V inh dự, tự hào mỗi khi đọc “Danh nhân đất Quảng”, trong đó có một chí sĩ nổi bật về số lần vào tù thời chống Pháp-2 lần bị tuyên án tử hình, 3 lần tù giam từ 1 đến 3 năm, một lần lãnh cái chết bất tử. Chuỗi lao lý kết nối suốt quá trình đấu tranh chống Pháp không chỉ dành cho cụ mà còn đặt nặng lên đôi vai cụ bà Võ Thị Quyềân (thường gọi cô Ba Bàn)- cánh tay phải đắc lực, người đồng chí, người vợ trung kiên, gương mẫu Việt Nam của đất Đại Lộc. Cụ là ai? Đó là nhà cách mạng kiêm triết gia Trần Cao Vân.
Vợ chồng đồng lòng lo đi giúp nước
Trần Cao Vân (TCV) sinh năm Bính Dần (1866) tại làng Tư Phú, Gò Nổi (Xã Điện Quang, Điện Bàn, Quảng Nam). Năm 8 tuổi mồ côi mẹ. Thân phụ là nhà nho yêu nước, chuộng chữ nghĩa, mong muốn con cái theo đuổi con đường cử nghiệp. TCV rất thông minh, học tập xuất sắc, nhân cách rất mực, đối đáp linh hoạt, có tầm nhìn, cách nghĩ vượt tầm địa dư, lịch sử đương thời. Khoa thi Nhâm Ngọ (1882), cụ ra Huế dự thi nhưng bệnh đột xuất nên đành bỏ dở. Khoa Mậu Tý (1888), trúng tuyển trường nhất, nhì, nhưng hỏng trường ba. TCV lui về Cổ Lâm tự (Đại Lộc) chuyên tâm khảo cứu Kinh Dịch- Tiên thiên và Hậu thiên bát quái của vua Phục Hy và Chu Văn Vương (Trung Quốc) để biên soạn Trung thiên đạo bắt nguồn từ Trung thiên dịch; chủ trương trung hòa tứ giáo để xây dựng một nền văn hóa tổng hợp tại Việt Nam. Con đường khoa bảng của cụ lận đận, thế nhưng qua Trung thiên đạo và thơ văn, câu đối còn để lại cho thấy cụ là bậc khảo học uyên thâm, văn chương lỗi lạc.
Suốt 31 năm (1885-1916), TCV thiết tha đi theo tiếng gọi núi sông và lương tri thì ngần ấy năm bị cuốn vào vòng lao lý. Năm Nhâm Ngọ (1882), Hà thành thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, một năm sau vua Tự Đức băng hà, triều chính khuynh đảo, thế nước sục sôi phong trào chống Pháp. Ở Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên phong trào Văn Thân, Cần Vương và nghĩa quân rần rần nổi dậy “Bình Tây diệt tả”. Năm Ất Dậu (1885), kinh thành Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi bôn tẩu ra Quảng Trị.
Trước những biến cố dồn dập, cụ TCV không thể yên tâm theo đuổi khoa bảng trong cảnh đất nước loạn lạc, rối ren, dân tình ta thán. Cụ xin cha thoát ly vào chùa Cổ Lâm (làng An Định, Đại Lộc) khoác áo thầy tu để tiện mưu đồ cứu nước. Tại đây, cụ gặp Thừa Tô- người đồng chí cũng là anh vợ sau này. Năm Tân Mão (1891), TCV kết hôn với bà Võ Thị Quyền- người đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử, vào tù ra tội với chồng. Cũng trong năm này, Cổ Lâm tự bị bố ráp gắt gao, TCV lui về làng Đại Giang (Đại Lộc) mở trường dạy học. Tay cầm bút lông viết chữ nho cho môn đồ mà lòng dạ đau đáu về cảnh nước nhà điêu linh. Việc “quy ẩn” của cụ không qua được tai mắt bọn mật thám Pháp và bọn phò tá thực dân, cuối cùng vợ chồng đồng lòng dấn thân giúp nước, khăn gói vào đất võ Bình Định. Cụ lại mở trường dạy học, mượn phương thuật số để độ nhật qua ngày đồng thời chỉnh biên, truyền bá triết thuyết Trung thiên dịch-Trung thiên đạo đến mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên một làn gió “trung dung, trung hòa tứ giáo” mới rộng khắp từ Bình Định đến Phú Yên. Đây cũng là cơ hội để thu nạp nghĩa sĩ yêu nước, trong đó có chí sĩ Võ Trứ. Năm Mậu Tuất (1898), Võ Trứ lãnh đạo nhóm thầy chùa phối hợp với lực lượng quần chúng nổi lên đánh phá đồn Pháp. Phong trào bị dập tắt vì nghĩa binh chưa được chuẩn bị, huấn luyện, vũ khí lại qúa thô sơ chỉ có giáo mác, gậy gộc, tầm vông…và cao hơn cả vẫn là lòng yêu nước, căm thù giặc. Bọn bảo hộ gọi phong trào này là “giặc Rựa” hay “giặc Thầy chùa”. Võ Trứ lánh vào Phú Yên, nơi cài đặt sẵn dân binh, sau đó cụ TCV cũng theo vào, tiếp tục hoạt động chống Pháp ở khu rừng thuộc phủ Tây An, Đồng Xuân. Mùa hè năm đó, Võ Trứ một lần nữa giương cao ngọn cờ “Bình Tây diệt tả”, lại bị quân Pháp đè bẹp, trong lúc cụ TCV bị sốt rét nặng. Nhờ sự giúp đỡ của đồng bào dân tộc và các môn đệ, cụ ông, cụ bà và hai con được đưa về động Bà Thiêng chữa bệnh, một vùng hẻo lánh, xa làng mạc, dân cư. Khi cụ TCV vừa hồi phục lại đến lượt cụ bà giành giật giữa cái sống và chết của căn bệnh hiểm nghèo ấy. Mấy ngày sau, Võ Trứ đến thăm, mang theo ý nguyện- tự ra đầu thú để cứu vớt đồng bào, đồng chí đang bị thực dân Pháp truy lùng, thảm sát. Hai nhà trí sĩ đành gạt nước mắt tiễn biệt nhau vì không còn chọn lựa nào khả thi hơn.
Chuỗi kết nối vòng lao lý
Khởi nghĩa Mậu Tý ở Phú Yên thất bại, Võ Trứ bị tử hình, nhiều nghĩa sĩ, thầy chùa ở Bình Định, Phú Yên bị giam cầm, TCV bị hạ ngục, bị tra khảo dã man suốt 11 tháng nhưng không có chứng cứ, vì cụ Võ Trứ đã khẳng khái nhận tất cả về mình buộc bọn chúng phải thả cụ. Năm Canh Tý (1900), do ảnh hưởng của Trung thiên đạo- Trung thiên dịch , bố chính Bùi Xuân Huyến đang trấn nhậm Phú Yên một lần nữa ra lệnh tống giam TCV về tội mê hoặc, dùng “yêu thơ, yêu ngôn” xúi dân làm phiến loạn, tuyên án tử hình. Bản án tư bẩm về Triều đình Huế phê chuẩn. Riêng cụ bà và Nguyễn Nhuận (người vào sinh ra tử với ông bà TCV) bị bắt giam ở ngục Bình Định. Trong Triều có nhiều quan đại thần, quan văn-võ nể phục nhân cách của cụ TCV nên xin giảm án còn 3 năm, cụ bà và Nguyễn Nhuận là 2 năm.
Năm Mậu Thân (1908), ở Quảng Nam xảy ra vụ kháng thuế dữ dội ở Đại Lộc, hàng nghìn người kéo đến công sứ Quảng Nam, Hội An đòi xin xâu, giảm thuế. Ngọn lửa đấu tranh bùng lên toàn tỉnh, biến thành cao trào lan rộng đến Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An… Kết quả, ngoài cụ TCV còn có các chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Phan Thúc Duyện, Nguyễn Thành (Tiểu La), Châu Thơ Đồng (Châu Thượng Văn), Lê Bá Trinh, Trương Bá Huy và nhiều nhân sĩ khác bị Pháp tống giam vào nhà lao Hội An. Đau đớn, uất hận nhất là án tử hình dành cho cụ Trần Quý Cáp và Châu Thơ Đồng. Năm Kỷ Dậu (1909), cụ TCV bị đày ra Côn Đảo với án khổ sai chung thân.
Tháng chạp năm Quý Sửu (tháng 01.1914 ), cụ TCV và Trương Bá Huy được ân xá. Đoàn tụ gia đình mới 1 năm thì thân phụ qua đời, thêm một nỗi đau xé lòng. Cuối năm 1915, Thái Phiên mời TCV, Phan Thành Tài, Đỗ Tự (Q. Nam), Lê Ngung, Nguyễn Mậu, Lê Triết (Q.Ngãi), Nguyễn Chính (Q.Bình)… tham gia Việt Nam Quang Phục hội. TCV và Thái Phiên được ủy thác việc tiếp xúc với vua Duy Tân. TCV đã thảo một bức thư gởi vua Duy Tân, khơi gợi nỗi nhục mất nước, hài tội chính quyền bảo hộ và bọn chuyên quyền khuynh đảo hoàng tộc khiến vua Thành Thái bị thực dân Pháp bắt đi đày, mộ vua Tự Đức bị đào xới, vua Dục Đức, Hiệp Hòa bị truất ngôi và bị bức tử để kích thích lòng yêu nước của nhà vua. Đọc xong thư, vua Duy Tân tức tốc cho vời TCV và hẹn giờ, địa điểm gặp. Cuộc hội kiến diễn ra ở Hậu hồ (có sách ghi là hồ Tĩnh Tâm), được sự đồng tình, nhiệt liệt tán thưởng của nhà vua đối với kế sách cách mạng 1916. TCV và Thái Phiên còn được đại tá Pháp Harmandes, chỉ huy đồn Mang Cá làm nội ứng.
Do nóng lòng khởi nghĩa, vua Duy Tân ấn định đêm 03.5.1916 sẽ tổng nổi dậy. Lập tức, một đại hội toàn kỳ của Quang Phục Hội diễn ra ở kinh đô Phú Xuân (Huế) để kiểm tra lực lượng, công bố kế hoạch khởi nghĩa. Thế nhưng tên tay sai thông phán Trần Quang Trứ (thường gọi là Phán Trứ) mật báo với tòa Khâm sứ Pháp, dẫn tới cuộc khởi nghĩa thất bại. Vua Duy Tân bị cầm giữ ở đồn Mang Cá, TCV, Thái Phiên, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị tống giam ở nhà lao Hiế, đại tá Harmandes bị thảm sát. Ở Quảng Nam, cụ Phan Thành Tài bị tử hình, Lê Đình Dương, Lê Cơ, Trương Bá Huy, Đỗ Tự, Trần Chung…bị đày ra Côn Đảo, Thái Nguyên. Còn ở Quảng Ngãi, vì sự vô tình để lộ cơ mật của binh sĩ Đỗ An, Đỗ Huệ khiến hơn 200 nghĩa sĩ bị kết án khổ sai, cụ Tú Ngung, Cử Thụy tự sát. Riêng cụ Tú Ngung sau khi tự sát vẫn còn bị quân Pháp xử hành hình, bêu đầu ở Cam Lộ.
Mùa hè năm Bính Thìn (1917), vua Duy Tân bị đày sang đảo Réunion ở châu Phi, TCV, Thái Phiên, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị xử chém ở An Hòa, gần Huế ngày 16.4. Bính Thìn (17.5.1916).
TCV nhận cái chết bất tử ở tuổi 51, lưu lại một tấm gương yêu nước thương nòi, kiên trung cho mọi thế hệ con cháu mai sau. Trước giờ ra pháp trường, TCV còn sang sảng đọc bài thơ thất ngôn bát cú ở nhà lao Huế. Chúng tôi xin trích bản dịch bài thơ Chết chém thay nén hương thơm thương tiếc, kính phục bận anh hào đất Quảng.
Đứa nào muốn chết!Chết như chơi
Chết vị non sông, chết vị trời
Chết thảo bao nài xương thịt nát
Chết ngay nào nệ cổ đầu rơi
Chết trung tiếng để ngoài muôn dặm
Chết nghĩa danh lưu đến vạn đời
Chết được như vầy là hả lắm
Ta không sợ chết hỡi ai ơi!
Tài liệu tham khảo:
-Văn đàn bửu giám, Nam Ký, Trần Trung Viên, Dương Bá Trạc, Tản Đà- NXB Mặc Lâm, 1934.
- Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim- NXB Thanh Hóa, 2006.
- Các triều đại Việt Nam, Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng- NXB Thanh Niên, 2005.
- Danh nhân Quảng Nam, Hùynh Lý và nhóm biên soạn- NXB Đà Nẵng, 1987.
- Việt sử Đàng Trong, Phan Khoang, Khai Trí 1970.