Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
        



Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn (Chí Linh)

CHÍ LINH BÁT CỔ QUA TƯ LIỆU VĂN BIA

  


C hí Linh bát cổ là 8 di tích điển hình của Chí Linh, đồng thời cũng là 8 di tích quan trọng của tỉnh, quan hệ đến nhiều nhân vật và sự kiện lịch sử nổi tiếng của dân tộc. Trong buổi giao lưu giữa các nhà sử học với học sinh, sinh viên tại khu di tích Phượng Hoàng, nơi thờ nhà giáo Chu Văn An, tối 20-12-2008 (25-11-Mậu Tý), chúng tôi có đưa ra một câu hỏi:

- Ai có thể trả lời được Bát cổ của Chí Linh tên là gì, ở đâu và đôi điều về lịch sử di tích ?.

Kết quả không có ai trả lời ! Có thể có em biết mà không nói, cũng có thể không biết thực sự. Thiếu sót này một phần do chúng ta thiếu theo dõi chương trình phát thanh, truyền hình địa phương cũng như các ấn phẩn của địa phương đã phát hành và lưu trữ trong các thư viện. Khoảng 20 năm qua đã có một số tác giả giới thiệu Bát cổ trên báo chí, phim ảnh ở địa phương và trung ương, nhưng vẫn không chính xác trên một số sự kiện. Điển hình là có cán bộ nghiên cứu viết về Chí Linh Bát cổ in trên báo chí sai đến 5 di tích, còn lại chỉ đúng về địa danh nhưng không chuẩn về nội dung. Tại sao lại như vậy ? Trước hết do chúng ta không thực hiện nghiêm túc quy trình của việc nghiên cứu. Để làm rõ lịch sử 8 di tích đặc biệt này, chúng tôi giới thiệu khái lược Chí Linh Bát cổ, căn cứ vào bia ký, thư tịch và điền dã khảo cổ học với những phát hiện mới, tạo điều kiện cho việc nghiên cứu sâu trên từng di tích, giúp cho chính quyền địa phương và các ngành hữu quan có phương hướng bảo tồn và phát huy tác dụng lâu dài. Vậy Chí Linh Bát cổ tên là gì, ở đâu, nội dung lịch sử như thế nào, được ai tuyển chọn và bắt đầu từ bao giờ ? Để nghiên cứu vấn đề này, hiện nay có 3 nguồn tư liệu căn bản: Sách Chí Linh phong vật chí, Bia Chí Linh Bát cổ và tài liệu điền dã, khảo cổ học tại các di tích. Căn cứ nguồn tư liệu đã biết, Chí Linh Bát cổ gồm 8 di tích đại diện cho 8 loại hình của huyện Chí Linh ở thế kỷ XVIII, được sắp xếp theo thứ tự như sau.

1- Trạng nguyên cổ đường; 2- Tiều ẩn cổ bích; 3- Dược Lĩnh cổ viên; 4- Nhạn Loan cổ độ; 5- Thượng tể cổ trạch; 6- Chí Linh cổ thành; 7- Vân Tiên cổ động; 8- Tinh Phi cổ tháp

Như vậy bát cổ gồm 8 loại hình kiến trúc cổ khác nhau: Nhà dạy học, Nhà ở, Nơi ẩn cư, Động trong chùa, Thành trì quân sự, Tháp mộ, Vườn trên núi thuốc, Bến đò. Đây đều là những di tích điển hình của huyện Chí Linh, còn đến TK XVIII. Đây là những di tích quan hệ đến nhiều nhân vật lịch sử và sự kiện quan trong của đất nước, không riêng Chí Linh. Vậy Chí Linh bát cổ được bình chọn từ bao giờ ?

Căn cứ Bia Chí Linh Bát cổ hiện còn tại Văn chỉ Nam Sách, nay thuộc thôn Linh Khê, xã Thanh Quang huyện Nam Sách, thì vào thời Vĩnh Thọ (1658-1661) đến Cảnh Hưng (1740-1786), nhiều nhân sĩ đương thời đã có các tác phẩm viết về những cảnh đẹp của Chí Linh, trong đó có sách Thanh Hiên Khải Phủ Nguyễn Chí Hoà cẩn án các sách thành Bát cổ. Thanh Hiên Khải Phủ Nguyễn Chí Hoà là một nhân vật nổi tiếng đương thời, theo thông lệ thì chỉ có những nhân vật tiêu biểu người xưa mới dùng chữ phủ, như Không Tử gọi là Ni Phủ. Vào dịp tiết Trung thu, năm ất Mão (1795), Thanh Hiên nhân chuyến đi du ngoạn những cổ tích của Chí Linh, cẩn thận mà ghi lại, tặng các nho sĩ địa phương. Các vị thượng lão và quan chức của huyện bàn định, kính cẩn lập bia để ghi những bài thơ ca ngợi bát cổ do Thanh Hiên cẩn chí. Tháng Giêng năm Mậu Ngọ (1798), lấy đá ở động Dương Nham để tạo bia, tháng 11 năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) bắt đầu dựng bia ở gò Hạc, xã Linh Khê, gần nhà học, nhưng việc khắc bia đến ngày rằm tháng 6 năm Nhâm Tuất, Gia Long nguyên niên (1802) mới hoàn thành. Vậy thơ về Chí Linh Bát cổ đã được sáng tác từ năm 1795. Năm 1798, bắt đầu được khắc lên bia. Những người tham gia vào công viêc này có Thanh Hiên Khải Phủ Nguyễn Chí Hoà là một tác gia (trong bia ghi là gia quyển, có thể hiểu người trước tác thơ văn). Tấm bia bị vùi lấp trong chiến tranh. Khoảng năm 1995, khi làm đường tại địa phương, nhân dân làng Linh Khê phát hiện tấm bia cổ, di về Văn chỉ Linh Khê. Sau khi nghiên cứu, phiên dịch mới biết là Bia Chí Linh Bát Cổ. Tuy mới gần 200 năm, nhưng không được bảo quản chu đáo, chất lượng đá lại kém nên bia đã mòn mờ nhiều mảng, rất khó đọc, nhưng rất may thác bản văn bia được làm trước Cách mạng tháng Tám đến nay vẫn còn nên đã khôi phục được căn bản văn bia. Căn cứ Chí Linh phong vật chí, do gia đình họ Đào Ngọc, xã An Lạc, huyện Chí Linh (nay là thị xã Chí Linh) sao lục năm Bảo Đại 11 (1935), tháng 3 nhuận. Như vậy đến năm 1935 đã có cuốn Chí Linh phong vật chí. Sách viết từ bao giờ chưa rõ, nhưng không thể trước năm 1802, vì trong đó có chép nội dung bia Chí Linh Bát cổ. Từ hai nguồn tư liệu trên, chúng tôi đã điền dã nghiên cứu, tiến hành khai quật một số di tích, kết quả rất khả quan, góp phần làm sáng tỏ một số di tích.

1- Trạng nguyên cổ đường, tức ngôi nhà dạy học của Trạng nguyễn Mạc Đĩnh Chi (1273-1346). Ông người xã Long Động, dòng dõi Trạng nguyên Mạc Hiển Tích, được đào tạo cơ bản từ nhỏ tại Quốc Tử giám, đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Dần, năm Hưng Long 12(1304). Mạc Đĩnh Chi là nhân vật kỳ tài trong lịch sử văn học nước nhà, niềm tự hào của trí thức Việt Nam. Bản tính ông ngay thẳng, cần mẫn, liêm khiết, được người đương thời trọng vọng, làm quan đến chức Tả bộc xạ, Nhập nội hành khiển thời Trần Hiến Tông, tức Tể tướng, quan đầu triều.

Cuối đời, ông về quê, dạy học. Buổi đầu dậy tại chùa Quất Lâm, sau dựng trường riêng, gần gò Hạc, tại xã Linh Khê (Chí Linh), nay thuộc xã Thanh Quang, huyện Nam Sách. Những di tích chùa Quất Lâm, Gò Hạc, Văn chỉ Linh Khê vẫn còn. Đến cuối TK XVIII, khi tuyển chọn Chí Linh Bát cổ, di tích này được xếp thứ nhất. Nơi dạy học sau thành cơ sở của Hội Tư văn và Tư võ của huyện, tức địa điểm Văn chỉ Linh Khê hiện nay.

2- Tiều ẩn cổ bích: nghĩa đen là bức vách, bức tường cổ quây quanh nhà của Tiều ẩn, tức ngôi nhà ẩn dật của nhà giáo Chu Văn An. Chu Văn An nguyên có tên là Chu An, tự là Linh Triệt, sinh ngày 25 tháng 8 năm Nhâm Thìn, niên hiệu Trùng Hưng thứ 8 (1292), tại thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, nay thuộc Hà Nội.

Thuở nhỏ, Chu An sớm có nghị lực, chuyên cần học tập, nghiêm khắc sửa mình. Khi trưởng thành ông đạt đến mức thông kinh bác sử, danh lợi không màng, tài danh đức độ hơn hẳn các nho sĩ đương thời. Ông dựng nhà ở Huỳnh Cung, mảnh đất gần thôn Văn làm nơi dạy học. Học trò cả nước kéo đến xin học rất đông, trong số đó nhiều người hiển đạt. Đời vua Minh Tông, ông mới ngoài 20 tuổi đã được mời làm Tư nghiệp quốc tử giám dạy thái tử và con quan lại học tập. Trên bia Chí Linh bát cổ ghi ông là Tiến sĩ. Trần Dụ Tông lên làm vua năm Tân Tỵ (1341) là người ham vui chơi, trễ nải chính sự, bề tôi nhiều người vi phạm phép nước, ông nhiều lần khuyên vua sửa trị nhưng vua không nghe. Ông bèn dâng sớ chém 7 tên nịnh thần đều là những kẻ có thế lực trong triều được vua yêu quý, đương thời gọi là Thất trảm sớ. Tuy thế vua vẫn bỏ qua không xét. Ông trao trả mũ áo từ quan về núi Phượng Hoàng, xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, dựng nhà dạy học, tìm cây thuốc chữa bệnh, làm thơ, viết sách lưu cho hậu thế. Ông đặt cho mình cái tên mới Tiều ẩn- Một tiều phu ẩn dật trong rừng. Ông sống ở đây khoảng 10 năm cuối đời và tạ thế vào ngày 26 tháng 11 năm Nhâm Tuất, Thiệu Khánh thứ nhất (1370), được tôn vinh là Đại Việt Nho tôn.

Nơi ẩn dật của ông được học trò dựng đền thờ, có tên là Phượng Hoàng linh từ. Đền xây bằng đá khối, gồm 3 gian hậu cung và 5 gian tiền tế. Trong kháng chiến chống Pháp, tiền tế bị đạn giặc bắn đổ, nhưng hậu cung vẫn còn. Di tích đó gọi là Tiều ẩn cổ bích, nay thuộc phường Văn An, thị xã Chí Linh. Di tích được khôi phục năm 1997, xếp hạng Quốc gia năm 1998, nay đã được tôn tạo khá khang trang.

3- Dược Lĩnh cổ viên: Vườn cổ trên núi thuốc, đây chỉ vườn cây thuốc trên Dược Sơn. Sau cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ nhất (1258), Trần Hưng Đạo đóng đaị bản doanh tại Vạn Kiếp, sai Phạm Ngũ Lão trồng cây thuốc trên núi phía nam thung lũng Vạn Kiếp, sau gọi đó là Dược Sơn, tức núi trồng cây làm thuốc để chữ bệnh và vết thương cho quân sĩ. Trên Dược Sơn có một vườn cổ, nhiều cây thuốc quý, đời sau gọi là Dược Lĩnh cổ viên. Nay là khuôn viên trước chùa Nam Tào, khu di tích Kiếp Bạc, thuộc xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh. Di tích được xếp hạng Quốc gia từ năm 1962, nhiều công trình ở đâu đã được tôn tạo, nhưng vườn thuốc nam thì chưa khôi phục được.

4- Nhạn Loan cổ độ, tức bến cổ Nhạn Loạn, nay là bến Triều Dương, thuộc xã Nhân Huệ. Đây là một bến đò có tích từ thời Hùng Vương. Chí Linh phong vật chí cho biết, Thục An Dương vương bị quân Triệu Đà truy đuổi, ông chạy qua bên đò này. Trần Khánh Dư khi thất sủng cũng từng bán than tại đây. Đối ngạn với Nhạn Loan qua sông Lục Đầu là bến Bình Than, thuộc ngã ba sông Đuống và Lục Đầu. Đây là những địa danh nổi tiếng trong lịch sử dân tộc hàng ngàn năm trước, nơi áo nhiều dinh thự của tiền triêu, quê hương nhiều nhân vật lịch sử. ở đây còn một khu chợ lớn bên bến đò, nhưng nay ít được quan tâm.

5- Thượng tể cổ trạch: Nhà cũ của quan Thượng Tể. Trần Quốc Chẩn là em vua Trần Minh Tông, sinh khoảng những năm 70 của TK XIII. Ông là người có tài đức, được triều đình nể phục, từng giữ nhiều trọng trách trong đời vua Anh Tông và Minh Tông. Năm Khai Thái thứ nhất (1324) được phong chức Nhập nội Quốc phụ Thái tể, chức quan đầu triều. Ông có thái ấp ở Kiệt Đặc (Chí Linh) rộng tới 72 mẫu, có nhà riêng ở giữa cánh đồng, cách sông Kinh Thầy khoảng 100m về phía bắc. Năm Khai Thái thứ 5(1328), Địa Việt sử ký ghi: Bấy giờ vua (Minh Tông) ở ngôi 15 năm, tuổi đã cao mà chưa lập đưộc Thái tử. Quốc Chẩn là cha của Hoàng hậu, ông khuyên vua chờ Hoàng hậu sinh con trai mới lập Thái tử. Cương Đông Văn Hiến hầu là con Tá thánh Thái sư Trần Nhật Duật, muốn đánh đổ Hoàng hậu để lập Hoảng tử Vượng (Hiến Tông), bèn đem 100 lạng vàng đút lót cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Phẫu, vu cho Quốc Chẩn phản loạn. Vua tin là thật, cho bắt Quốc Chẩn giam vào chùa Tư Phúc, rồi đem việc ấy hỏi Thiếu bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung cùng cánh với Văn Hiến hầu, lại đồng hương với mẹ Vượng, liền trả lời: "Bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó". Vua liền cấm tuyệt không cho Quốc Chẩn ăn uống, bắt phải tự tử. Hoàng hậu thương cha, mỗi lần vào thăm, lấy áo tẩm nước, vắt cho cha uống, nhưng không cứu được. Quốc Chẩn uống xong thì chết. Vụ này những người liên luỵ bị xử tử đến hơn trăm, người nào trước khi chết đều kêu oan, nhưng không ai cứu được.

Vài năm sau, vợ cả vợ lẽ của Phẫu ghen nhau, đem chuyện Văn Hiến hầu đút lót vàng tâu vua. Phẫu bị hạ ngục. Ngục quan là Lê Huy là người cương trực, xét xử ngay hôm đó. Phẫu bị tội lăng trì, tức bị xẻo từng miếng thịt để cho chết dần dần. Chưa kịp hành hình thì gia nô của Thiệu Võ, con trai của Quốc Chẩn đã ăn sống hết thịt của nó. Văn Hiến là con nhà hoàng tộc được miễn tội nhưng bị giáng xuống làm thường dân, xoá tên trong sổ hoàng tộc.

Sau khi mất, căn nhà cũ của Quốc Chẩn lập thành đền thờ ông. Trải qua bảy thế kỷ, đền đã nhiền phen hư hại. Năm 1997, theo chỉ đạo của ngành văn hoá, nhân dân địa phương tái tạo đền thờ, năm 2003 được nhà nước xếp hạng Quốc gia. Di tích nay thuộc thôn Nẻo, phường Chí Minh, thị xã Chí Linh.

6- Chí Linh cổ thành: Tức Thành cổ Chí Linh, sau gọi là Thành Phao Sơn, nay thuộc khu nhà máy Nhiệt điện Phả Lại. Thành này có từ thời Trần. Khi quân Minh xâm lược, chúng cố thủ ở đây đến khi thất bại hoàn toàn (1428). Thời Mạc (TK XVI), thành được gia cố và trở thành căn cứ quân sự quan trọng cho các thời đại sau. Khi Pháp xâm lược, chúng biến đây thanh khu quân sự (secteur), có trường đào tạo hạ sĩ quan. Thành bị san lấp khi xây nhà máy Nhiệt điện. Rất tiếc trước khi san lấp thành hào này, công trình chưa được nghiên cứu thấu đáo, vì vậy nay rất thiếu tư liệu nghiên cứu.

7- Vân Tiên cổ động: Tức Động cổ Vân Tiên, một công trình kiến trúc thanh lịch và thoát tục năm trong khuôn viên chùa Huyền Thiên, một ngôi chùa lớn, nổi tiếng từ thời Lý-Trần, thuộc đất Kiệt Đặc (Chí Linh). Tương truyền sư Huyền Thiên luyện thuốc trường sinh ở đây. Nhà sư Kiều Bản Tịnh (1100-1176), thuộc hệ thứ tám của thiền sư Việt Nam, quê hương Phù Diễn, quận Vĩnh Khang. Thuở nhỏ hiếu học, hiểu sâu lẽ sinh tử huyền vi của đạo Phật, sửa mình theo đạo đức của Nho gia, xuất gia đắc đạo với thiền sư Mãn Giác ở chùa Giao Nguyên. Năm Đại Định thứ 2 (1141), sư đến trụ trì tại một ngôi chùa trên núi Kiệt Đặc (Chi Linh). Phải chăng đó là chùa Huyền Thiên, một ngôi chùa danh tiếng đương thời. Kiến trúc chùa và động đã mất từ trước cách mạng, nay chỉ còn một ngôi tháp và một bia nhỏ cùng những phế tích gạch hoa, ngói mũi hài, tảng hoa sen, bậc nền, chứng minh cho một công trình hoành tráng một thời. Gần đây nhân dân địa phương mới xây dựng một ngôi chùa nhỏ, hy vọng bảo tồn được khu di tích.

8- Tinh Phi cổ tháp: Tức tháp mộ Tinh Phi Nguyễn Thị Duệ. Nguyễn Thị Duệ còn có tên là Du, Ngọc Toàn, tên vua ban là Tinh Phi, sinh khoảng năm 1574, tại Kiệt Đặc (nay thuộc phường Văn An, thị xã Chí Linh). Từ nhỏ, bà đã chứng tỏ là một người hiếu học, có bản lĩnh và quyết đoán, được gia đình mời thày dạy học. Năm Quang Hưng 16 tức Khang Hựu nguyên niên(1593), quân Lê Trịnh tàn phá vùng Hải Dương mà người chỉ huy ở đây là Trịnh Tùng, lúc đó đang là Trưởng Quốc công. Nhà Mạc chạy lên Cao Bằng lập căn cứ. Bà cùng cha chạy lên Cao Bằng theo nhà Mạc vào năm 1594.

Tại Cao Bằng, bà giả trai đi thi Hội và đỗ đầu. Đây là người con gái đầu tiên của Việt Nam thi đỗ tiến sĩ. Khi vào dự yên, vua Mạc phát hiện bà là gái, ông rất cảm phục, đã không trị tội mà còn lấy làm vợ. Khi quân Lê-Trinh tấn công Cao Bằng (khoảng năm 1625), bà bị bắt giải về Thăng Long, được chúa Trịnh trọng dụng để dậy cung nhân, sau tôn là Đức lão lễ sư. Bà có công lớn về giáo dục, đặc biệt là giáo dục từ xa, từng tham gia chấm thi bậc tiến sĩ. Năm gần 80 tuổi, bà về quê, dựng một am nhỏ trước mộ tổ trên đỉnh đồi gần chùa Huyền Thiên để tu hành. Bà qua đời ngày 8 tháng 11, khoảng năm 1656 (?). Sau khi mất, mộ của bà được mai táng một lần trong một quách đá sa thạch, cạch mộ tổ. Trên mộ xây một ngôi tháp đất nung, nhiều tầng, từ xa đã nhìn rõ mầu hồng rực rỡ. Tháp này đã xụp đổ từ TK XIX, nay chỉ còn phế tích. Năm 2008, khu di tích đã được tôn tạo thành ngôi đền hoành tráng thờ Nguyễn Thị Duệ và đã được xếp hạng cấp tỉnh.

Như vậy Chi Linh bát cổ lừng lẫy một thời đã trở thành phế tích trong hai cuộc chiến tranh, nay phục hồi được 4 di tích và đã được được xếp hạng Quốc gia và cấp tỉnh. 4 di tích còn lại cũng cần phải nghiên cứu thấu đáo, dù không được khôi phục thì cũng cần có bia biển để thế hệ sau nhận biết, bởi những di tích này có ý nghĩa lớn về lịch sử và văn hoá dân tộc, riêng chùa Huyền Thiên, chúng ta có thể khôi phục, làm sống lại một Bát cổ của Chí Linh.

Hẳn có bạn đọc thắc mắc rằng, tại Chí Linh còn nhiều di tích dẹp và lớn hơn, như Chùa Côn Sơn, Thanh Mai, đền Kiếp Bạc..., tại sao không tuyển vào Chí Linh bát cổ, ngược lại di tích thuộc Nam Sách lại cho vào Bát cổ Chí Linh. Chúng ta biết rằng ở thế kỷ XVIII, những di tích trên còn thuộc huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang (Kinh Bắc), còn Trạng nguyên cổ đường, khi đó thuộc huyện Chí Linh, đến cuối TK XIX, chính quyền thực dân mới chuyển những xã phía nam sông Kinh Thày về huyện Thanh Lâm, sau gọi là Nam Sách. Chính vì những thay đổi địa giới như trên mà rất nhiều người đã sai lầm khi viết về lịch sử Chí Linh cũng như Chí Linh bát cổ.

Bài đăng trên Tạp chí KHCN & MT




VVM.17.3.2023

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com