Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
         

KÝ ỨC VỀ MỘT MIỀN QUÊ


                    
T  ôi trở về quê Tế Hiệp trong cái nắng gay gắt của mùa hè mà dân quê tôi thường gọi "nắng ve kêu". Từ đường được xây dựng đã 3 năm trên nền đất cũ, tuy nhỏ nhưng rất ấm cúng và là nơi để bà con ở xa có dịp về thắp nén nhang tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên..     

  Dòng họ tôi qua bao thế hệ đã được sinh ra và lớn lên từ dãi đất này. Theo gia phả, cụ thủy tổ từ Nghệ An (Thanh Khai, Thanh Chương) đến khai khẩn ban đầu từ chân núi Chúa. Sau, các chi nhánh dần tiến ra các vùng lân cận. Đây là vùng đất hiểm trở, bao bọc bởi đồi núi, sông nước nên việc đi lại khó khăn, kinh tế chậm phát triển. Trong những thập niên 80, mới có đường đất xuyên qua Đại An, Thiết Tràng, mà khi xưa bà con phải nương theo bờ ruộng. Và cũng từ lúc cây cầu nối hai bến đò An Vinh - An Thái, con đường làng được cải tạo nên việc đi lại dễ dàng hơn đôi chút.    

    Anh em tôi về ở với ông nội trong căn nhà rất khiêm tốn cạnh trường Tiểu học, trạm xá, trụ sở xã. Nhà lợp tranh, vách đất. Phía trước là dòng sông Côn uốn khúc. Phía sau, cách vài thửa ruộng, trên gò đồi có ngôi chùa, dãy nhà bà con.     

   Đám giỗ xong, chúng tôi đến thăm ngôi chùa. Sau bao năm chiến tranh, thời gian tàn phá, chùa đã đổ nát, hoang tàn, cây cỏ rậm rạp, chỉ còn lại hai cổng Tam Quan đầy lớp rêu phong. Tôi được nghe ông nội kể : "Trước đây là cái am thờ các nghĩa quân Tây Sơn, sau trận thủy chiến ở Bàu Sấu. Tương truyền máu đỏ loang cả ngã ba sông". Về sau, dòng họ tôi cho lập ngôi chùa Bửu Liên và thầy trụ trì cũng người trong tộc. Tại chùa này, anh em tôi được ông cho quy y và có pháp danh. - Nhìn chung quanh, quang cảnh vắng lặng.,. im lìm. Chạnh lòng hơn khi thấy cái tháp xây dang dở, bỏ hoang. Nghe đâu, em trai của thầy định cải tán thầy về tháp, nhưng vì vài lý do nào đó chưa thực hiện được.     

   Anh em tôi đi dọc bờ soi (nương) đến Bàu Sấu. Bến đò - trên con đường độc đạo về Đập Đá, mùa khô lội nước và thường phải qua ghe, sõng. Nơi đây, lớp trẻ chúng tôi, vào những đêm trăng sáng thường tập trung đủ các trò chơi dân dã, nào là u quạ, bịt mắt bắt dê, đá lon... Tôi nhớ nhất trò chơi đánh giặc giả, vũ khí tạo bởi cành cây chữ V, đạn dược được trang bị cả túi sỏi nhỏ. Đôi khi u đầu, sứt trán, chảy máu, nhưng ai nấy đều âm thầm chịu đựng, đâu dám mách với gia đình. Vào những buổi chiều hay trưa nóng nực, rãnh rỗi, bọn trẻ chúng tôi đá banh, chơi cù, chọi vụ... chạy nhảy nô đùa trên bãi cát rồi đua nhau xuống đập ngụp lặn, bơi lội thỏa thích.       

Cũng tại ngã ba này, chúng tôi lội qua sông đến Thiết Trụ, Hòa Phong, Tân Kiều mỗi khi nơi nào có Hát Bộ. Lắm lúc đi xa hơn xem đốt pháo hoa ở Cây Bông. Thật ra, chúng tôi chỉ ham vui chứ chẳng hiểu cái hay, cái đẹp của nghệ thuật Tuồng. Những danh ca như kép Trọng, Chinh, Cá, đào Cầm.v.v… đã đi vào huyền thoại quê tôi.     

    Bàu Sấu, khi ấy đối với tôi thật thiêng liêng, nước sâu thẳm nên tôi chưa bao giờ bước chân đến. Bàu Sấu khi tôi ở không còn "... những ngày Tết, lễ rủ nhau đến bến đò Bàu Sấu coi đua sõng, thi bơi, bắt vịt trên sông... Cũng tại bến sông này, cứ sau tiết Đông chí là mùa cá lúi lên, hàng năm - bảy chục chiếc sõng, chài của ngư dân gần xa đến tung chài bắt cá. Dưới sông trên bờ người đông như hội, quên cả cái lạnh cắt da, có mẻ chài bắt gọn bầy cá như tấm chiếu trải, trút đầy sõng..." ( Theo tác giả Chính Đức - Ký Ức bên Dòng Sông - Văn Nghệ An Nhơn - Xuân 2012.)      

  Bàu Sấu ngày ấy tấp nập bao nhiêu thì giờ này càng hoang vắng. Hình như chẳng có ai qua lại. Bàu Sấu bây giờ tiêu điều, lạnh lẽo, chỉ còn bước chân của nông dân làm ruộng, thăm soi... hay những dấu chân của đàn trâu, bò gặm cỏ, uống nước. Bàu Sấu bây giờ chỉ là con mương thủy lợi lặng lẽ dẫn nước từ sông Côn về cánh đồng Đại An, Tân Đức.       

Chiều ngã bóng, anh em tôi thăm nơi ở cũ. Nhà được cất to, lớn hơn. Ngậm ngùi, luyến lưu khi cây mít, cái giếng vẫn còn. Bỗng dưng hình ảnh của ông hiện về. Rồi anh em tôi tiếp tục đi trên con đường xưa, lối cũ...       

Giờ đây, đi lại con đường này với nhiều thay đổi. Nhà cửa khang trang trong vườn cây trĩu quả. Dọc theo sông hàng lũy tre xanh tỏa bóng mát, vài bờ đập nối hai bờ sông nhưng các guồng xe nước không còn nữa. Khi ấy, một đoạn đường ngắn thôn tôi mà có 4 bờ xe (Kiểm Lưỡng, Bộng Dầu, Ông Bốn, Cây Sung). Tôi nhớ rất rõ, mỗi lần qua An Thái đi chợ, hốt thuốc cho ông hay thăm ngoại, tôi đều nghỉ chân ở các bờ xe để tận hưởng làn nước mát trong lành, vang âm thanh réo rắt từ các ống tre đổ vào cánh đồng bát ngát quê nhà.       

Tôi đứng thật lâu trên cầu An Thái. Phía xa, về thượng lưu là quê ngoại, quê hương của em bên kia sông. Bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm, hồn nhiên của tuổi thơ và trong sâu thẳm trái tim vẫn còn một hình bóng của người em gái lứa tuổi học trò mộng mơ.-./.

(*) : · Căn cứ núi Kỳ Đông giữa 3 thôn Tân đức, Đại An, Thiết Tràng
· Tháng 3/ 1887, sau trận ác chiến ở Bầu Sấu, Mai Xuân Thưởng bị thương nặng phải cho rút quân về Linh Đỗng ( núi Phú Phong để ẩn náu).
· Bàu Sấu tên chữ là Ngạc Đàm, ở dưới chân phía tây núi Kỳ Đông, nằm giữa thôn Đại Bình và Thiết Tràng. Xưa kia có con cá sấu ở nơi bàu, sau bị lụt trôi đi mất. bàu chỉ lớn độ vài ba mẫu, nước sâu không bao giờ cạn, qua lại phải đi đò.
 (Theo Bùi Thúc Khán - Giai phẩm Tây Sơn Xuân Canh Thìn – 2000) 




VVM.18.5.2024.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .