện. Hoặc tả nhiều Cảnh Giới, với Bồ Tát, Phật, cứu độ cho chúng sinh. Nước Phật thanh tịnh trang hoàng bằng Bảy Báu. Hoặc nói cho biết cái Quả của việc Ác, để mọi người hoặc thích được về cảnh giới tốt đẹp, hay sợ bị đọa mà theo hướng dẫn của Đạo Phật để được lợi ích.
Phật dạy có Tứ Quả Thánh mà người tu sẽ đạt được tùy mức độ thực hành, Thí, xả... Rồi thì 32 Tướng Tốt, 80 Vẻ Đẹp của Phật mà người tu phải Hành để hoàn chỉnh cho con đường tu hành. Nhưng rốt lại đó chỉ là những PHƯƠNG TIỆN để dẫn dụ con người CẢI ÁC, HÀNH THIỆN mà thôi. Bởi suy cho cùng thì tất cả chỉ là NHÂN QUẢ. Nhưng nếu nói đơn giản như thế thì con người sẽ thấy quá tầm thường, nên không thích, không muốn Phát Tâm theo học. Như thế là mất lợi cho họ. Vì thế, Phật phải theo sự ưa thích của họ mà dẫn dắt.
Trong KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, có ANH NHI HẠNH nói về cách mà cha mẹ đã dùng để dỗ cho con hết Khóc. Dù cha mẹ có lừa con, lá dương màu vàng, mà nói là vàng thật. Đồ chơi hình thú mà nói là thú thật, nhưng kết quả là làm cho đứa con nín khóc. Chư Phật cũng thế. Thấy con người đau khổ vì cuộc sống nên đã dùng phương tiện để cho nó hết Khổ :
“Lại như Anh nhi lúc kêu khóc, cha mẹ liền lấy lá dương vàng mà bảo rằng : “Nín đi, đừng khóc, vàng đây ta cho con”. Anh Nhi thấy lá dương vàng tưởng là vàng thật, bèn thôi không khóc nữa. Nhưng đây là lá dương, chẳng phải vàng thật. Trâu gỗ, ngựa gỗ, người gỗ, Anh Nhi cũng tưởng là trâu, ngựa, người thật liền chẳng khóc nữa. Do vì chẳng phải thật trâu, ngựa v.v.. mà tưởng là thật trâu, ngựa v.v.. nên gọi là Anh Nhi.
Đức Như Lai cũng vậy. Nếu có chúng sanh muốn tạo tội ác, Đức Như Lai vì họ mà nói Cõi trời Đao Lợi Thiên là cõi tốt đẹp, an vui, tự tại. Chúng sanh nghe cõi vui đẹp như vậy sanh lòng ưa thích bèn thôi chẳng tạo tội ác, mà siêng thật hành những nghiệp lành. Thật ra cõi Trời Đao Lợi là sanh tử, chẳng thật an vui, tự tại.
Lại như có chúng sanh nhàm khổ Sanh Tử, Đức Như Lai vì họ nói Hạnh Quả Nhị Thừa. Nhưng thật ra Quả nhị Thừa chẳng phải rốt ráo chân thật, vì hàng Nhị Thừa biết lỗi Sanh Tử, thấy vui Niết Bàn bèn tự biết có dứt cùng chẳng dứt, có chân thật cùng chẳng chân thật. Có tu cùng chẳng tu, có chứng đặng cùng chẳng chứng đặng. Như Anh Nhi kia đối với vật chẳng phải vàng mà tưởng là vàng thật.
Đức Như Lai ở trong chỗ bất tịnh mà nói là tịnh vì đã chứng được Đệ Nhất Nghĩa Đế nên nói như Lai không có hư vọng.
Tức là theo ý Kinh, Chư Phật thương chúng sinh như bậc cha mẹ thương con. Thấy con quá đau khổ, nên dùng mọi cách, miễn làm sao cho con hết Khổ. Do đó, dù những gì Phật hứa hẹn là Quả Vị hay tả Cõi Phật trang hoàng rực rỡ với châu báu là không chân thật. Nhưng Chư Phật không mang tội Vọng Ngữ, vì kết quả là con người hết Khổ, gọi là dùng Huyển để trị Huyển.
Nhiều người vào tu Phật nhưng bị mê hoặc bởi những Quả Vị, những Cảnh Giới đẹp đẽ của Phật Quốc mà quên Đức Thích Ca khai mở Đạo Phật chỉ vì muốn giúp cho con người hết Khổ, được giải thích trong Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA :
“Ta thấy các chúng sanh bị những sự SANH, GIÀ, BỆNH, CHẾT, lo buồn khổ não nó đốt cháy, cũng vì năm món dục (Ngũ Dục) tài lợi, mà bị các điều thống khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi tìm cầu nên hiện đời thọ các điều Khổ, đời sau thọ Khổ Địa Ngục, Súc Sanh, Ngạ quỷ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn khổ. Bị Khổ về người yêu thương thường xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món Khổ như thế mà chúng sanh chìm trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay chẳng biết, chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng sanh lòng nhàm, không cầu Giải Thoát, Ở trong Nhà Lửa Tam Giới này đông tây rảo chạy, dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo” (Phẩm Thí Dụ).
Kết Quả tu hành cũng được nói rõ : “ Các chúng sanh này nghe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được hưởng vui và cũng được nghe pháp. Đã nghe Pháp rồi lìa khỏi các chướng ngại, ở trong các pháp theo sức mình kham được lần lần được vào đạo”. (Phẩm Dược Thảo Dụ).
Mục đích của Đạo Phật đã được xác định, là để ĐỘ KHỔ. Nhưng không phải do có Chư Phật, Chư Bồ Tát để cứu độ cho mọi người, mà “ĐỘ” bằng Giáo Pháp. Tức là Đạo Phật sẽ hướng dẫn cách thức để những ai Tin và Hành theo sẽ tự mình cứu lấy mình, gọi là TỰ ĐỘ.
Giáo Pháp của Đạo Phật gồm VĂN-TƯ-TU, GIỚI-ĐỊNH-HUỆ, BÁT CHÁNH ĐẠO. Đó là những căn bản mà người đi trong đó sẽ được bảo vệ, không rơi vào Ác Đạo, để cuộc sống hiện tại cho đến hết kiếp luôn được hạnh phúc, an vui, gọi là NIẾT BÀN tại thế, hay là Hữu Dư Y Niết Bàn, không phải chờ chết mới được về, cũng không phải để được về Nước của Phật nào khác, mà mỗi người sẽ tự tạo PHẬT QUỐC nơi Tâm của mình.
Khi đã chuyển hóa được cái Tâm từ VỌNG sang CHÂN. Con người tìm lại được BỔN THỂ TÂM của mình, để từ GIẢ NGÃ thành CHÂN NGÃ thì như TỔ ĐẠT MA dạy : “Rắn biến thành rồng vẫn không đổi vảy, Phàm phu thành thánh cũng không đổi mặt”. Vì tu Phật chỉ là để được Thoát Khổ, không phải để trở thành Phật, Thánh, Thần Tiên bay về cõi nào, mà chỉ là SỬA, tháo gỡ những dính mắc nơi Cõi Tâm, trước đây đã làm cho Phiền Não. Sau bao nhiêu công phu, hành trì, khi thành tựu thì vẫn là một con người bình thường, sống một cuộc sống bình thường như trước kia. Cái khác đi là dù vẫn ở trong Sinh Tử, mà Thoát Sinh Tử. Ở giữa phiền não, mà phiền não không còn làm hại được. Được như Hoa Sen, vươn lên từ bùn, nở hoa và tàn lụi trong bùn nhưng không bị bùn làm cho ô nhiễm. Đó là lý do mà Đạo Phật chọn HOA SEN làm biểu tượng, là để nói lên kết quả Giải Thoát của người thực hành theo hướng dẫn của Đạo Phật.
Hiểu được điều này thì cũng hiểu luôn vì sao Ngài Ca Diếp chỉ mỉm cười khi Phật đưa Cành Sen lên mà được Truyền Y Bát vậy.
Tháng 1/2024