NÉT TRÀO PHÚNG QUA THI CA
T
ừ trước đến nay, các nhà khảo cứu, các tâm lý gia Đông Tây
đều đồng ý rằng: “Cái cười là liều thuốc bổ” hay “Nếu muốn sống lâu, lúc nào cũng nên tươi cười vui vẻ”. Bình dân chút nữa ta thường nghe “Cười cho đời thêm tươi”. Hoặc trong bài “Gì Cũng Cười” đăng trong Đông Dương Tạp Chí, nhà văn tiền phong Nguyễn Văn Vĩnh đã nhận xét như sau: “Người Việt Nam ta có thói lạ là gì cũng cười.
Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười, hay cũng cười, dở cũng cười, phải cũng cười mà quấy cũng cười”.
Thật vậy, hơn bất cứ dân tộc nào trên thế giới, có lẽ người Việt Nam nở nụ cười nhiều nhất. Đối với dân tộc ta cái cười đã trở thành tiếng nói, một thứ tiếng nói đa hình, đa dạng nên người Việt có hàng trăm kiểu cười (Xin thưa đây là sự thật, người viết đã sưu tầm được khoảng hơn 400 kiểu cười của Việt Nam. Hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ cống hiến quý độc giả mấy trăm kiểu cười độc đáo nầy của Việt Nam ta).
Chính vì đa hình, đa dạng mà ta có rất nhiều kiểu cười như: cười âu yếm, cười bẽn lẽn, cười bí hiểm, cười bò lăn, cười bò càng, cười bỡn cợt, cười cay đắng, cười châm biếm, cười chế nhạo, cười cho đời thêm tươi, cười chớt nhả, cười chua chát, cười chúm chím, cười dã man, cười dê, cười dí dỏm, cười duyên, cười đen, cười đểu, cười đĩ thõa, cười đỏ, cười đú đởn, cười e thẹn, cười gằn, cười giòn tan, cười gượng, cười hả hê, cười hạ cấp, cười hảm tài, cười hề hề, cười híp mắt, cười Hoạn Thư, cười hô hố, cười hớn hở, cười hùn, cười hụt, cười ké, cười khả ố, cười khan, cười khanh khách, cười khiêm nhường, cười khinh bỉ, cười khinh khỉnh, cười khúc khích, cười lén, cười lố bịch, cười mất dạy, cười mất cảm tình, cười mỉa mai, cười mím chi, cười ngả ngớn, cười ngạo mạn, cười ngây thơ, cười ngoại giao, cười nham nhở, cười nhạo báng, cười nhớp nhúa, cười nhức nhối, cười phúc hậu, cười ranh mảnh, cười ruồi, cười sau lưng cười sặc sụa, cười sằng sặc, cười sâu sắc, cười sỗ sàng, cười Sở Khanh,, cười té đ.., cười tếu, cười tình, cười tục tĩu, cười thâm thúy, cười thẹn thùng, cười thô bỉ, cười trây trúa, cười trí thức, cười trước mặt, cười vô giáo dục, cười vô liêm sỉ, cười vô ý thức, cười vỡ bụng, cười vu vơ, cười xám, cười xí xọn, cười xỏ lá, cười xòa, cười xóc hông, cười ý nhị, cười yểu điệu...
Cái cười của ta không những bắt gặp qua cuộc sống hằng ngày mà nó còn bàng bạc trong văn chương để trang điểm nét duyên dáng cho nền văn học vốn đã phong phú lại càng phong phú hơn. Khi đề cập về thi ca trào phúng, trước hết ta phải kể đến những vần thơ trò phúng trong ca dao.:
Từ ngàn xưa, người Việt Nam đã hiểu rõ giá trị của tiếng cười. Người con trai chinh phục được cảm tình của người con gái cũng qua nụ cười:
Chẳng tham nhà ngói rung rinh,
Tham vì một nỗi anh xinh miệng cười.
Còn người con gái đã làm cho người con trai nhớ nhung, mê mệt cũng vì nụ cười:
Nàng về nàng nhớ ta chăng?
Nàng về ta nhớ hàm răng nàng cười.
Hay trúc tượng trưng cho người quân tử, cho nét đẹp thanh tao cho nên gặp người con gái đẹp, người con trai đã khéo mượn hình ảnh của cây trúc để tỏ lòng ngưỡng mộ pha một chút hài hước:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Hoặc:
Trúc xinh trúc mọc bờ ao,
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.
Và hài hước hơn một chút nũa thì:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em rớt xuống sình cũng xinh.
Mỹ nhân hơn hoa ở chỗ biết nói, biết cười, còn hoa hơn mỹ nhân ở chỗ tỏa hương thơm cho nên khi chàng trai bỗng bắt gặp ánh mắt, nụ cười của giai nhân thấp thoáng ở góc vườn nhà ai, chàng không những thấy mình ngây ngây vì hương hoa mà tâm hồn mình còn xao xuyến, rung động khi nhìn người trồng hoa:
Bông chi thơm lạ hỡi bông?
Thơm cây, thơm rễ, người trồng cũng thơm.
Ở vào lứa tuổi mới bước vào tình yêu, chàng trai nào cũng vậy thường hay nhút nhát vì thế muốn tỏ nỗi lòng thầm kín của mình với người con gái mình yêu là một khó khăn khôn tả. Thì đây, cái trào phúng giúp ta chuyên chở nỗi thầm kín đó đến đối tượng của tình yêu:
Thương em chẳng dám vô nhà,
Thập thò ngoài ngõ hỏi gà bán không?
Trai hay gái cũng vậy, khi mới bắt đầu bước vào tình trường cũng đều rụt rè, e thẹn. Nhất là con gái phải kín đáo đoan trang mặc dù “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”, nhưng cố che giấu tình yêu của mình bằng cách giả đò, giả bộ rất ư là dễ thương:
Vói tay ngắt lấy cọng ngò,
Thương anh muốn chết giả đò ngó lơ.
Trong tình yêu, có chàng rụt rè, có chàng tỏ tình văn hoa, phong nhã, lịch thiệp:
Anh đà có vợ con chưa,
Mà anh ăn nói đẩy đưa ngọt ngào?
Và người con trai hỏi lại:
Ngó lên mây bạc trời hồng,
Thương em hỏi thiệt có chồng hay chưa?
Người con trai hỏi thì người con gái mới mớm ý một cách ỡm ờ, đầy tình tứ:
Mận hỏi thì Đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Đọc qua những vần ca dao dân tộc trên ai mà không thấy tình cảm nhẹ nhàng, lai láng
len lén len lỏi vào tim!
Cũng trong tình trường, có người khéo hài hước ví tình yêu của mình với người con gái một cách ngồ ngộ mà khi đọc lên ai cũng tủm tỉm cười:
Em như cục cứt trôi sông,
Anh như chó đói đứng trông bên bờ.
Khi đã yêu, trai gái thường hay hẹn hò, hò hẹn để thủ thỉ, rù rì nhỏ to tâm sự cho vơi nỗi lòng:
Ngày ngày ra đứng đầu đình,
Chuyện trò to nhỏ có mình có ta.
Đó là ban ngày, còn ban đêm thì:
Đêm đêm ra đứng đầu nhà,
Nhỏ to trò chuyện có ta có mình.
Và cũng vì tình mà ta không ngại khó khăn:
Vì tình anh phải đi đêm,
Té năm bảy cái đất êm như giường.
Con ma của ái tình có mãnh lực vô cùng quyến rũ cho nên khi yêu nhau mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng leo cho dù khổ cực cũng không than, không trách và nếu rủi mà cuộc tình dang dở thì:
Chàng đi cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng chẳng than.
Ví dầu tình có dở dang,
Xin cho thiếp đón đò ngang thiếp dìa.
Cái cười của ca dao cũng không quên chế giễu những anh chàng trồng cây si hay những anh chàng mê gái:
Muốn người ta, người ta không muốn,
Xách cây dù đi xuống đi lên
Hay:
Có công xúc tép nuôi cò,
Nuôi cho cò lớn, co giò cò bay.
Hoặc:
Bắc thang lên hỏi ông Trời,
Có tiền cho gái có đòi được không?
Nét trào lộng cũng không quên châm biếm mấy người đàn ông có tật hay dê:
Dê xồm ăn lá khổ qua,
Ăn nhầm đậu đũa chết cha dê xồm.
Nhưng mấy ông có máu dê thì lại có cái lý của mấy ổng:
Đàn ông mà không dê dê,
Đàn bà không ngựa, phu thê không nồng.
Còn đối với những cặp vợ chồng tuổi tác chênh lệch nhau thì ca dao ta cũng có câu bông đùa:
Chồng già vợ trẻ là tiên,
Vợ già chồng trẻ là duyên nợ nần.
Và đôi khi cái trào phúng của ca dao đi quá xa khiến phái đẹp phải nhăn mặt, chau mày:
Gái Tầm Vu một xu ba đứa,
Trai Thủ Thừa cưỡi ngựa xuống mua.
Tuy nhiên phái kẹp tóc cũng phản ứng phe đực rựa bằng những lời lẽ không kém phần dí dỏm:
Ba đồng một mớ đàn ông,
Chị bỏ vào lồng chị xách chị chơi.
Hay một chàng trai tay xách cây dù đen đi ngang qua mấy cô thiếu nữ, bỗng một cô trong nhóm láu lỉnh ngâm lên hai câu ca dao rất “tếu” để trêu chọc khiến chàng trai đỏ mặt bước mau còn các cô thì xúm nhau cười khúc khích:
Tối qua em mất quần thâm,
Sáng nay em thấy người cầm ô đen.
Tình yêu nào mà chẳng có giận hờn, ghen tuông? Nhất là đối với phụ nữ, sự ghen tuông
là bản tánh tự nhiên của họ cho nên dân gian có câu:
Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
Có điều là mỗi người biểu lộ sự ghen tuông một cách khác nhau. Có người khi ghen thì đỏ mặt, tía tai, nổi giận đùng đùng:
Em đang bắc nước nấu xôi,
Nghe anh lấy vợ quăng nồi, đá vung.
Người khác khi nổi cơn ghen thì đầu óc vật vờ, tay chân bủn rủn, rụng rời:
Em đang vút nếp nấu xôi,
Nghe anh lấy vợ thúng trôi, nếp chìm.
Không phải tình yêu nào cũng đưa đến hạnh phúc theo sự ước muốn của mình. Nhiều khi các cô vớ phải những anh chồng không chịu chăm lo làm ăn mà còn chơi bời, cờ bạc nên than vắn, thở dài:
Chồng em nó chẳng ra gì,
Tổ tôm, xóc đĩa nó thì chơi hoang.
Nói ra xấu thiếp, hổ chàng,
Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà.
Đề cập đến cảnh vợ chồng thiếu hạnh phúc, ngày xưa xã hội ta có tục ép duyên con cái, nhất là con gái. Rồi các cụ lại còn tự hỗ trợ tục lệ hủ lậu của mình bằng câu “Cha mẹ đặt đâu, con cái ngồi đó”. Để đả phá tục lệ hủ lậu nầy, cao dao ta châm biếm:
Mẹ em tham thúng xôi dền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng: Đừng!
Mẹ hấm, mẹ hứ mẹ bưng ngay vào.
Bây giờ chồng thấp, vợ cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho vừa?
Câu “Cha mẹ đặt đâu, con cái ngồi đó” ngày nay đối với người Việt hải ngoại đã được sửa lại thành “Con cái đặt đâu, cha mẹ ngồi đó”.
Bên cạnh những cảnh thiếu hạnh phúc, cũng có những cái hạnh phúc trong thanh bần hay
“Một túp lều tranh, hai quả tim vàng” rất ư hài hước:
Râu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thấy có những anh chồng hay những chị vợ khù khờ, kém thông minh cho nên cái trào phúng của ta không quên bông đùa:
Một đêm quân tử nằm kề,
Còn hơn thằng ngốc vỗ về trăm năm.
Hay:
Ba năm ở với người đần,
Không bằng một chốc đứng gần người khôn.
Và:
Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.
Ngày xưa, mẹ chồng hà khắc với nàng dâu nên các cô gái ngày xưa rất “ớn” về làm dâu nhà chồng. Còn các nàng dâu ngày nay thì đã có các “Phong Trào Giải Phóng Phụ Nữ” đứng sau lưng hay “Đời Mới, Phụ Nữ Mới” vì thế các nàng thường ngâm nga câu:
Ai ơi chồng dữ thì lo,
Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
Và khi đã lập gia thất, giới phụ nữ ai mà không mơ ước có được những tấm chồng như sau:
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng thương chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm...
Sau ca dao, nói về trào phúng, ta phải đề cập đến hai nhà thơ tiêu biểu của làng thơ nầy, đó là Tú Xương và Hồ Xuân Hương. Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, người làng Vị Xuyên, đỗ Tú Tài nên được gọi là Tú Xương. Ông đã tự tả về mình một cách hóm hỉnh như sau:
Vị Xuyên có Tú Xương,
Dở dở lại ương ương.
Cao lâu thường ăn quịt,
Thổ đĩ hay chơi lường.
Hoặc:
Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được thứ nào hay thứ ấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Hay bài “Nhắn Chị Hằng” của ông không kém dí dỏm:
Tôi có nghe người ta nói rằng,
Nói rằng thằng Cuội ở cung trăng.
Lấy ai không lấy, lấy thằng Cuội,
Cũng gớm gan thay cái ả Hằng!
Còn nữ sĩ Hồ Xuân Hương thường được nhắc đến với những vần thơ “Lời tục, ý thanh”
qua các bài như “Cái Quạt”, “Cái Giếng”, “Trái Mít”, “Cờ Người” ...v...v... nhưng sử thực văn tài của nữ sĩ không chỉ cô đọng trong những vần thơ ấy mà còn ở những ý tưởng phóng khoáng, hài hước đầy ý nhị. Đọc thơ của nữ sĩ, trong nhiều bài ta văng vẳng nghe thây cha, cha kiếp, mặc mẹ, chém cha...
Rúc rích thây cha con chuột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
Hoặc:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.
Và hài hước hơn một chút thì:
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông,
Chúng bảo nhau rằng ấy ái uông...
Cái trào phúng của Hồ Xuân Hương còn phóng khoáng hơn nữa, người ta kể rằng nữ sĩ có dựng lên một cái quán nước buôn bán theo kiểu văn nghệ để có cơ hội tiếp xúc với giới văn nhân thi sĩ, đồng thời để... kén chồng. Một trong những người thường lui tới và chiếm được cảm tình của nữ sĩ là ông Phạm Đình Hổ, tục gọi là Chiêu Hổ. Cả hai đều mang bản tính phóng khoáng và ưa đùa, cho nên đùa lâu trai gái như rơm gần lửa thì bén. Một hôm cả hai đang ngồi bên bờ hồ ngắm cảnh, ngâm vịnh. Trước phong cảnh hữu tình, không biết ông Chiêu Hổ nổi hứng, “tay chân táy máy” thế nào khiến nữ sĩ nghiêm mặt trách móc:
Anh đồ tỉnh hay anh đồ say,
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này chị bảo cho mà biết,
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
Ông Chiêu Hổ hơi ngượng vì bị cự tuyệt, lại còn bị bà Hồ Xuân Hương lên lớp với giọng “đàn chị” song cũng gượng đáp bằng bốn câu thơ:
Nào ai tỉnh hay nào ai say,
Nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày.
Hang hùm ví chẳng không cho mó,
Sao có hùm con bổng chốc tay.
Nhưng rồi không thấy giai thoại nào nói đến ông Chiêu Hổ có “mó” được hay không mà chỉ biết về sau nữ sĩ lấy làm lẽ quan tri phủ Vĩnh Tường. Cuộc đời lẽ mọn có nhiều nỗi bất công cho nên, vốn mang sẵn tính hài hước, bà đã thốt lên những vần thơ dí dỏm:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.
Năm thì mười họa nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần có như không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy không.
Bất hạnh thay, cuộc tình lẽ mọn của nữ sĩ kéo dài chẳng được bao lâu thì ông phủ Vĩnh Tường ngàn năm vĩnh viễn ra đi. Về sau, nữ sĩ lại “bước thêm một bước nữa” với một ông cai tổng góa vợ, tục gọi là Tổng Cóc. Nhưng cũng chỉ vài năm sau là Cóc... chết! Từ đó nữ sĩ
“ở vậy” không lấy chồng nữa, chỉ vui với thiên nhiên, làm thơ vịnh cảnh, ngao du sơn thủy.
Thực ra, làng thơ trào phúng còn rất nhiều nhà thơ khác song không ai có tầm vóc hài hước bằng Tú Xương và Hồ Xuân Hương nên về sau thơ trào phúng đã trở nên loãng và nhạt dần. Tuy nhiên, trước năm 1975, người viết cũng thấy xuất hiện rải rảc những bài thơ trào phúng, phần lớn chỉ phát triển trong giới học trò. Trong số nầy có một vài bài khá dễ thương như:
Lần thứ chín em ngồi chép phạt,
Mấy mươi câu chép mãi chẳng xong.
Bà giám thị cầm lên chỉ thấy,
Chủ nhật nầy trẫm nhớ ái khanh không?
Hay:
Em nói rằng em chửa biết yêu,
Ngây thơ như mây trắng ban chiều.
Mây trắng chiều nay sao lại khóc,
Hay là mây trắng khổ vì yêu?
Hoặc:
Người ấy tặng tôi một cánh hồng,
Làm tôi khó nghĩ và bâng khuâng.
Nhận ư? Có lẽ còn hơi sớm,
Từ chối? Eo ơi, sợ mất lòng!
Bên cạnh đó, cũng trong giới học trò, còn xuất hiện khá nhiều bài thơ hoặc những đoạn thơ mang tính chất “Tếu” được nhái lại từ những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng như Thế Lữ,
Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Hồ Dzếnh, Nguyên Sa, T.T. KH...
Về thơ của Thế Lữ, nguyên văn như sau:
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm nghe ngày tháng trôi dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ,
Giương mắt bé, giễu oai linh rừng thẳm.
Thì được ai đó có óc trào lộng nhái lại:
Gặm một miếng thịt bò trong phở nóng,
Ta ngồi đây lần lượt nuốt rồi nhai.
Giương mắt lé, bĩu môi rồi tặc lưỡi,
Miệng chửi thề thịt dai quá đi thôi!
Còn thơ của Nguyễn Bính nguyên văn:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Tôi về lấy vợ thế là xong.
Vợ tôi không đẹp bằng em mấy,
Nhưng đẹp hơn em cả tấm lòng.
Thì được ai đó có óc trào phúng nhái lại:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về anh thiến phứt cho xong.
Cuộc đời nầy chẳng còn em nữa,
Thì có làm chi cũng như không!
Khi người con gái lên xe hoa về nhà chồng để lại cho người con trai bao nhiêu oan khổ vì tình. Vì tình mà tâm hồn điên đảo, vì tình mà áo nảo tâm can cho nên Hàn Mặc Tử đã mài mực viết:
Người đi một nửa hồn tôi chết,
Một nửa hồn kia bỗng dại khờ.
Thì dược nhái lại bằng hai câu thơ rất ư là tếu:
Người đi một nửa hồn tôi khoái,
Một nửa hồn kia hớn hở cười.
Hay nhẹ nhẹ một chút, bị người đẹp cho “leo cây” như nguyên văn thơ của Hồ Dzếnh:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Để lòng buồn anh dạo khắp trong sân.
Nhìn trên tay điếu thuốc cháy lụi dần,
Anh khẽ bảo: Gớm, sao mà “nhớ” thế!
được nhái lại:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Để lòng buồn anh dạo khắp trong sân.
Nhìn trên tay điếu thuốc cháy lụi dần,
Anh khẽ bảo: Gớm, sao mà “đểu” thế!
Và cũng thơ của Hồ Dzếnh:
Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở,
Đời hết vui khi đã vẹn câu thề.
thì được nhái lại bằng hai câu thơ rất hài hước:
Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở,
Lấy nhau rồi nham nhở lắm ai ơi!
Việt Nam ta có câu thành ngữ “sư tử Hà Đông” để chỉ những người đàn bà hung dữ, như ta thường nghe: “Bà đó dữ như sư tử Hà Đông”. Cho nên những đoạn thơ lãng mạn của Nguyên Sa nguyên văn:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát,
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng,
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng..
được nhái lại bằng những vần thơ khá hài hước:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát,
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.
Lụa Hà Đông đan bằng lông sư tử,
Em mặc vào giống sư tử Hà Đông.
Và nguyên văn thơ của T.T.KH:
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi...
thì được nhái lại bằng những vần thơ khó..... nín cười:
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc tóc tôi “hôi”.
Bảo rằng tóc em nhờn những “mỡ”,
Anh sợ đầu em sẽ “hói” thôi...
Càng bàn về thi ca trào phúng nói riêng, thi văn Việt Nam nói chung, chúng ta càng thấy sự giàu đẹp và phong phú của tiếng nước ta.
Càng hãnh diện về ngôn ngữ của dân tộc ta, chúng ta càng yêu mến quê hương chúng ta. Càng yêu mến quê hương, chúng ta càng cố gắng bảo tồn
và phát huy kho tàng văn hóa nước nhà mà ông cha chúng ta đã tốn nhiều công lao bồi đắp.
NÉT TRÀO PHÚNG QUA THI CA
T ừ trước đến nay, các nhà khảo cứu, các tâm lý gia Đông Tây đều đồng ý rằng: “Cái cười là liều thuốc bổ” hay “Nếu muốn sống lâu, lúc nào cũng nên tươi cười vui vẻ”. Bình dân chút nữa ta thường nghe “Cười cho đời thêm tươi”. Hoặc trong bài “Gì Cũng Cười” đăng trong Đông Dương Tạp Chí, nhà văn tiền phong Nguyễn Văn Vĩnh đã nhận xét như sau: “Người Việt Nam ta có thói lạ là gì cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười, hay cũng cười, dở cũng cười, phải cũng cười mà quấy cũng cười”.
Thật vậy, hơn bất cứ dân tộc nào trên thế giới, có lẽ người Việt Nam nở nụ cười nhiều nhất. Đối với dân tộc ta cái cười đã trở thành tiếng nói, một thứ tiếng nói đa hình, đa dạng nên người Việt có hàng trăm kiểu cười (Xin thưa đây là sự thật, người viết đã sưu tầm được khoảng hơn 400 kiểu cười của Việt Nam. Hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ cống hiến quý độc giả mấy trăm kiểu cười độc đáo nầy của Việt Nam ta).
Chính vì đa hình, đa dạng mà ta có rất nhiều kiểu cười như: cười âu yếm, cười bẽn lẽn, cười bí hiểm, cười bò lăn, cười bò càng, cười bỡn cợt, cười cay đắng, cười châm biếm, cười chế nhạo, cười cho đời thêm tươi, cười chớt nhả, cười chua chát, cười chúm chím, cười dã man, cười dê, cười dí dỏm, cười duyên, cười đen, cười đểu, cười đĩ thõa, cười đỏ, cười đú đởn, cười e thẹn, cười gằn, cười giòn tan, cười gượng, cười hả hê, cười hạ cấp, cười hảm tài, cười hề hề, cười híp mắt, cười Hoạn Thư, cười hô hố, cười hớn hở, cười hùn, cười hụt, cười ké, cười khả ố, cười khan, cười khanh khách, cười khiêm nhường, cười khinh bỉ, cười khinh khỉnh, cười khúc khích, cười lén, cười lố bịch, cười mất dạy, cười mất cảm tình, cười mỉa mai, cười mím chi, cười ngả ngớn, cười ngạo mạn, cười ngây thơ, cười ngoại giao, cười nham nhở, cười nhạo báng, cười nhớp nhúa, cười nhức nhối, cười phúc hậu, cười ranh mảnh, cười ruồi, cười sau lưng cười sặc sụa, cười sằng sặc, cười sâu sắc, cười sỗ sàng, cười Sở Khanh,, cười té đ.., cười tếu, cười tình, cười tục tĩu, cười thâm thúy, cười thẹn thùng, cười thô bỉ, cười trây trúa, cười trí thức, cười trước mặt, cười vô giáo dục, cười vô liêm sỉ, cười vô ý thức, cười vỡ bụng, cười vu vơ, cười xám, cười xí xọn, cười xỏ lá, cười xòa, cười xóc hông, cười ý nhị, cười yểu điệu...
Cái cười của ta không những bắt gặp qua cuộc sống hằng ngày mà nó còn bàng bạc trong văn chương để trang điểm nét duyên dáng cho nền văn học vốn đã phong phú lại càng phong phú hơn. Khi đề cập về thi ca trào phúng, trước hết ta phải kể đến những vần thơ trò phúng trong ca dao.:
Từ ngàn xưa, người Việt Nam đã hiểu rõ giá trị của tiếng cười. Người con trai chinh phục được cảm tình của người con gái cũng qua nụ cười:
Chẳng tham nhà ngói rung rinh,
Tham vì một nỗi anh xinh miệng cười.
Còn người con gái đã làm cho người con trai nhớ nhung, mê mệt cũng vì nụ cười:
Nàng về nàng nhớ ta chăng?
Nàng về ta nhớ hàm răng nàng cười.
Hay trúc tượng trưng cho người quân tử, cho nét đẹp thanh tao cho nên gặp người con gái đẹp, người con trai đã khéo mượn hình ảnh của cây trúc để tỏ lòng ngưỡng mộ pha một chút hài hước:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Hoặc:
Trúc xinh trúc mọc bờ ao,
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.
Và hài hước hơn một chút nũa thì:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em rớt xuống sình cũng xinh.
Mỹ nhân hơn hoa ở chỗ biết nói, biết cười, còn hoa hơn mỹ nhân ở chỗ tỏa hương thơm cho nên khi chàng trai bỗng bắt gặp ánh mắt, nụ cười của giai nhân thấp thoáng ở góc vườn nhà ai, chàng không những thấy mình ngây ngây vì hương hoa mà tâm hồn mình còn xao xuyến, rung động khi nhìn người trồng hoa:
Bông chi thơm lạ hỡi bông?
Thơm cây, thơm rễ, người trồng cũng thơm.
Ở vào lứa tuổi mới bước vào tình yêu, chàng trai nào cũng vậy thường hay nhút nhát vì thế muốn tỏ nỗi lòng thầm kín của mình với người con gái mình yêu là một khó khăn khôn tả. Thì đây, cái trào phúng giúp ta chuyên chở nỗi thầm kín đó đến đối tượng của tình yêu:
Thương em chẳng dám vô nhà,
Thập thò ngoài ngõ hỏi gà bán không?
Trai hay gái cũng vậy, khi mới bắt đầu bước vào tình trường cũng đều rụt rè, e thẹn. Nhất là con gái phải kín đáo đoan trang mặc dù “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”, nhưng cố che giấu tình yêu của mình bằng cách giả đò, giả bộ rất ư là dễ thương:
Vói tay ngắt lấy cọng ngò,
Thương anh muốn chết giả đò ngó lơ.
Trong tình yêu, có chàng rụt rè, có chàng tỏ tình văn hoa, phong nhã, lịch thiệp:
Anh đà có vợ con chưa,
Mà anh ăn nói đẩy đưa ngọt ngào?
Và người con trai hỏi lại:
Ngó lên mây bạc trời hồng,
Thương em hỏi thiệt có chồng hay chưa?
Người con trai hỏi thì người con gái mới mớm ý một cách ỡm ờ, đầy tình tứ:
Mận hỏi thì Đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Đọc qua những vần ca dao dân tộc trên ai mà không thấy tình cảm nhẹ nhàng, lai láng len lén len lỏi vào tim!
Cũng trong tình trường, có người khéo hài hước ví tình yêu của mình với người con gái một cách ngồ ngộ mà khi đọc lên ai cũng tủm tỉm cười:
Em như cục cứt trôi sông,
Anh như chó đói đứng trông bên bờ.
Khi đã yêu, trai gái thường hay hẹn hò, hò hẹn để thủ thỉ, rù rì nhỏ to tâm sự cho vơi nỗi lòng:
Ngày ngày ra đứng đầu đình,
Chuyện trò to nhỏ có mình có ta.
Đó là ban ngày, còn ban đêm thì:
Đêm đêm ra đứng đầu nhà,
Nhỏ to trò chuyện có ta có mình.
Và cũng vì tình mà ta không ngại khó khăn:
Vì tình anh phải đi đêm,
Té năm bảy cái đất êm như giường.
Con ma của ái tình có mãnh lực vô cùng quyến rũ cho nên khi yêu nhau mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng leo cho dù khổ cực cũng không than, không trách và nếu rủi mà cuộc tình dang dở thì:
Chàng đi cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng chẳng than.
Ví dầu tình có dở dang,
Xin cho thiếp đón đò ngang thiếp dìa.
Cái cười của ca dao cũng không quên chế giễu những anh chàng trồng cây si hay những anh chàng mê gái:
Muốn người ta, người ta không muốn,
Xách cây dù đi xuống đi lên
Hay:
Có công xúc tép nuôi cò,
Nuôi cho cò lớn, co giò cò bay.
Hoặc:
Bắc thang lên hỏi ông Trời,
Có tiền cho gái có đòi được không?
Nét trào lộng cũng không quên châm biếm mấy người đàn ông có tật hay dê:
Dê xồm ăn lá khổ qua,
Ăn nhầm đậu đũa chết cha dê xồm.
Nhưng mấy ông có máu dê thì lại có cái lý của mấy ổng:
Đàn ông mà không dê dê,
Đàn bà không ngựa, phu thê không nồng.
Còn đối với những cặp vợ chồng tuổi tác chênh lệch nhau thì ca dao ta cũng có câu bông đùa:
Chồng già vợ trẻ là tiên,
Vợ già chồng trẻ là duyên nợ nần.
Và đôi khi cái trào phúng của ca dao đi quá xa khiến phái đẹp phải nhăn mặt, chau mày:
Gái Tầm Vu một xu ba đứa,
Trai Thủ Thừa cưỡi ngựa xuống mua.
Tuy nhiên phái kẹp tóc cũng phản ứng phe đực rựa bằng những lời lẽ không kém phần dí dỏm:
Ba đồng một mớ đàn ông,
Chị bỏ vào lồng chị xách chị chơi.
Hay một chàng trai tay xách cây dù đen đi ngang qua mấy cô thiếu nữ, bỗng một cô trong nhóm láu lỉnh ngâm lên hai câu ca dao rất “tếu” để trêu chọc khiến chàng trai đỏ mặt bước mau còn các cô thì xúm nhau cười khúc khích:
Tối qua em mất quần thâm,
Sáng nay em thấy người cầm ô đen.
Tình yêu nào mà chẳng có giận hờn, ghen tuông? Nhất là đối với phụ nữ, sự ghen tuông là bản tánh tự nhiên của họ cho nên dân gian có câu:
Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
Có điều là mỗi người biểu lộ sự ghen tuông một cách khác nhau. Có người khi ghen thì đỏ mặt, tía tai, nổi giận đùng đùng:
Em đang bắc nước nấu xôi,
Nghe anh lấy vợ quăng nồi, đá vung.
Người khác khi nổi cơn ghen thì đầu óc vật vờ, tay chân bủn rủn, rụng rời:
Em đang vút nếp nấu xôi,
Nghe anh lấy vợ thúng trôi, nếp chìm.
Không phải tình yêu nào cũng đưa đến hạnh phúc theo sự ước muốn của mình. Nhiều khi các cô vớ phải những anh chồng không chịu chăm lo làm ăn mà còn chơi bời, cờ bạc nên than vắn, thở dài:
Chồng em nó chẳng ra gì,
Tổ tôm, xóc đĩa nó thì chơi hoang.
Nói ra xấu thiếp, hổ chàng,
Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà.
Đề cập đến cảnh vợ chồng thiếu hạnh phúc, ngày xưa xã hội ta có tục ép duyên con cái, nhất là con gái. Rồi các cụ lại còn tự hỗ trợ tục lệ hủ lậu của mình bằng câu “Cha mẹ đặt đâu, con cái ngồi đó”. Để đả phá tục lệ hủ lậu nầy, cao dao ta châm biếm:
Mẹ em tham thúng xôi dền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng: Đừng!
Mẹ hấm, mẹ hứ mẹ bưng ngay vào.
Bây giờ chồng thấp, vợ cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho vừa?
Câu “Cha mẹ đặt đâu, con cái ngồi đó” ngày nay đối với người Việt hải ngoại đã được sửa lại thành “Con cái đặt đâu, cha mẹ ngồi đó”.
Bên cạnh những cảnh thiếu hạnh phúc, cũng có những cái hạnh phúc trong thanh bần hay “Một túp lều tranh, hai quả tim vàng” rất ư hài hước:
Râu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thấy có những anh chồng hay những chị vợ khù khờ, kém thông minh cho nên cái trào phúng của ta không quên bông đùa:
Một đêm quân tử nằm kề,
Còn hơn thằng ngốc vỗ về trăm năm.
Hay:
Ba năm ở với người đần,
Không bằng một chốc đứng gần người khôn.
Và:
Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.
Ngày xưa, mẹ chồng hà khắc với nàng dâu nên các cô gái ngày xưa rất “ớn” về làm dâu nhà chồng. Còn các nàng dâu ngày nay thì đã có các “Phong Trào Giải Phóng Phụ Nữ” đứng sau lưng hay “Đời Mới, Phụ Nữ Mới” vì thế các nàng thường ngâm nga câu:
Ai ơi chồng dữ thì lo,
Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
Và khi đã lập gia thất, giới phụ nữ ai mà không mơ ước có được những tấm chồng như sau:
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng thương chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm...
Sau ca dao, nói về trào phúng, ta phải đề cập đến hai nhà thơ tiêu biểu của làng thơ nầy, đó là Tú Xương và Hồ Xuân Hương. Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, người làng Vị Xuyên, đỗ Tú Tài nên được gọi là Tú Xương. Ông đã tự tả về mình một cách hóm hỉnh như sau:
Vị Xuyên có Tú Xương,
Dở dở lại ương ương.
Cao lâu thường ăn quịt,
Thổ đĩ hay chơi lường.
Hoặc:
Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được thứ nào hay thứ ấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Hay bài “Nhắn Chị Hằng” của ông không kém dí dỏm:
Tôi có nghe người ta nói rằng,
Nói rằng thằng Cuội ở cung trăng.
Lấy ai không lấy, lấy thằng Cuội,
Cũng gớm gan thay cái ả Hằng!
Còn nữ sĩ Hồ Xuân Hương thường được nhắc đến với những vần thơ “Lời tục, ý thanh” qua các bài như “Cái Quạt”, “Cái Giếng”, “Trái Mít”, “Cờ Người” ...v...v... nhưng sử thực văn tài của nữ sĩ không chỉ cô đọng trong những vần thơ ấy mà còn ở những ý tưởng phóng khoáng, hài hước đầy ý nhị. Đọc thơ của nữ sĩ, trong nhiều bài ta văng vẳng nghe thây cha, cha kiếp, mặc mẹ, chém cha...
Rúc rích thây cha con chuột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
Hoặc:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.
Và hài hước hơn một chút thì:
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông,
Chúng bảo nhau rằng ấy ái uông...
Cái trào phúng của Hồ Xuân Hương còn phóng khoáng hơn nữa, người ta kể rằng nữ sĩ có dựng lên một cái quán nước buôn bán theo kiểu văn nghệ để có cơ hội tiếp xúc với giới văn nhân thi sĩ, đồng thời để... kén chồng. Một trong những người thường lui tới và chiếm được cảm tình của nữ sĩ là ông Phạm Đình Hổ, tục gọi là Chiêu Hổ. Cả hai đều mang bản tính phóng khoáng và ưa đùa, cho nên đùa lâu trai gái như rơm gần lửa thì bén. Một hôm cả hai đang ngồi bên bờ hồ ngắm cảnh, ngâm vịnh. Trước phong cảnh hữu tình, không biết ông Chiêu Hổ nổi hứng, “tay chân táy máy” thế nào khiến nữ sĩ nghiêm mặt trách móc:
Anh đồ tỉnh hay anh đồ say,
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này chị bảo cho mà biết,
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
Ông Chiêu Hổ hơi ngượng vì bị cự tuyệt, lại còn bị bà Hồ Xuân Hương lên lớp với giọng “đàn chị” song cũng gượng đáp bằng bốn câu thơ:
Nào ai tỉnh hay nào ai say,
Nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày.
Hang hùm ví chẳng không cho mó,
Sao có hùm con bổng chốc tay.
Nhưng rồi không thấy giai thoại nào nói đến ông Chiêu Hổ có “mó” được hay không mà chỉ biết về sau nữ sĩ lấy làm lẽ quan tri phủ Vĩnh Tường. Cuộc đời lẽ mọn có nhiều nỗi bất công cho nên, vốn mang sẵn tính hài hước, bà đã thốt lên những vần thơ dí dỏm:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.
Năm thì mười họa nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần có như không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy không.
Bất hạnh thay, cuộc tình lẽ mọn của nữ sĩ kéo dài chẳng được bao lâu thì ông phủ Vĩnh Tường ngàn năm vĩnh viễn ra đi. Về sau, nữ sĩ lại “bước thêm một bước nữa” với một ông cai tổng góa vợ, tục gọi là Tổng Cóc. Nhưng cũng chỉ vài năm sau là Cóc... chết! Từ đó nữ sĩ “ở vậy” không lấy chồng nữa, chỉ vui với thiên nhiên, làm thơ vịnh cảnh, ngao du sơn thủy.
Thực ra, làng thơ trào phúng còn rất nhiều nhà thơ khác song không ai có tầm vóc hài hước bằng Tú Xương và Hồ Xuân Hương nên về sau thơ trào phúng đã trở nên loãng và nhạt dần. Tuy nhiên, trước năm 1975, người viết cũng thấy xuất hiện rải rảc những bài thơ trào phúng, phần lớn chỉ phát triển trong giới học trò. Trong số nầy có một vài bài khá dễ thương như:
Lần thứ chín em ngồi chép phạt,
Mấy mươi câu chép mãi chẳng xong.
Bà giám thị cầm lên chỉ thấy,
Chủ nhật nầy trẫm nhớ ái khanh không?
Hay:
Em nói rằng em chửa biết yêu,
Ngây thơ như mây trắng ban chiều.
Mây trắng chiều nay sao lại khóc,
Hay là mây trắng khổ vì yêu?
Hoặc:
Người ấy tặng tôi một cánh hồng,
Làm tôi khó nghĩ và bâng khuâng.
Nhận ư? Có lẽ còn hơi sớm,
Từ chối? Eo ơi, sợ mất lòng!
Bên cạnh đó, cũng trong giới học trò, còn xuất hiện khá nhiều bài thơ hoặc những đoạn thơ mang tính chất “Tếu” được nhái lại từ những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng như Thế Lữ, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Hồ Dzếnh, Nguyên Sa, T.T. KH...
Về thơ của Thế Lữ, nguyên văn như sau:
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm nghe ngày tháng trôi dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ,
Giương mắt bé, giễu oai linh rừng thẳm.
Thì được ai đó có óc trào lộng nhái lại:
Gặm một miếng thịt bò trong phở nóng,
Ta ngồi đây lần lượt nuốt rồi nhai.
Giương mắt lé, bĩu môi rồi tặc lưỡi,
Miệng chửi thề thịt dai quá đi thôi!
Còn thơ của Nguyễn Bính nguyên văn:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Tôi về lấy vợ thế là xong.
Vợ tôi không đẹp bằng em mấy,
Nhưng đẹp hơn em cả tấm lòng.
Thì được ai đó có óc trào phúng nhái lại:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về anh thiến phứt cho xong.
Cuộc đời nầy chẳng còn em nữa,
Thì có làm chi cũng như không!
Khi người con gái lên xe hoa về nhà chồng để lại cho người con trai bao nhiêu oan khổ vì tình. Vì tình mà tâm hồn điên đảo, vì tình mà áo nảo tâm can cho nên Hàn Mặc Tử đã mài mực viết:
Người đi một nửa hồn tôi chết,
Một nửa hồn kia bỗng dại khờ.
Thì dược nhái lại bằng hai câu thơ rất ư là tếu:
Người đi một nửa hồn tôi khoái,
Một nửa hồn kia hớn hở cười.
Hay nhẹ nhẹ một chút, bị người đẹp cho “leo cây” như nguyên văn thơ của Hồ Dzếnh:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Để lòng buồn anh dạo khắp trong sân.
Nhìn trên tay điếu thuốc cháy lụi dần,
Anh khẽ bảo: Gớm, sao mà “nhớ” thế!
được nhái lại:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Để lòng buồn anh dạo khắp trong sân.
Nhìn trên tay điếu thuốc cháy lụi dần,
Anh khẽ bảo: Gớm, sao mà “đểu” thế!
Và cũng thơ của Hồ Dzếnh:
Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở,
Đời hết vui khi đã vẹn câu thề.
thì được nhái lại bằng hai câu thơ rất hài hước:
Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở,
Lấy nhau rồi nham nhở lắm ai ơi!
Việt Nam ta có câu thành ngữ “sư tử Hà Đông” để chỉ những người đàn bà hung dữ, như ta thường nghe: “Bà đó dữ như sư tử Hà Đông”. Cho nên những đoạn thơ lãng mạn của Nguyên Sa nguyên văn:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát,
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng,
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng..
được nhái lại bằng những vần thơ khá hài hước:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát,
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.
Lụa Hà Đông đan bằng lông sư tử,
Em mặc vào giống sư tử Hà Đông.
Và nguyên văn thơ của T.T.KH:
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi...
thì được nhái lại bằng những vần thơ khó..... nín cười:
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc tóc tôi “hôi”.
Bảo rằng tóc em nhờn những “mỡ”,
Anh sợ đầu em sẽ “hói” thôi...
Càng bàn về thi ca trào phúng nói riêng, thi văn Việt Nam nói chung, chúng ta càng thấy sự giàu đẹp và phong phú của tiếng nước ta. Càng hãnh diện về ngôn ngữ của dân tộc ta, chúng ta càng yêu mến quê hương chúng ta. Càng yêu mến quê hương, chúng ta càng cố gắng bảo tồn và phát huy kho tàng văn hóa nước nhà mà ông cha chúng ta đã tốn nhiều công lao bồi đắp.