Việt Văn Mới
Việt Văn Mới




        

VỀ KINH NGỤY TẠO (APOCRYPHA)

  


T ình cờ được người bạn gởi cho một email ghi lại bài Pháp ĐẠO PHẬT PHÁP MÔN - ĐẠO PHẬT NGUYÊN CHẤT do T.T. THÍCH NHẬT TỪ giảng, và bài viết của Bà Giáo Sư KYOTO TOKUNO, Đại Học Washington nói về KINH NGỤY TẠO (APOCRYPHA), tức là Kinh ĐẠI THỪA. Bà Giáo Sư cho rằng đó là do các Tổ Trung Quốc sáng tác sau Phật nhập diệt hàng mấy trăm năm, không phải là lời của Phật thuyết.

Theo nhận định của T.T, Thích Nhật Từ thì “ Ngụy Kinh đã được truyền bá gần 2.000 năm qua, đã đưa chúng ta lạc ra ngoài dòng pháp của Đức Phật, đưa người tin theo trở thành nô lệ tâm linh, sẽ bị ma tâm khiển sử để trở thành quyến thuộc của ma. Nếu tiếp tục xiển dương giáo thuyết không phải của Đức Phật Thích Ca thì vô hình chung đang đóng góp cho sự tàn phá Đạo Phật...T.T. Nhật Từ khuyên mọi người “Nên thức tỉnh, tìm cách vượt thoát cái thứ giáo lý ma quái do họ sáng tạo, trở về với Chân Lý Giải Thoát của Đức Phật” (Lotus Productions).

Thiết nghĩ cả hai vị, một là chức sắc cao cấp có trách nhiệm hướng dẫn Đạo Phật, người kia là Giáo Sư Đại Học rất có uy tín. Cả hai vị đã trình bày một vấn đề rất quan trọng liên quan đến Đạo Phật, làm nhiều người Phật Tử không khỏi hoang mang - Đó là NGỤY KINH, tức Kinh ĐẠI THỪA - Đề tài này ắt cũng gây ra nhiều cuộc tranh cãi, bởi người theo Thừa nào cũng cho bên mình mới theo đúng Chánh Pháp của Phật. Hơn nữa, T.T. Nhật Từ khẳng định đó “không phải là giáo thuyết của Đức Thích Ca, đưa người tin theo trở thành nô lệ tâm linh, bị ma tâm khiển sử để trở thành quyến thuộc của ma”, và bài viết nói về Kinh Ngụy Tạo rất công phu, đưa ra nhiều tựa đề Kinh, có kèm thêm xuất xứ và thời gian mà nó xuất hiện, rõ ràng là sau khi Phật nhập diệt, càng khẳng định đó đúng là Kinh Ngụy Tạo.

Có thực sự Kinh ĐẠI THỪA “đưa chúng ta lạc ra ngoài vòng pháp của Đức Phật , người tin theo vô hình chung đang đóng góp cho sự tàn phá Đạo Phật hay không” ? Có nên gọi tất cả những Kinh được viết sau thời Phật nhập diệt là Ngụy Tạo cả chăng ? Nếu không, thì lý do tại sao ? Thế nào mới nên gọi là Kinh Ngụy Tạo ?

Với tư cách là một Cư sĩ, đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu khá nhiều Bộ Chính Kinh của Đại Thừa, xin mạn phép dựa theo sử liệu của Đạo Phật đưa ra nhận định về những vấn đề mà hai tác giả đã nêu, để người đọc có thêm thông tin, rộng đường dư luận.

Những điểm chống đối ĐẠI THỪA và KINH ĐẠI THỪA của Thượng Tọa Thích Nhật Từ.

Theo bài thuyết trình của T.T. Thích Nhật Từ, thì “các Tổ Sư Trung Quốc đã ngụy tạo Kinh Phật. Do đó, Tịnh Độ Trung Quốc rất khác với Tịnh Độ trong Kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà thì ghi 5 tiêu chuẩn để được vãng sinh. Trong khi đó, Tổ Sư Trung quốc dạy rằng chỉ cần TÍN-NGUYỆN-HẠNH và nhất tâm bất loạn để được vãng sinh. TÍN là có niềm tin về Cõi Cực Lạc. Nguyện là có Nguyện được về nước đó. HẠNH là Niệm Phật. Niệm ngày, niệm đêm, niệm cho phát sanh công đức để được vãng sanh”.

- “Niệm Phật chẳng có công đức gì hết, niệm như phương tiện cột tâm, không khởi lên vọng niệm để thiện tâm phát sanh. Nếu chỉ ngồi niệm Phật mà không hành thiện thì chuyện vãng sanh là bất khả thi, là hoang tưởng”.

- “Gần 2.000 năm qua, từ khi phong trào ngụy Kinh bắt đầu, Tịnh Độ Trung Quốc đã đưa chúng ta lạc ra ngoài dòng pháp của Phật, họ nô lệ hóa đời sống tâm linh của chúng ta bằng vào “phép lạ” của việc niệm Phật”.

- “Nhiều Thầy cũng biết chuyện Ngụy Kinh là có thật, nhưng không dám lên tiếng vì sợ đụng chạm đến sinh hoạt của Chùa”.

- “Kinh Đại Thừa chỉ xuất hiện sau khi Phật nhập diệt 500 năm, không rõ nguồn gốc, xuất xứ. không biết do ai kết tập, vào thời kỳ nào ? Thông thường, phải có ít nhất 1.000 Thánh Tăng trong mỗi kỳ kết tập. Các vị Thánh Tổ cũng không thấy được nêu tên trong việc đưa ra Tông Phái Đại Thừa. Việc tạo dựng Đại Thừa rất âm thầm, có lẽ bị nhiều vị Cao Tăng chống đối vì có tính cách làm đảo lộn Giáo Lý Đạo Phật. Đại Thừa đưa ra hình tượng A Di Đà và Quán Thế Âm để thu hút những người mê tín, ham thích lối tu hành không cần gắng sức. Đây là việc làm bất chánh, rao bán hàng giả mà tuyên truyền rằng hàng có chất lượng cao” !

“Phật A Di Đà và Quán Thế Âm là do các Tổ Sư Trung Quốc dựng lên nhằm mê hoặc tín đồ để họ chỉ biết quỳ lạy, cầy xin. Ngay cả Đức Thích Ca khi sống cũng không có để lại hình ảnh, mà sau khi Ngài mất 400 năm, các nghệ nhân mới tưởng tượng và tạc ra. Rồi từ mê tín rơi vào cuồng tín. Đạo Phật đang bị hủy diệt bởi những “con trùng trong thân Sư Tử”. Người Phật Tử trở thành nô lệ tâm linh, xiển dương giáo thuyết không phải của Đức Thích Ca. Nếu không ý thức thì vô hình chung chúng ta đóng góp cho sự tàn phá Đạo Phật, bởi nhiều người đã cho rằng 45 năm thuyết pháp của Đức Phật là không cần thiết, chỉ cần Lục Tự niệm Phật là đã có thể giải quyết mọi chuyện, và cảnh báo về việc ngoại đạo đang có ý đồ cải đạo của chúng ta.

Qua việc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, T.T. Thích Nhật Từ khuyên mọi người nên nhìn thấy dã tâm của người Trung Quốc, và cho rằng như vậy cũng không nguy hiểm bằng việc khiển sử, lèo lái tâm linh của chúng ta để chúng ta thức tỉnh mà vượt thoát cái thứ giáo lý ma quái do họ sáng tạo để trở về Chân Lý Giải Thoát của Đức Phật”.

Vì đây là một đề tài rất là quan trọng, người Phật Tử cần hiểu rõ để tránh bị dắt đi sai lạc mục tiêu. Bởi nếu tin theo bài phân tích của hai tác giả trên, bỏ hết Kinh Đại Thừa không đọc, là một bất lợi lớn, vì trong Kinh là những bài giảng, những lời giải thích về Giáo Pháp của Đạo Phật rất cẩn thận, từ cách HIỂU, đến cách HÀNH để đi đến kết quả cuối cùng như Đạo Phật muốn hướng đến, do các Tổ ĐẠI THỪA, là những người chính thức được Đức Thích Ca TRUYỀN Y BÁT viết ra. Nhưng bài bác những ý kiến trên thì dựa trên cơ sở nào ? Theo tôi, muốn tin hay bài bác, thì trước hết phải hiểu rõ về nguồn gốc Đạo Phật. Vì thế, để trả lời cho những điều mà hai tác giả đã nêu, xin được đưa ra 3 vấn đề :

I/- VIỆC TẠO DỰNG ĐẠI THỪA.

II/- Việc TRUYỀN Y BÁT.

III/- ĐẠI THỪA có ngụy tạo Kinh Phật hay không ?

(Cũng xin mở ngoặc nơi đây để nói rõ : Tất cả những gì tôi viết ra dưới đây là ý kiến của cá nhân tôi sau thời gian dài tu học và tham khảo rất nhiều Bộ Kinh ĐẠI THỪA . Không liên quan đến Đại Thừa của Chùa chiền hay của Sư Tăng nào, vì tôi là Cư Sĩ, được Thầy của tôi cũng là một Cư Sĩ đào tạo cho).

Trước hết chúng ta bàn về việc tạo dựng ĐẠI THỪA.

Việc tạo dựng Đại Thừa không phải “rất âm thầm có lẽ do nhiều Cao tăng chống đối, một việc làm có tính cách đảo lộn Giáo Lý Phật”.

- Theo sử liệu, thì ĐẠI THỪA và TIỂU THỪA xuất hiện cùng lúc, do sự chia rẻ trong nội bộ Tăng Đoàn, bắt đầu từ kỳ Kết Tập lần thứ 2, sau Phật nhập diệt khoảng 100 năm. Từ một khối, Tăng Đoàn chia ra làm 2 nhóm. Một Nhóm là các vị Trưởng Lão, gọi là TRƯỞNG LÃO BỘ hay THƯỢNG TỌA BỘ, cũng gọi là TIỂU THỪA, về sau đổi thành PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY. Nhóm còn lại vẫn tiếp tục theo sự lãnh đạo của Tổ đương nhiệm thì gọi là ĐẠI CHÚNG BỘ hay ĐẠI THỪA.

- Ngược dòng Lịch sử thì chúng ta thấy : ĐẠI THỪA vẫn giữ nguyên thứ tự từ Tổ Thứ Nhất là Ca Diếp, Thứ Hai là TỐ A NAN, Tổ Thứ Ba là THƯƠNG NA HÒA TU, Thứ Tư là ƯU BA CÚC ĐA...sau đó cứ thế truyền lần xuống cho đến Tổ 33 là Lục Tổ Huệ Năng là Tổ cuối cùng. Chính các TRƯỞNG LÃO mới là nhóm tự tách ra để lập thành nhóm tu mới, gọi là TRƯỞNG LÃO BỘ hay TIỂU THỪA. Bên TIỂU THỪA cũng nhìn nhận Tổ Ca Diếp và Tổ A Nan, chứng tỏ TIỂU THỪA xuất hiện sau đời của hai Tổ này. Như vậy không thể nói là Đại Thừa xuất hiện âm thầm và không nêu lên được người có công tạo dựng. Trái lại, ĐẠI THỪA vẫn giữ nguyên tổ chức cũ từ lúc Đức Thích Ca tại thế, không cần tạo dựng cái gì mới. Cũng vì các TRƯỞNG LÃO tách ra thành lập nhóm tu riêng, lấy tên là THƯỢNG TỌA BỘ, hay TIỂU THỪA, do đó nhóm còn lại bắt buộc cũng phải có tên gọi là ĐẠI CHÚNG BỘ hay ĐẠI THỪA để phân biệt mà thôi.

- Sở dĩ có tên gọi ĐẠI THỪA và TIỂU THỪA là vì TIỂU THỪA có nghĩa là “Cổ xe nhỏ” vì chỉ “Độ” được bản thân, không độ được người khác. ĐẠI THỪA thì có thể “TỰ ĐỘ ĐỒNG ĐỘ THA”, nên gọi là “Cổ Xe Lớn”.

- Thượng Tọa Thích Nhật Từ cho rằng “Nhiều Cao Tăng chống đối” việc thành lập ĐẠI THỪA. vì có tính cách làm đảo lộn Giáo Lý Đạo Phật.

- Theo nghiên cứu của tôi khi đọc Lịch Sử 33 Vị Tổ cho thấy : Thời điểm các TRƯỞNG LÃO (được T.T. Nhật Từ gọi là Cao Tăng), chống đối Tổ ĐẠI THỪA, không phải là vì có tính cách làm đảo lộn Giáo Lý Đạo Phật, như lịch sử của bên TIỂU THỪA gán cho ĐẠI THỪA, mà là rơi vào thời điểm Tổ Thứ 3 TRUYỀN Y BÁT cho Tổ Thứ Tư là Ưu Ba Cúc Đa - Một thanh niên trẻ 20 tuổi, mới Xuất Gia có 3 năm, đang là Thị Giả của Tổ thứ Ba -

Theo suy đoán của tôi, hẳn các TRƯỞNG LÃO đnh ninh rằng mình tu đã nhiều năm, đã lên đến hàng Trưởng Lão, lẽ ra mình phải được TRUYỀN Y BÁT. Vì thế, khi thấy Tổ truyền cho người trẻ tuổi, mới vô tu, nên cho rằng Tổ thiên vị. Từ đó, các Ngài bất mãn, chống lệnh Tổ, tách ra, không chấp nhận dưới quyền điều hành của Tổ mới. Bằng chứng cho sự bất mãn đó là bên TIỂU THỪA không nhìn nhận từ TỔ THỨ BA trở về sau. Chỉ nhìn nhận hai Tổ CA DIẾP và A Nan mà thôi.

- Tổ Thứ Ba là người được Tổ A Nan Truyền Y Bát, đang lãnh trách nhiệm thống lãnh Tăng Đoàn. Theo quan điểm của người đời, thì việc tự ý tách ra của các Trưởng lão đó là “bất tuân thượng lệnh” . Theo quan điểm tu hành thì các TRƯỞNG LÃO đã không hiểu về quyền năng và sứ mệnh của người được TRUYỀN Y BÁT. Dựa theo Phó Chúc của Đức Thích Ca khi TRUYỀN Y BÁT, thì vị TỔ Thứ Ba là người đại diện chính thức của Phật, có toàn quyền thay Phật để quyết định mọi vần đề về Tăng Đoàn cũng như phổ biến Giáo Pháp. Như vậy người chống đối việc Tổ TRUYỀN Y BÁT cho người kế tiếp chính là chống đối Phật. Với người tu hành thì việc làm đó là Phạm Giới.

Sở dĩ các Trưởng Lão chống đối việc Truyền Y Bát, theo tôi, có 2 lý do. Thứ Nhất là vì Chấp Ngã. Thứ hai, là vì không biết rằng phải là người CHỨNG ĐẮC mới được giao cho trọng trách này.

Thật vậy. Việc CHỨNG ĐẮC không đòi hỏi phải tu nhiều năm, vì “Mê nhất kiếp, ngộ nhất thời”. Đọc Sử 33 Vị Tổ, ta thấy đa phần các Vị Tổ đều là người “Trở lại” để hộ trì Phật Pháp. Vì thế mà chỉ cần có người nhắc, là các Ngài nhớ lại tiền kiếp ngay. Một trường hợp cụ thể được ghi lại trong PHÁP BẢO ĐÀN KINH là Lục Tổ Huệ Năng, lúc đó đang là một chàng thanh niên quê nghèo dốt nát đi giao củi kiếm tiền nuôi mẹ già. Vậy mà chỉ cần nghe câu Kinh KIM CANG : “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là Ngài nhớ lại tiền kiếp nên thu xếp việc gia đình, gởi mẹ già nhờ người trông coi rồi đi tìm Chùa của Ngũ Tổ để xin tu học. (Những người có học Phật đều biết rằng trong Đạo Phật có dạy Thuyết Luân Hồi, nên đối với Đạo Phật, việc Tái sinh không có gì lạ). Trường hợp của Tổ Thứ Tư là Ưu Ba Cúc Đa cũng thế. Nếu có đọc Sử 33 Vị Tổ ta sẽ thấy : Tổ Thứ 3 đã biết trước khi Ngài đầu thai sinh vào làm con của vợ chồng Trưởng Giả hiếm muộn. Tới năm đứa bé được 12 tuổi thì đích thân Tổ lui tới gia đình Trưởng Giả để kềm cặp, cho tới năm 17 tuổi thì mới cho Xuất Gia vô Chùa. Năm 20 Tuổi thì ngài đã Đắc Pháp nên mới được Truyền Y Bát. Vì vậy không hề có việc thiên vị.

- Người tu Phật mà giữ đầy đủ Giới, Hạnh, tu hành chân chính thì không bao giờ có tham vọng địa vị hay tiền bạc. Sự chống đối của các Trưởng Lão cho thấy các Ngài vẫn còn ham địa vị, thích cầm đầu Tăng Chúng, chứng tỏ lòng Phàm chưa dứt, nên Tổ không TRUYỀN Y BÁT cho các Vị là đúng. Thái độ tách ra, không chấp hành quyết định của Tổ đương thời, lôi kéo những Trưởng Lão khác làm thành một nhóm để tu riêng, chứng tỏ cái Ngã của các vị chưa điều phục xong. Rõ ràng người được Phật giao quyền cầm nắm Chánh Pháp bao giờ cũng sáng suốt. Nếu giao cho người lòng phàm chưa dứt mà cầm đầu Tăng Chúng và rao giảng Giáo Pháp của Phật, thì tương lai Đạo Phật sẽ về đâu ?

Thời xưa cũng như thời nay, không phải ai khoác áo Cà Sa nào cũng tu hành chân chính. Không phải tu nhiều năm đã là cao đạo ! Đọc PHÁP BẢO ĐÀN KINH, ta thấy nhiều người cũng mang danh tu hành mà nhiều thời vẫn tranh chấp Y, Bát một cách quyết liệt. Thậm chí năm lần bảy lượt họ còn theo truy sát Lục Tổ Huệ Năng, chứng tỏ lòng họ còn đầy tham vọng Danh, Uy, thì làm sao có tư cách để phổ biến Đạo Phật là một Con Đường đòi hỏi người tu phải thanh lọc cái Tâm của mình, diệt hết Tham, Sân, Si, Thương, Ghét.. để đưa đến cứu cánh Giải Thoát ?

II/- VIỆC TRUYỀN Y BÁT.

Dù lịch sử Đạo Phật có ghi lại rõ ràng, nhưng rất nhiều Phật Tử không biết gì về việc TRUYỀN Y BÁT, nhất là những người bên PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY. Họ hoàn toàn không nghe nói đến, thậm chí có người còn viết cả sách để chế nhạo ! Không biết rằng việc TRUYỀN Y BÁT rất quan trọng trong Đạo Phật, do chính Đức Thích Ca, truyền lại cho Ngài Ca Diếp, sau đó truyền lần xuống. Người được TRUYỀN Y BÁT là người thay Phật để cầm nắm vận mệnh của Đạo, hướng dẫn con đường Tu Phật đúng theo Chánh Pháp của Đức Thích Ca, mà người tu nào muốn đạt đến thành công đều phải học hỏi theo. Trong quá trình nhiều đời Tổ tiếp nối nhau, những Tổ Đại Thừa có để lại Mười Hai Bộ Kinh được gọi là Chính Kinh. Những Bộ Kinh này rất quan trọng, thời nào, người muốn tu học cũng cần nương theo để mà Hiểu mà Hảnh theo, không được rời Kinh dù một chữ, vì : “Ly Kinh nhất tự đồng ma thuyết” !

Người muốn tu tập hay muốn tìm hiểu ĐẠO PHẬT không thể quên chi tiết rất quan trọng này để không bị dắt đi ra ngoài vòng Chánh Pháp. Mọi người cần hiểu rõ vì sao có việc TRUYỀN Y BÁT và mục đích của việc này, bởi vì thật sự việc này đã diễn ra, do chính Đức Thích Ca đã thực hiện và Phó Chúc các Đệ Tử “nên tiếp tục để Giáo Pháp Phật được trường tồn”. Sử liệu Đạo Phật có ghi rõ. Dù có nhiều người không biết, nhưng không thể chối bỏ. Bằng chứng là ai cũng biết Đức Ca Diếp là người đầu tiên được Truyền Y bát.

a)- Diễn tiến của việc Truyền Y Bát. Sử chép lại, khi Đức Thích Ca thấy mình đã già yếu, muốn tìm người để thay mình thống lãnh Tăng Chúng và giữ gìn, phổ biến Đạo Pháp. Trong một lần giữa Đại chúng, Ngài đưa Cành Sen lên. Trong khi mọi người ngơ ngác thì Ngài Ca Diếp Mỉm Cười. Qua Nụ Cười đó, Đức Thích Ca biết rằng Ngài Ca Diếp đã thông hiểu Giáo Pháp của mình, nên đã trao Y Bát cho Ngài CA DIẾP. Khi trao truyền, Ngài nói : “Ta có Chánh Pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, pháp môn ấy mầu nhiệm vô cùng, chằng lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền. Vậy ngươi khá giữ gìn rồi sau sẽ truyền cho A Nan kế hậu”.

b)-- Tại sao phải TRUYỀN Y BÁT ?

Như chúng ta đều biết : Không phải ai đi học cũng tốt nghiệp. Không phải ai đi tu cũng Đắc Đạo. Thân người thì hữu hạn. Đức Phật đã dạy : “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” , tức là cái Thân phàm sẽ có ngày phải chết, phải hoại diệt. Vì thế, trước khi nhập diệt, Đức Thích Ca chọn một trong những Đệ Tử đã nắm vững đường lối của Pháp Môn để kế nghiệp mình. Để làm tin, Đức Thích Ca đã trao Y Bát là hai vật bất ly thân mà Ngài đã dùng thường ngày. Thấy hai món đó là Thấy Phật. Nó có giá trị như Ấn, Tín của Vua truyền lại cho người nối ngôi.

Ngoài việc thống lãnh Tăng Chúng và phát huy Đạo Pháp. Người được Truyền Y Bát (cũng được gọi là TỔ), có toàn quyền thay Phật quyết định mọi việc liên quan đến Đạo Pháp. Vì thế, tất cả Tăng Đoàn phải tuân theo mọi quyết định của Tổ. Lời nói của Tổ phải xem như lời của Phật, vì đó là đại diện chính thức của Phật.

Lý do phải TRUYỀN Y BÁT cũng tương tự như một vị Quốc Vương sắp băng hà, không thể để ngai vàng, sự nghiệp, thần dân của mình cho kẻ không đủ đức, đủ tài nối ngôi, mà phải trao cho một người xứng đáng. Đôi khi không phải là một trong các Thái Tử, mà có thể là một vị quan, hay bất cứ người nào đó mà Vua hoàn toàn tin tưởng có thể tiếp tục giữ gìn ngai vàng, sự nghiệp, lo cho dân, cho nước của mình một cách tốt đẹp nhất. Để mọi người dễ nhận ra, Vua đã trao ẤN, TÍN cho người đó, để người dân cả nước biết người giữ Ấn, Tín là người chính thức được Vua chọn để nối ngôi sau khi băng hà. Mọi người không được tranh dành.

Việc giao cho người nối truyền Đạo Phật lại càng quan trọng hơn, vì Đạo Phật thời đó được xem như là một Tôn Giáo mới, có cách Hiểu, Cách Hành, kết quả hoàn toàn khác lạ đối với những tôn giáo đương thời, vì mở ra một huớng đi mới, không còn lệ thuộc vào Thượng Đế, Thần Linh, mà cho rằng mỗi người có thế tự quyền quyết định vận mạng cũng như mọi sự sang, hèn, sướng khổ cho bản thân, kể cả những kiếp về sau, bằng cách Tu Sửa Thân, Tâm và gây tạo Nhân Quả. Muốn được như vậy, người theo Đạo Phật bắt buộc phải thực hành từng bước theo một trình tự nhất định gồm VĂN-TƯ-TU, GIỚI-ĐINH-HUỆ. Cuộc sống thì không được ra ngoài BÁT CHÁNH ĐẠO.Thiếu một trong những điều kiện này thì việc tu hành khó mà đạt kết quả.

Về Y, BÁT. Đây không phải là những vật có giá trị vật chất, nhưng đó là hai món mà Đức Thích Ca luôn gắn bó với Ngài lúc sinh thời. Thấy Y, Bát là thấy Phật. Đức Thích Ca đã dùng hai món đó như Ấn, Tín để người nhìn thấy biết rằng người đang giữ hai món đó được Phật trao quyền thay Ngài để điều khiển Tăng Chúng và Giáo Pháp của Đạo Phật.

c)- Điều kiện để được TRUYỀN Y BÁT.

Dù lịch sử lúc đầu không có nói rõ điều kiện để được TRUYỀN Y BÁT. Nhưng lần lượt tiếp nối nhau đến 33 vị Tổ, mỗi vị đều có KỆ nói lên sự CHỨNG ĐẮC của mình. Qua đó, chúng ta có thể kết luận : Người được TRUYỀN Y BÁT phải là người đã CHỨNG ĐẮC, vì chỉ có người đã Chứng Đắc mới có thể nắm vững đường lối, cách Hiểu cũng như Hành để đạt kết quả của Đạo, và truyền lại để người khác cũng có thể đạt kết quả như mình.

Việc Chứng Đắc hay còn gọi là THẤY TÁNH hay THẤY BẢN THỂ TÂM. Đạo Phật không đòi hỏi tu lâu hay mau, già hay trẻ, giới tính, tuổi tác, địa vị, giai cấp, học nhiều hay ít học. Trong Sử 33 Vị Tổ, chúng ta có một trường hợp điển hình là Lục Tổ HUỆ NĂNG, một thanh niên quê, nghèo, dốt nát, mới vô Chùa có 8 tháng, chưa kịp Thế Phát, Quy Y cũng đã Thấy Tánh. Chỉ cần sửa vài chữ trong bài Kệ của Sư Thần Tú đã nói lên được cái THẤY CHÂN TÁNH của Ngài. Vì thế mà Ngũ Tổ đã Truyền Y Bát cho Ngài. (PHÁP BẢO ĐÀN KINH).

d)- Chúng ta hiểu gì về CHỨNG ĐẮC của Đạo Phật ?

Đạo Phật không phải là một hành trình đi không bao giờ đến, không thể kiểm chứng. Không phải cứ vô Chùa, cạo tóc, đắp y, học vài bài Pháp rồi sống lâu lên lão làng, mở lớp dạy để đào tạo lớp kế thừa, mà có CHỨNG ĐẮC, có những Quả Vị là từng giai đoạn mà người Thầy có thể qua đó để biết Đệ Tử đã tiến bộ tới đâu. Trên hành trình đi đến kết quả Giải Thoát, người tu phải làm đầy đủ hai phần : Hiểu rõ phần Lý thuyết, và đưa Lý vào thực hành gọi là SỰ. Người tu hành muốn đạt kết quả thì phải LÝ SỰ VIÊN DUNG.

Để Chứng Đắc, người tu phải qua Bốn giai đoạn là KHAI, THỊ, NGỘ và NHẬP. Đầu tiên, người đệ tử được được người Thầy Khai mở cho Cái Biết về các Pháp của Đạo như Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, Có, Không, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị nhân Duyên, Lục Độ, Lục Đạo v.v.. là những điều mà trước khi tu hành mọi người chưa hề nghe nói đến.

Họ sẽ được hướng dẫn cho quy trình tu hành gồm GIỚI-ĐỊNH-HUỆ, VĂN-TƯ-TU. Người mới nhập môn trước tiên phải có GIỚI, tức là phải không được làm một số việc có thiệt hại đến người khác hay với chính bản thân, để chuẩn bị cho một hành trỉnh mới. Họ sẽ được dạy cho NGỒI THIỀN hay còn gọi là THIỀN ĐỊNH. Tức là Ngồi Thiền để có sức ĐỊNH mà Tư Duy. Kinh gọi là VIPASSANA, tức là THIỀN QUÁN. Tức là dùng thời gian Thiền, dừng lắng tư tưởng, không còn chạy theo ngoại pháp, để có sức Định, rồi dùng sức Định để Soi, Quán các Pháp. Khi nghe thuyết Pháp hay đọc Kinh, mọi người không nên vội Tin, mà phải Tư duy để tìm rõ ý nghĩa rồi mới áp dụng. Khi có sự hiểu biết về Các Pháp thì gọi là có Trí Huệ. Trí Huệ như ngọn đèn mà người tu sẽ dùng đó để soi rọi những gì họ chưa hiểu, để tìm những thứ mà họ cần tìm, Đặc biệt, là đi tìm CÁI TÂM. Học cách phân biệt VỌNG TÂM, CHÂN TÂM để chuyển Vọng thành CHÂN hay là “phản vọng, quy Chân”. Phải Tìm Cái Tâm, Thấy Cái Tâm để tu sửa ở đó, vì “Tu Phật là Tu Tâm”. Ngũ Tổ cũng dạy : “Nếu không thấy Tâm thì học pháp vô ích”.

Người tu cứ kiên trì Giữ Giới, Thiền Đinh và Soi, Quán, một mặt Bố Thí, Phóng Sinh, như người từ từ vẹt tấm màn Vô Minh dày đặc. Đến lúc nào đó, màng Vô Minh mỏng dần, lần lần sẽ thấy, hiểu rõ hơn gọi là THỊ. Trước kia, người tu nghe nói đến cái CHÂN TÁNH hay BỔN THỂ TÂM, nghe nói rằng mỗi người đều có PHẬT TÁNH, nhưng mơ hồ, không biết có thật hay không ? Nó ở đâu ? Làm cách nào để Thấy ? Đến một giai đoạn Quán, Soi, thực hành, đầy đủ công đức, người tu sẽ Chứng Ngộ gọi là THẤY TÁNH, tức là nhận ra cái BẢN THỂ TÂM CỦA CHÍNH MÌNH. Đó mới chính là cái MÌNH THẬT hay còn gọi là CHÂN TÁNH. Nó vẫn ở trong cái Thân Phàm, nhưng không phải là cái THÂN PHÀM như trước giờ mọi người vẫn tưởng lầm. Từ vô lượng kiếp, nó vẫn song hành cùng cái Thân, nhưng nếu không tu hành thì không nhận ra. Ai Chứng thì người đó biết, gọi là “uống nước nóng, lạnh tự mình hay”.

Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN viết :

    Phật Tánh tuy sẵn có
         Phải tu mới hiển hiện.
         Cũng như vàng sẵn có.
         Phải lọc quặng mới thành”.

Công phu tu hành chính là lọc quặng. Do vậy, pháp môn nào không dạy Quán, Soi, không dạy Giữ Giới, không trừ Tam Tâm là Tâm Tham, Tâm Sân, Tâm Si. Không làm Lục Độ. Không Tìm Tâm, Thấy Tâm và Tu sửa cái Tâm thì không bao giờ THẤY TÁNH được.

Lục Tổ Huệ Năng. Sau khi nghe Ngũ Tổ giảng thì Ngài Thấy TÁNH hay gọi là Thấy Bản Thể Tâm nên đã đọc bài Kệ để diễn tả về nó :

   “Nào dè Tánh mình vốn bất sanh, bất diệt.
         Nào dè Tánh mình vốn tự đầy đủ.
         Nào dè Tánh mình vốn không lay động.
         Nào dè Tánh mình hay sanh muôn pháp”.

Không phải chỉ vừa Thấy TÁNH là đã Nhập ngay. Nhưng kể từ khi THẤY TÁNH thì chính cái Tánh sẽ hướng dẫn những việc cần làm, cần bỏ, cần sửa đổi, để hoàn tất công việc tu hành. Vì thế Chư vị Giác Ngộ gọi “Thấy Tánh Thành Phật”, hay “Kiến Tánh khởi tu”. Cái CHÂN TÁNH sẽ hướng dẫn trong mọi hành vi, từ suy nghĩ đến hành động, không còn bị cái PHÀM TÁNH lôi cuốn để dính mắc vào Các Pháp, gọi là THOÁT PHÁP. Kết quả cuối cùng là Giải Thoát từc THÀNH PHẬT, hay còn gọi là Thành tựu Con Đường Giải Thoát

Người Chứng Đắc là người đã thực hành và đạt kết quả cuối cùng như Đức Thích Ca mong muốn khi khai Đạo. Việc tu hành đòi hỏi phải có sự quyết tâm và kiên trì. Vì thế, không phải tất cả những Đệ tử theo học với Phật đều Chứng Đắc. Do vậy, Phật đã phải Truyền Y bát cho người đã Chứng Đắc. Vì chỉ người đã Chứng Đắc mới có thể hướng dẫn, truyền đạt lại cho người khác mà không sợ làm sai lạc mục tiêu mà Phật đã đề ra

e/- Vì sao Đức Ca Diếp chỉ Mỉm Cười mà được cho là đã Chứng Đắc và được Truyền Y Bát ?

Đây là vấn đề bao nhiêu thời qua đã làm điên đầu biết bao nhiêu người tu hành muốn tìm hiểu. Nhất là những người bên Thiền Tông. Vì kinh sách không giải thích rõ nên nên nhiều người suy diễn đủ cách. Có người cho là do Đức Ca Diếp “Cười đúng lúc”, “Cười ngô nghê”. Có người cho là vì “Đức Ca Diếp cười trong khi bao nhiêu người khác không cười” ! Chúng ta thử nghĩ : Một tôn Giáo đề cao vai trò của Trí Huệ : “Tam thế Chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Ba đời Chư Phật đều y theo Trí Huệ Qua Bờ Bên Kia mà đắc Vô thượng Chánh Giác), thì lẽ nào đến lúc cần tìm người kế vị lại do một sự tình cờ quyết định, mà không phải do một sự tuyển chọn kỹ càng trong những Đệ Tử. Người có Trí Huệ xuất sắc mới được thay Phật đảm đang, gánh vác Chánh Pháp ?

Cũng do thời Đức Thích Ca đã giảng dạy, ngôn ngữ chưa đủ để diễn tả. Sự hiểu biết của con người thì có giới hạn. Việc tu hành lại không nằm ở phần hình tướng bên ngoài, mà phải tu sửa bên trong, gọi là TU TÂM. (Do Cái Tâm (tức là nơi xuất phát những tư tưởng, không có hình tướng nên thời xưa không thể diễn tả được, vì thế mà trở thành bí ẩn đối với người tu học thời đó. Cho tới thời của Tổ Đạt Ma cách Phật hàng ngàn năm, mà Ngài còn cho là : “Tâm, Tâm, Tâm. Khó nỗi tầm. Tung ra bao trùm khắp pháp giới.Thâu lại chẳng đầy mũi kim” ...thì đủ hiểu). Vì thế, việc Thấy được cái Tâm để Tu Tâm không phải là điều dễ dàng so với thời xa xưa. Có Thấy được cái Tâm, chuyển hóa nó, mới hiểu được ý nghĩa của việc “Ở trong các Pháp mà Thoát các Pháp”, như hình ảnh Hoa Sen mà Phật dùng làm biểu tượng khi nói về kết quả của người thành tựu Con Đường Giải Thoát.

Con Đường đó đưa con người từ ràng buộc, khổ đau, đến Giải Thoát, được thanh thản, an nhiên giữa dòng đời vẫn đầy biến động. Có biết quy trình sống, chết, luân hồi của kiếp người chúng ta mới thấy hết ý nghĩa Giải Thoát của Đạo Phật. Thật vậy. Con người thì thời nào cũng vậy, dù cuộc sống nhiều phiền não, khổ đau, nhưng mê đắm không thể dứt ra. Vì Nghiệp mà Sinh ra, thời gian sống lại tiếp tục tạo Nghiệp rồi lại tái sinh để Trả Nghiệp! Vòng Luân Hồi không bao giờ kết thúc. Vì thương sinh chúng, Đức Thích Ca phải vận dụng nhiều phương tiện, dùng nhiều thí dụ, hứa hẹn đủ thứ Quả, Vị. Hoặc tả cảnh giới Phật ở Phương Đông, Phương Tây, trang hoàng bằng bảy thứ châu báu mà người đời ham thích, để họ cầu mong được về đó mà bớt đi tranh dành vật chất của cõi trần, làm cho cuộc sống ngắn ngủi thêm xáo trộn, đau khổ và bày ra một hành trình để người thực hành theo lần hồi sẽ được Giải Thoát, hết Khổ.

Người chấp nhận theo Đạo Phật tu hành để được Giải Thoát thì Phật đưa ra một số điều kiện để họ thực hành theo, đó là VĂN-TƯ-TU, GIỚI-ĐINH-HUỆ, BÁT CHÁNH ĐẠO, và hứa hẹn nào là Quả Vị, nào là Niết Bàn, Phật Quốc v.v.. Nhưng mục đích chỉ để cho người tu đạt kết quả cuối cùng là được Giải Thoát khỏi mọi phiền não của cuộc sống. Được như Hoa Sen, sống giữa bùn mà không vương mùi bùn. Người tu hành thành tựu sẽ là người “sống giữa trần gian, giữa phiền não mà không còn bị phiền não nhiễu hại”. Đó chính là kết quả cuối cùng của công việc tu hành theo Đạo Phật. Không phải là thành Thánh, thành Bồ Tát, thành Phật, với Quả Vị cao, thấp, Phật Quốc hay Niết Bàn mà Phật đã hứa. Vì thế nên khi nhìn Cành Sen là Ngài Ca Diếp hiểu ý Phật muốn nói vể kết quả mà người tu sẽ đạt tới, nên mỉm cười. Phật cũng biết Ngài Ca Diếp đã thông suốt Giáo Pháp như mong muốn, nên giao lại Tăng Chúng và Giáo Pháp cho Ngài giữ gìn và phát huy.

f/- So sánh giữa người Chứng Đắc và người thông thạo Giáo Pháp.

Người thông thạo Giáo Pháp và ngưởi Chứng Đắc hoàn toàn khác nhau. Kinh ví như người chỉ thuộc Giáo Pháp như người đọc tên các loại thuốc mà không uống, nên không khỏi bệnh. Hoặc người chỉ “nói ăn”, mà không ăn, nên không no. Chúng ta có thể so sánh sự khác biệt giữa người thuộc Giáo Pháp và người Chứng Đắc. Đó là trường hợp của Đức A Nan. Ngài A Nan, thuộc pháp của Phật như “nước trong bình đổ ra không thiếu một giọt” . Nhưng vì Ngài thiếu phần thực hành, nên vẫn bị Ma Đăng Già quyến rũ như Kinh Lăng Nghiêm chép lại. Đó là lý do mà Phật không Truyền Y bát cho Ngài A Nan, mà dặn Ngài Ca Diếp khi già yếu mới trao, để thời gian đó Ngài A Nan thực hành cho đến nơi đến chốn những lý thuyết đã học.

III.- NÓI VỀ KINH ĐẠI THỪA.

Kinh ĐẠI THỪA là những Kinh do những Tổ Đại Thừa viết hay giảng rồi Đệ Tử chép lại để phổ biến Chánh Pháp. Mục đích để giải thích đường lối tu hành cũng như những điều cần hiểu, cần Hành để đạt kết quả. Nhưng do những gì Phật thuyết cách đây hàng mấy ngàn năm, lời lẽ chưa đủ để diễn tả cho nên người đọc mà không có người đi trước hướng dẫn thì rất dễ nhầm lẫn. Vì thế, khi khai triển Phật Pháp, Chư Tổ phải dặn dò những người đọc Kinh là phải : “Y NGHĨA BẤT Y NGỮ”.

Có thể dùng một trường hợp cho rõ nghĩa : Kinh tả “Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà cách đây 18.000 dặm”. Nếu không có vị đã Chứng Đắc giải thích thì làm sao người đọc hiểu rằng 10.000 dặm đó là Thập Ác, và 8.000 dặm đó là Tám điều Tà, và chỉ cần chuyển ngược những điều này là đến Tây Phương Cực Lạc ? (PHÁP BẢO ĐÀN KINH). Vì Tây Phương Cực Lạc mà Kinh viết, không phải là một Nước có thật, ở cõi trời xa xôi diệu vợi nào, mà chính là ở trong Tâm người đã hoàn toàn thanh tịnh, không còn phiền não, đau khổ nữa, toàn những điều vui, nên gọi là Cực Lạc.

- Phật A Di Đà và Quán Thế Âm cũng như các Bồ Tát được viết trong Kinh ĐẠI THỪA không phải để cho tín đồ quỳ lạy cầu xin, “cho người ham thích lối tu dựa vào sự hứa hẹn sẽ đạt được không cần gắng sức” , mà tả về tình trạng gọi là “Phàm Thánh đồng cư” trong Tâm của mỗi người.

Đạo Phật cho rằng cái Thân con người chỉ là đống Tứ Đại kết hợp, để Nhân Quả vay trả với nhau cho sòng phẳng. Bộ phận điều hành cái Thân chính là CÁI TÂM. Trong Tâm này, khi chưa tu hành thì xấu, tốt lẩn lộn. Trong đó có những tư tưởng đã thanh tịnh, có những tư tưởng đen tối, xấu xa. Quán Thế Âm cũng không phải là một vị Phật, để tôn thờ, cầu xin, mà đó phương tiện Đức Thích Ca dùng để diễn tả sự lắng nghe những ý tưởng khởi động trong Tâm, để khuyên can, nhắc nhở bỏ đi những ý tưởng xấu. Phật A Di Đà được giải thích là “Hào quang soi suốt, không ngăn ngại”. Đó là nói về Cái Tâm đã trừ hết những bóng tối, những gò, nỗng, hầm, hố, thuồng luồng, rắn rít... tượng trưng cho những giận, hờn, thương, ghét, đố kỵ, tham, sân, si...là những tư tưởng khuynh hướng xấu. Vì thế, nên sau khi loại bỏ những cái xấu che ngăn thì trong, ngoài, trước, sau, trên dưới đều được sáng suốt, rỗng rang, thanh tịnh.

Sở dĩ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC được mô tả là trang hoàng bằng BẢY BÁU , là vì con người có 7 NGHIÊP. BỐN NGHIỆP nơi Khẩu tức là : Nói láo, nói lưỡi đôi chiều. Nói để khen mình, chê người. và BA NGHIỆP nơi THÂN là THAM SÂN và SI. Nhưng vì con người ôm giữ nó từ kiếp này sang kiếp khác, không chịu buông bỏ nên Phật ví như là BẢY MÓN CHÂU BÁU.

Người tu muốn thành công thì phải THÍ, XẢ những 7 Món đi, gọi là BỐ THÍ CHÂU BÁU CHO PHẬT. Vì thế, khi cái Tâm được hoàn toàn thanh tịnh thì gọi là TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC đã hình thành, và trang hoàng bằng toàn là những thứ CHÂU BÁU là trong nghĩa đó.

Chỉ những người hiểu rõ việc TU PHẬT là TU TÂM, thì mới hiểu những danh xưng Phật, Bồ Tát v.v...đó, được Phật gọi là “Giả danh”. Phật Quốc cũng chỉ là Giả Cảnh để diễn tả sự thanh tịnh của cái Tâm. Những Chúng Sinh chưa được Giải Thoát,chưa thanh tịnh được gọi là Càn Thát Bà, A Tu La, hoặc gò, nỗng, thuồng luồng v.v..mà thôi. Nhưng nhiều vị tu hành thời xưa, hoặc không hiểu nên chống đối, hoặc y theo mô tả trong Kinh rồi tạo dựng thành Tượng hay hình ảnh để tôn thờ, cầu xin phù hộ, độ trì! Trong Chính Kinh không hề dạy THỜ PHẬT, trái lại còn cho đó là hành tà đạo, như Bài Kệ Kinh Kim Cang:

    “Ai nương sắc để thấy ta.
         Dùng âm thanh để cầu ta.
         Kẻ đó hành tà đạo.
         Không thể thấy Như Lai” .

“Thấy NHƯ LAI” mà bài Kệ viết, có nghĩa là “Thành Phật NHƯ LAI”. Tu Phật là phải Thành Phật. Việc tu hành để Thành Phật cũng không có gì là quá cao siêu, hay huyền bí, mà chỉ là thành tựu công việc Giải Thoát, được chỉ rõ qua Bài Kệ trong KINH VIÊN GIÁC :

NẾU NGƯỜI ĐOẠN THƯƠNG GHÉT.

CÙNG VỚI THAM, SÂN, SI.

CHẲNG CẦN TU GÌ KHÁC.

CŨNG ĐỀU ĐẶNG THÀNH PHẬT”.

Có HIỂU ĐÚNG mới HÀNH ĐÚNG. Một trong 25 Phương Tiện tu hành của người tu được chỉ rõ trong KINH VIÊN GIÁC :

“Đây là phương tiện đầu tiên của hành giả, tức là BA PHÁP QUÁN (CHỈ, QUÁN, và CHỈ QUÁN SONG TU). Nếu các chúng sanh tinh tấn siêng tu Ba Pháp Quán này được hoàn toàn tức là NHƯ LAI XUẤT HIỆN Ở THẾ GIAN VẬY”.

“Thành Phật” hay “thành Như Lai” cũng chỉ có nghĩa là không còn bị các Pháp làm cho đau khổ, điên đảo. Thấy các Pháp đến, đi mà không động Tâm, không khởi Tâm, gọi là “Các Pháp đều Như”. Không phải là thành một vị Thần Linh có quyền hành bao trùm vũ trụ. Do đó, chỉ những người không đọc Kinh Đại Thừa, hoặc đọc mà không hiểu ý nghĩa mới chê trách, cho là Đại Thừa bịa ra thêm rất nhiều Phật và Bồ Tát để mê hoặc bá tánh ! Có vị còn lộng ngôn, cho là “ trong Kinh Đại Thừa chỉ có một số ít là lời Phật, số còn lại toàn là rác rưởi” ! Rõ ràng những vị đó, tuy tu Phật mà không nắm rõ lịch sử cũng như quy trình tu hành và phương tiện củaĐạo Phật. Không hiểu thế nào là tu hành. Không biết có việc Chứng Đắc, để biết rằng những Vị Tổ là những người đã Chứng Đắc, tức là Phật đương thời. Do đó, họ cũng không biết rằng mình đang ở nhà Phật, đang nương tựa Phật, nhờ uy tín của Phật mà được mọi người cung dưỡng, được tôn trọng, trở lại chê bai người mà Phật giao quyền hành thay thế cho Phật, coi khinh luôn Pháp của những vị đó thuyết, trong khi chưa biết con đường mình đang hành trì sẽ dắt tới đâu ?

VỀ KINH ĐẠI THỪA.

Thượng Tọa Thích Nhật Từ cho rằng Kinh điển ĐẠI THỪA chỉ xuất hiện 500 năm sau ngày Phật nhập Niết Bàn, không rõ nguồn gốc, xuất xứ. Thông thường phải có ít nhất 1.000 vị Thánh Tăng trong mỗi lần kết tập.

Điều này thì T.T. Thích Nhật Từ nhầm lẫn giữa việc KẾT TẬP lời Phật dạy và việc viết Kinh ĐẠI THỪA.

Sau khi Phật nhập diệt, sợ mọi người sẽ quên, và muốn gom lại những lời Phật đã giảng, nên Ngài CA DIẾP đã tổ chức một cuộc KẾT TẬP để gom lại những gì Phật đã thuyết trong thời gian giảng dạy. Do đó cần có những Thánh Tăng là những vị đã từng nghe Phật giảng, đã Chứng Quả A La Hán, cùng tham dự để xác nhận những điều đã được nghe.

Lần Kết Tập đầu tiên ta thấy con số tham dự là 499 vị. Ngài A Nan lúc đó chưa được tham dự vì chưa Đắc Quả A La Hán. Nhưng chính Ngài A Nan, vì là người “thuộc lời Phật thuyết như nước trong bình đổ ra, không thiếu một giọt” , nên lãnh trách nhiệm đọc lại những lời Phật thuyết. Số Thánh Tăng còn lại thì xác nhận.

Việc viết Kinh ĐẠI THỪA thì hoàn toàn khác. Kinh ĐẠI THỪA do vị Tổ đã Chứng Đắc viết ra, hoặc giảng rồi các Đệ tử chép lại, mà người Chứng Đắc là Phật hiện tiền. Do đó, Tổ có thể tự ý viết ra Kinh theo cách của mình để giáo hóa mọi người mà không cần ai chứng minh cho. Thử hỏi, Tổ trước thì đã nhập diệt, những Đệ Tử của Tổ hiện tại thì chưa Chứng Đắc, làm sao ngang trình độ của Thầy mà hiểu gì để chứng minh cho Thầy ? Người đòi hỏi điều đó chứng tỏ không biết rằng Đạo Phật có việc Chứng Đắc. Hơn nữa, trong Đạo Phật, người Chứng Đắc rất hiếm hoi đến độ Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN ghi là : “Muôn người đi mà ít người đến được”.

Chư Tổ ĐẠI THỪA là những vị đã Chứng Đắc, đã được TRUYỀN Y BÁT, tức là trọn quyền thay Phật để phổ biến Giáo pháp. Vì thế các Ngài viết KINH thì có gì không đúng ? Cũng giống như sách viết về ngành Y của người đời. Đâu phải chỉ có mỗi Tổ sư Hippocrate hay lớp Bác Sĩ đầu tiên mới có quyền viết sách về Y Học, mà tất cả các Bác sĩ đã tốt nghiệp đều là Bác Sĩ như nhau, có quyền viết sách nói lại kinh nghiệm trị liệu của mình. Việc Tu Học theo Đạo Phật cũng thế. Đã Chứng Đắc thì cùng trình độ như nhau, vì “Phật trước Phật sau đều bình đẳng”. Hơn nữa, nội cái tên gọi là KINH ĐẠI THỪA tự nó đã nói rõ : Đó là Kinh do các TỔ ĐẠI THỪA viết, đâu có mạo nhận là Kinh của Phật Thích Ca mà cho là Ngụy Tạo ?

Người bắt bẻ Kinh của Tổ ĐẠI THỪA phải chăng là người không hiểu lời Thọ Ký của Đức Thích Ca. “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành” . Không hiểu Đạo Phật có TAM THẾ PHẬT tức Phật Quá khứ, Phật hiện tại, Phật Vị Lai, không biết có việc TRUYỀN Y BÁT, mà Tổ, tức là người được Truyền Y Bát, là Phật hiện tại của thời Ngài xuất hiện ? Điều đó cũng cho thấy họ không biết rằng TU PHẬT LÀ ĐỂ THÀNH PHẬT, và người đã Chứng Đắc chính là Phật. Đương nhiên cũng phải hiểu, Phật không phải là Thần Linh, có quyền phép, có thể cứu độ cho Tam Thiên Đại Thiên thế giới, như bao thời qua nhiều người đã hiểu lầm. Mà Phật, có nghĩa là Giải Thoát. Danh xưng Phật là để chỉ người nhờ tu hành mà Giải Thoát khỏi Phiền não, đau khổ. Thế thôi.

Nói về Kinh ĐẠI THỪA xuất hiện 500 năm sau khi Phật nhập diệt thì đúng. Nhưng người có hiểu về đường lối tu hành của Đạo Phật, có biết về hệ thống TRUYỀN THỪA, về lời Thọ Ký của Đức Thích Ca thì biết rằng không chỉ riêng Đức Thích Ca Thành Phật, mà tất cả mọi thời, những ai tu hành, Chứng Đắc cũng đều là Phật. Chư Tổ là những vị đã Chứng Đắc. Đó PHẬT HIỆN TẠI của thời các Ngài xuất hiện. Do đó, việc Tổ giảng hay viết Kinh là việc mà các Ngài cần làm và phải làm, vì trách nhiệm Hoằng Dương Chánh Pháp được Phật Thích Ca giao phó cho Các Ngài. Kinh do các Tổ viết gọi là CHÍNH KINH, vì đó là những lời được phát ngôn từ đại diện chính thức của Phật, tức cũng là lời của Phật. Nếu không có Chính Kinh thì nguời sau biết nương tựa vào đâu để Hiểu, để Hành gọi là : “Khế Kinh” ?

Ngay tất cả những Bộ KINH lớn cũng được cho là có sau Phật nhập diệt 218 năm, vì thời Phật giảng pháp thì chưa có chữ viết. Thời xưa, khi Phật thuyết pháp, các Đại Đệ Tử phải học thuộc lòng rồi truyền lại cho người muốn tu học gọi là KHẨU TRUYỀN. Đó cũng là lý do vì sao thời Phật tại thế các Tu Sĩ phải Xuất Gia, phải bỏ hết việc đời không được tham gia, là vì thời đó Chư Đại Đệ Tử là lực lượng nồng cốt, tương lai sẽ phổ biến Giáo Pháp, nên cần tập trung học, hiểu, ghi nhận và thực hành, không để bị việc thế gian chi phối. Về sau thì kinh, sách tràn lan, nên việc bỏ nhà, tập trung vô Chùa, bỏ hết việc đời không tham gia để chuyên tâm tu hành không còn cần thiết nữa, trái lại còn làm phí phạm nhân lực để xây dựng cuộc đời theo Luật Nhân Quả của Đạo Phật.

VỀ CÁC TỔ TRUNG QUỐC

Sau khi các TRƯỞNG LÃO tách ra, bên ĐẠI THỪA vẫn tiếp tục Truyền Y Bát lần xuống . Đến đờiTỒ thứ 28 là TỔ ĐẠT MA. Trước khi Truyền Y Bát cho Ngài, Tổ 27 thấy căn khí Đại Thừa bên Trung quốc vượng, nên dặn dò là sau khi Tổ diệt độ thì sang nước Trung Hoa mà truyền hóa. Tổ Đạt Ma phải đi thuyền mất 3 năm mới tới Trung Quốc. Sau khi diện bích 9 năm, Ngài đã TRUYỀN Y BÁT lần lượt được 5 Vị. Đó là :

1/- Tổ HUỆ KHẢ.

2/- TỔ TĂNG XÁN.

3/- TỔ ĐẠO TÍN.

4/- TỔ HOẰNG NHẪN.

5/- Tổ HUỆ NĂNG.

Tính theo thứ tự bên Trung Quốc thì Tổ Đạt Ma là Sơ Tổ, đến Tổ Huệ Năng là Tổ Thứ Sáu gọi là Lục Tổ. Nhưng tính theo thứ tự từ Đức Ca Diếp thì Tổ Huệ Năng là Tổ thứ 33 và là Tổ cuối cùng. Từ đó, Y BÁT được dấu đi, không còn Truyền nữa.

ĐỐI CHIẾU GIÁO PHÁP CỦA ĐẠI THỪA và TIỂU THỪA

So sánh Giáo Pháp được PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY và ĐẠI THỪA thì rõ ràng hai bên không khác gì nhau : Cũng chấp nhận GIỚI, ĐỊNH, HUỆ, TỨ DIỆU ĐẾ, BÁT CHÁNH ĐẠO, THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN, VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ. Chỉ có khác, là Quả vị cao nhất bên TIỂU THỪA là A LA HÁN, còn bên Đại Thừa thì cho rằng TU PHẬT LÀ ĐỂ THÀNH PHẬT, vì “TấT CẢ CHÚNG SINH LÀ PHẬT SẼ THÀNH”.

Người đắc A La Hán là người thấy CÁC PHÁP LÀ KHÔNG. Theo Đại Thừa, việc quán sát các Pháp để thấy rằng CÁC PHÁP LÀ KHÔNG, là để gỡ cái CHẤP CÓ của phàm phu. Phàm phu chỉ thấy những gì trước mắt : Có Ta, Có Vật, có những thứ giá trị, cho nên sinh Tham, muốn tranh giành để chiếm hữu những thứ mình thích. Vì thế, gây Nghiệp và làm cho cuộc sống không yên. Muốn tháo gỡ cái CHẤP CÓ cho họ, Phật dạy quán sát các Pháp, để thấy ngày nào đó tất cả đều trở về KHÔNG. Thân của mình, hay cảnh vật, đều sẽ không còn mãi. Thế là nhiều vị tu hành quán sát tới đó thấy đúng lý, rồi dừng ở đó, buông trôi mọi thứ. Không thiết sống. Không thiết tu hành, vì cho rằng CÁC PHÁP LÀ KHÔNG. Người thấy các Pháp là KHÔNG sẽ “diệt tận định”, không cho tạp niệm nổi lên, để cái Tâm được thanh tịnh. Nghĩ gì ngoài Phật thì cho là “Thất Niệm”. Do họ VÔ TÂM, nên vô cảm trước cuộc sống, chỉ biết lo cho bản thân được thanh tịnh để khi chết được về Tây Phương Cực Lạc mà quên rằng Tây Phương Cực Lạc cũng chỉ để nói về sự an lạc nơi cõi Tâm mà thôi !

Người tu theo ĐẠI THỪA vẫn phải qua giai đoạn THẤY CÁC PHÁP LÀ KHÔNG, để xả cái CHẤP CÓ. Nhưng sau đó họ sẽ được dạy quán sát tiếp để thấy : “Dù GỐC CÁC PHÁP LÀ KHÔNG, nhưng hiện tại ĐANG CÓ”. Có Ta, CÓ NGƯỜI. Có Vũ trụ với bao nhiêu người, vật sinh sống trong đó. Có Phật và Chư Vị Giác Ngộ đã tu hành thành công. Có PHÁP để học hỏi. Có Quả vị để phấn đấu. Có Chứng, Đắc....Dù rằng sau một thời gian tồn tại thì những thứ Có đó cũng sẽ đi vào hoại diệt. Nhưng nếu nói rằng CÁC PHÁP LÀ KHÔNG là không thực tế, vì mọi người đang sống trong CẢNH CÓ. Vì thế, họ nhìn nhận các PHÁP đúng như tình trạng nó đang hiện hữu, là đang TẠM CÓ. Nhưng nhìn, Thấy mà không Chấp, không khởi Tâm, gọi là NHƯ THỊ.

Người thấy các Pháp là TẠM CÓ thì sẽ “điều phục” hay “chuyển hóa” cái Tâm để không còn sinh những NIỆM ÁC. Họ thanh lọc để cái Tâm trở thành thuần thiện, không còn khởi những tư tưởng xấu, trái lại, nuôi dưỡng THIỆN TÂM, thực hành theo TỨ VÔ LƯỢNG TÂM là TÂM TỪ, TÂM BI, TÂM HỈ, TÂM XẢ của nhà Phật.

Việc Tu hành theo Đạo Phật, dù được Phật dùng nhiều phương tiện để giáo hóa, nhưng thật ra chỉ là đưa ra giải pháp để người tu sống trong cái TẠM CÓ này, với bao nhiêu phiền não, đau khổ, mà không còn bị đau khổ, phiền não, vùi dập. Được Hạnh phúc, an vui, cho đến hết kiếp, gọi là HỮU DƯ Y NIẾT BÀN. Người tu phải hiểu Lý nhân Quả, để gây tạo Nhân Thiện. Không tạo Ác Nghiệp để kiếp hiện tại bản thân và môi trường chung quanh được an vui, hạnh phúc, và kiếp sau, nếu có, thì cũng không phải rơi vào Ác Đạo. Đó mới là lợi ích thiết thực của việc tu Phật.

ĐẠI THỪA dạy rằng “TU PHẬT là phải Thành Phật” . Phật thì có 32 TƯỚNG TỐT, 80 VẺ ĐẸP, người tu cần hoàn thiện các Tướng đó cho mình, thì mới gọi là hoàn tất việc tu hành, và sau đó phải đền Tứ TRỌNG ÂN. Hoàn toàn khác với những người THẤY CÁC PHÁP LÀ KHÔNG nên buông trôi cuộc sống. Ở cõi trần mà mơ màng Tây Phương Cực Lạc bằng cách chỉ nghĩ về Phật, Niệm Phật, chờ về Nước Phật !

Người tu hành theo PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY cho rằng A La Hán là quả vị cao của Đạo Phật, mà không thấy điều nghịch lý là “Con Phật tại sao không thành Phật, lại thành A La Hán” ? Hơn nữa, chúng ta chỉ thấy Kinh dạy Phật Thọ Ký cho “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”, đâu có nơi nào ghi là Phật Thọ ký cho “Chúng sinh là A La Hán sẽ thành” ?

Việc TU PHẬT nghe có vẻ lớn lao, thật ra chỉ cần Sửa, hay còn gọi là chuyển hóa Cái TÂM đang dính mắc, với Tham, Sân, Si, Thương, Ghét..trở thành Giải Thoát, gọi là TU TÂM mà thôi. Do vậy, người muốn tu Phật, muốn hiểu Đạo Phật đúng theo Chánh Pháp thì không thể xa rời đường truyền TRUYỀN Y BÁT của Đạo Phật, vì chỉ trong Đường Truyền Y Bát, thì Đạo Phật mới được khai triển, giải thích, hướng dẫn cách thức thực hành theo đúng CHÁNH PHÁP như mong mỏi của Đức Thích Ca khi lập Đạo, không bị lạc vào Nhị Thừa hay Thần Quyền, mê tín, cầu xin, nương tựa.

Tiếp theo là những điểm quan trọng trong bài viết của nữ Giáo Sư TOKUNO, Đại Học Washington nói về Kinh Ngụy Tạo.

Theo Giáo Sư, Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ “Kinh Ngụy Tạo” để gọi văn học Phật Giáo phát triển nhiều ở khu vực Á Châu, giả mạo những văn bản Phật Giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ.

Kinh Ngụy Tạo có đặc điểm chung là loại văn học vốn thuộc tôn giáo bản xứ nhưng lại tự cho mình có nguồn gốc hoặc mối liên hệ với Phật Giáo Ấn Độ. Gs Tokuno trích ra vài Kinh ngụy tạo, đặc biệt là của Phật Giáo Đông Á, mạo nhận chính nó là Giáo Pháp của Đức Phật, tự nhận là Kinh. Đôi khi mạo nhận lời luận giảng về Kinh từ một vị Thầy có tiếng tăm của Phật Giáo Ấn Độ, tức tự mạo nhận là LUẬN. Một số tuyên bố xuất phát từ tuệ giác của các đấng Giác Ngộ ở Ấn Độ hoặc người được truyền thừa Tuệ Giác đó từ một dòng phái chính thức. Vì dụ như các Bộ Tánh Thư Quí Báu (Gterma) của Tây Tạng.

Một số Kinh Ngụy Tạo được soạn thảo theo văn phong kinh điển kiểu kể chuyện, như Bộ Tiền Thân Đức Phật (Jakata). Kinh Ngụy Tạo luôn tuyên bố hoặc cố ý ám chỉ rằng nó xuất nguồn từ Ấn Độ. Các Bộ Kinh Trung Quốc hay Tây Tạng luôn để mở hay bỏ ngõ với mục đích cho phép sự tiếp tục thêm vào dễ dàng các bản Kinh mới từ Ấn Độ qua nhiều thế kỷ, tạo cảm hứng và khích lệ sự sáng tạo ra các bản Kinh gọi là Kinh Ngụy Tạo. Kinh Pali của vùng Nam và Nam Á trái lại đã “cố định” rất sớm trong lịch sử. Điều này khiến khó có thể thêm vào đó những nội dung nào khác.

Nữ Giáo Sư cho rằng “rất khó khăn khi xác quyết một văn bản về mức độ giả tạo cũng như làm nhái các văn bản Phật Giáo của các tác giả ngụy Kinh, đòi hỏi các chuyên gia thư mục phải có kiến thức rất rộng về Phật học mới có thể truy tìm, đặc biệt khi chúng được tạo ra bởi những người thông hiểu lý thuyết và thực hành trong Phật Giáo, nhất là khi họ còn có thêm kỹ năng văn chương.

Khi tranh luận trong việc loại bỏ các yếu tố ngoại lai ra khỏi Thánh Điển có thể đưa Đạo Phật vướng vào sự chỉ trích của các đối thủ về mặt tôn giáo và tư tuởng Đạo Lão, Đạo Khổng.

Có khoảng 450 tựa đề Kinh ngụy tạo Trung Quốc liệt kê trong danh Mục Đại Tạng Kinh. Nhưng có số thật sự gần đến 550, lần lượt được tìm thấy trong các văn bản và bản thảo tại Trung Quốc và nhật Bản, Khoảng chừng 2/3 còn tồn tại đến nay, đã chứng minh cho tính lợi hại của kinh Phật ngụy tạo trong bản xứ và cũng chứng minh cho sự kiện người Trung quốc tiếp tục tin dùng loại văn bản này. Trong đó có cả nhà phân tích thông tuệ như TRÍ DI (538-597), người hệ thống hóa trường phái Thiên Thai của Đạo Phật Trung Quốc. Sự bùng nổ của hiện tượng ngụy Kinh lan rộng tại các vùng khác thuộc Đông Á, nhưng nhiều nhất là tại Trung Quốc.

Người ta đã tìm thấy trong kho Đôn Hoàng ở Trung Á vào thế kỷ 20, các bản thảo từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 11. Và tại Nanatsu-dera ở Nagoya Nhật Bản. Năm 1990 phát hiện cho thấy cả ngụy thư của Trung Quốc lẩn Nhật Bản. Điều kinh ngạc nhất là cuốn Kinh PILUO SANMEI JING – the Scripture on the Absorption of Piluo, một cuốn kinh giả mạo nhưng được chứng thực trong Đại Tạng Kinh soạn bởi nhà sư học giả nổi tiếng ĐẠO AN (312-385), trước đó thì kinh này không ai biết. Bản thảo kinh Phật tại Nhật Bản chỉ là bản sao của Bộ ngụy thư có sớm nhất từ Trung Quốc.

Vài kinh ngụy tạo rất khéo léo trong sự tổng hợp tài liệu của Phật Giáo Nguyên Thủy từ Ấn Độ mà không nói gì về nguồn gốc tộc hệ của chúng. Tuy thế, một số kinh ngụy tạo khác tuyên truyền về những loại đức tin và những loại thực hành phổ biến, tiêu biểu cho văn hóa bản địa, đồng thời thêm vào một cách vụng về, cẩu thả những yếu tố Phật Giáo nhắm mục đích giải thích cho cái tựa đề là Kinh.

Đa số các Kinh Ngụy Tạo Trung Quốc rơi vào hai cực đoan khi ca ngợi các đức tin và thực hành Phật Giáo như phương tiện để thu hoạch lợi ích vừa trần gian vừa tâm linh. Sau đây là những phê bình có chọn lọc về những nguyên cớ cho sự xuất hiện của Kinh giả tạo, đồng thời phán ánh cái cách mà Giáo Pháp của Đức Phật đã bị đóng khung và bị suy diễn.

Trước hết là hai ví dụ Kinh Ngụy Tạo từ học thuyết ĐẠI THỪA, ủng hộ một lý thuyết hay một cách thực hành không có phiên bản tương ưng trong Phật Giáo Ấn Độ.

1/- KHỞI TÍN LUẬN (Dasheng Qisin lun), tái tạo Phật Giáo chính thống bằng cách tổng hợp ba khynh hướng chính của học thuyết Ấn Độ : TÁNH KHÔNG (Sunyata), A LẠI DA THỨC (Alayavijnana) và THAI TẠNG GIỚI (Tatha Gatagarbha).

Kinh này nhằm đặt ra một Bản Thể Luận cho tâm trí con người. Theo đó, tâm trí có thể đồng thời vừa Vô Minh vừa có Tánh Giác Nội Tại.

Sau khi xuất hiện ở thế kỷ thứ 6, Bộ Luận Khởi Tín có lẽ đã trở thành ví dụ nổi bật của sự tác động của kinh ngụy tạo vào sự phát triển của hệ tư tưởng Phật Giáo Trung Quốc, vì nó trở thành chất xúc tác cho sự hình thành các học thuyết của các Giáo Phái bản xứ như Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Thiền Tông T.Q.

Trường hợp thứ hai là cuốn Kinh KIM CANG ĐỊNH (Jin’gang samei jing Vajrasamadhi sutra) được tạo bằng sự pha trộn hỗn tạp của tất cả học thuyết Đại Thừa, nhằm cung cấp một nền tảng cho một hệ thống thực hành Thiền và khẳng đinh hiệu quả Giải Thoát của hệ thống đó. Đây là 1 trong những bản Kinh lâu đời nhất của Thiền Tông Trung Quốc và Đại Hàn.

Một số Kinh Ngụy Tạo thêm vào nguồn dẫn và sự suy diễn với mục đích tăng cường một giá trị hay quan điểm nào đó của Đạo Phật với môi trường bản xứ. GIỚI LUẬT, nền tảng của Giải Thoát Phật Giáo đã được kinh ngụy tạo thể hiện nổi bật như một chủ đề. Thí dụ như Kinh Phạm Võng. Kinh này thay đổi một phần Giới Luật của Bồ Tát Đạo bằng cách thêm vào khái niệm Hiếu của Đạo Khổng.

Có Kinh ngụy tạo đưa ra Giới Luật nhấn mạnh một cách đặt biệt vào giới Cư Sĩ. Các ngụy Kinh này dạy hướng dẫn đạo đức cơ bản cho cư sĩ, như Ngũ giới, Thập thiện, sự quan trọng của Cúng Dường. Tất cả được dựng trong học thuyết của Nghiệp và Tái Sanh. Năm Giới của Cư Sĩ được cho là điều kiện đủ để đạt tới Giác Ngộ của Phật, một con đường cực kỳ đơn giản vạch ra để động viên sự tham gia của cộng đồng cư sĩ vào thực hành Đạo Phật

Khái niệm Hiếu thể hiện rất rõ trong ĐẠI BÁO PHỤ MẤU TRỌNG ÂN, đặt căn bản trên giáo huấn cụ thể của người con bất hiếu và thúc đẩy anh ta phải báo đáp cha mẹ, phải hy sinh bằng cách cúng dường Tam Bảo. Loại Kinh này là Kinh Ngụy Tạo phổ biến nhất vào thời Trung cổ.

Luật Nghiệp và Tái Sanh được đề cập ở trên là một chủ đề có khắp mọi nơi hay một hậu cảnh của Kinh ngụy tạo. thí dụ Kinh Thập Điện Diêm Vương, minh họa giáo lý Đạo Phật Ấn Độ cho độc giả Trung Quốc bằng mô tả sự thanh tẩy sau khi chết.

Kinh Ngụy Tạo là sản phẩm ở những không gian và trong những thời gian đặc biệt, hoặc phê phán tình trạng tôn giáo nào đó, hay phê phán toàn thể xã hội, cả cấp quốc gia mà chính sách của nó thực hiện đối với Đạo Phật. Những phê phán như vây thường thể hiện trong khái niệm về thuyết Mạt Thế gọi là Thời Mạt Pháp truyền vào từ các nguồn Ấn Độ. Kinh NHÂN VƯƠNG mô tả sự thoái hóa tất cả các tầng lớp xã hội, sư suy đồi, biến dạng Đạo Phật, buông lơi Giới của Phật Tử. Giải pháp được đề xuất cho khủng hoảng này là sự hoàn thiện Tuệ Giác, cái được tin là có thể khôi phục trật tự tôn giáo xã hội, ngay cả bảo vệ được sự diệt vong của đất nước, đặc biệt là trong giới cầm quyền, ít nhất là vì nó khẳng quyết về việc bảo vệ quốc gia.

Kinh Tỳ Kheo Nguyệt Quang đưa ra một giải pháp khác cho thời Mạt Pháp : Nó tiên tri một Đấng Cứu Thế xuất hiện vào lúc khủng hoảng và suy đồi đã đến lúc cực điểm. Một thông điệp cứu thế như vậy không thể không có cội nguồn từ Phật Giáo Ấn Độ - giáo phái thờ Phật Di Lặc là một ví dụ. Nhưng sự đề xuất một Đấng Cứu Thế trong thế giới hiện tại có thể dễ bị giải thích cho một sự lật đổ chính trị và là thách thức cho nhà cầm quyền thế tục. Kinh này là một Kinh Ngụy Tạo được tìm thấy tại Đôn Hoàng 1400 năm sau lúc có bằng chứng là nó được sáng tác.

Tác giả kết luận là “Chỉ chạm đến một phần rất nhỏ về chuyện Kinh Phật Giáo Ngụy Tạo, và cho rằng ngay cả khi làm rõ thì Kinh Ngụy Tạo vẫn chiếm một chỗ quan trọng trong lịch sử Phật Giáo như sự đổi mới và thích nghi để nối liền văn bản từ truyền thống Phật Giáo Ấn Độ với tôn giáo, văn hóa xã hội bản địa Trung Quốc, cung cấp tài liệu cho các nhà nghiên cứu đối chiếu với các Thánh Điển, các Kinh trong các truyền thống tôn giáo khác nhau”

Đến đây là hết phần trích bài viết của Giáo Sư Tokuno.

TRẢ LỜI CHUNG CHO NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ KINH NGỤY TẠO mà Bà Giáo Sư KYOTO TOKUNO NÊU RA.

Đạo Phật không giống như các Tôn Giáo khác mà Giáo Chủ là ngôi vị độc tôn, tín đồ chỉ việc tin và làm theo những giáo điều sẽ được cứu rỗi, mà Đạo có nghĩa là CON ĐƯỜNG, Phật chỉ có nghĩa là Giải Thoát. ĐẠO PHẬT là CON ĐƯỜNG MÀ TẤT CẢ NHỮNG AI ĐI TRÊN ĐÓ SẼ ĐẾN ĐÍCH CUỐI CÙNG là GIẢI THOÁT KHỎI MỌI PHIỀN NÃO, ĐAU KHỔ. Đức Thích Ca và Chư Tổ là những người đi trước, đã thành công, hướng dẫn lại cách thức để cho tất cả những người đi sau đều thành công như các vị. Vì thế mà Phật đã Thọ Ký : “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”. Nếu hiểu được điều đó, chúng ta sẽ không còn thắc mắc vì sao người Chứng Đắc thời sau cũng có thể Hiểu như các Vị đi trước, và có quyền Giảng Pháp, viết Kinh, mà trường hợp của Tổ Đạt Ma và Lục Tổ Huệ Năng là hai Tổ gần thời chúng ta nhất, còn để lại SÁU CỬA VÀO ĐỘNG THIẾU THẤT và PHÁP BẢO ĐÀN KINH mà người tu học sẽ được rất nhiều lợi lạc khi đọc lời giải thích về Các Pháp và đường lối tu hành của hai Tổ trong đó.

Đường tu cũng đâu có khác đường đời. Cũng là lý thuyết, thực hành, kết quả. Trường đời cũng đâu phải chỉ có lớp Bác Sĩ tốt nghiệp đầu tiên và duy nhất. Mà về sau, tất cả sinh viên Trường Y nào sau thời gian học, đủ trình độ, kiến thức chuyên môn, thi đủ điểm, thì đều tốt nghiệp Bác Sĩ như nhau. Đạo Phật cũng vậy. Người tu học nếu đã Giác Ngộ hay Chứng Đắc thì cũng đạt đến trình độ hiểu biết như các Vị đi trước, có toàn quyền diễn đạt ĐẠO PHẬT theo cách của mình, theo ngôn ngữ của thời đại mình, miễn là không xa rời mục tiêu Giải Thoát. Đó là lý do mà sau khi dẫn chứng hàng loạt Kinh sách, Giáo Sư Tokuno viết : “Rất khó khăn khi xác quyết một văn bản về mức độ giả tạo cũng như làm nhái các văn bản Phật Giáo của các tác giả Ngụy Kinh, đòi hỏi các chuyên gia thư mục phải có kiến thức rất rộng mới có thể truy tìm, đặc biệt khi chúng được tạo ra bởi những người thông hiểu lý thuyết và thực hành trong Phật Giáo”.

Đa phần những nhà nghiên cứu chỉ biết có mỗi Phật Thích Ca và Đạo Phật nói chung. Không nghiên cứu việc tu hành theo Đạo Phật nên không nắm được quy trình tu hành, Thành Phật của Đạo Phật. Hơn nữa, việc tu hành theo Đạo Phật không thể nghiên cứu, mà bắt buộc phải đích thân hành trì mới có thể trải nghiệm. Chính vì vậy, họ không biết rằng tất cả mọi người, không phân biệt nam, nữ, già, trẻ, học cao hay ít học, giàu hay nghèo.. Nếu gặp đúng Chân Sư hướng dẫn tu đúng theo Chánh Pháp thì đều đạt kết quả Giải Thoát hay Thành Phật như Đức Thích Ca và Chư vị Giác Ngộ đã thành. Do đó, Kinh gọi là có TAM THẾ PHẬT.

Sở dĩ phải nhấn mạnh là “phải gặp Chân Sư hướng dẫn tu đúng Chánh Pháp” vì sau khi Phật nhập diệt, không kể các vị Tổ là những người được TRUYỀN Y BÁT, có nhiệm vụ phải “mồi Ngọn Vô Tận Đăng” của Đạo Phật, hầu hết những vị Xuất Gia, miễn là đầu tròn, áo vuông, tu lâu hay mau, hiểu ít hay nhiều đều giảng Đạo Phật. Thậm chí có vị còn viết sách giảng, luận ! Do đó, nếu người tu hành đời sau mà học hỏi nơi những Kinh sách do những người chưa Chứng Đắc viết, thì chắc chắn không thể nào tu hành thành công được. Chính vì vậy mà bao nhiêu thời qua, có biết bao nhiêu lớp người tu hành mà không thấy có người Chứng Đắc, Thấy Tánh !

Đa phần những nhà nghiên cứu Đạo Phật cũng dựa theo tài liệu của những người ngoài hệ thống Truyền Thừa, tất nhiên do những người CHƯA CHỨNG ĐẮC viết. Vì thế nên làm sao họ hiểu rằng trong Đạo Phật có việc Nối Truyền ? Cũng như làm sao biết rằng trong Đạo Phật, ngoài Đức Thích Ca thì Chư Tổ cũng là người Chứng Đắc, Thành Phật ? Vì thế họ cho rằng chỉ mình Phật Thích Ca được quyền thuyết pháp, những gì không phải chính do Phật Thích Ca thuyết ra thì đều cho là “Ngụy” !

Phật dạy : “Tất cả Chúng Sinh đều có Phật Tánh”. Tức là tất cả mọi người đều có Chúng tử của Phật, tức là khả năng Thành Phật. Do đó, tất cả mọi người đều là “Phật sẽ thành” nếu có người đã thành công hướng dẫn cho cách Hiểu đúng, Hành đúng theo những gì Đức Thích Ca đã dạy. Do vậy, dù là Kinh viết sau thời Phật nhập diệt. Nhưng người viết là người đã thông hiểu lý thuyết và viết ra đến độ người đọc biết là giả tạo mà không thể xác quyết được. Như thế, rõ ràng, dù không phải do chính kim khẩu của Đức Thích Ca thuyết, mà người viết diễn tả theo cách nảo đó, nhưng cũng giống như lời của PhẬt không khác, thì đó chính là lời của vị Giác Ngộ thời sau Phật. Họ cũng chính là Phật. Do đó mà có kiến thức như Phật không khác. Chính là những vị mà Kinh gọi là “Phật hiện đời” của thời đó.

CÓ MỘT SỐ THẬT SỰ LÀ NGỤY KINH. Đó là của những người không phải là những vị Tổ chính thức, hay đã Chứng Đắc, mà chỉ là người vào tu một thời gian, hiểu được một vài vấn đề trên con đường hành trì, tu học, nên viết ra để phổ biến. Nhưng do chưa Chứng Đắc, nên sự diễn giải của họ cũng có giới hạn, không thể đưa đến kết quả Giải Thoát. Thế nhưng, nhiều người mới bước vào con đường tu học, hay tu hành mà chỉ máy móc tin theo người đi trước, cứ “xưa bày, này làm”, thiếu nghiên cứu để kiểm chứng, và bá tánh chỉ là những Phật Tử Kinh còn chưa đọc được quyển nào thì làm sao phân biệt được Chân, Giả ? Vì thế, đến nay những loại Kinh như thế cũng đã tràn lan, gọi là “Thiên Kinh vạn quyển”, chỉ người nắm vững Giáo Pháp mới phân biệt được. Ngay cả Chính Kinh cũng bị những người “Y KINH GIẢI NGHĨA”, làm sai lạc ý nghĩa thật sự của Đạo Phật chân chính. Thí dụ :

- Cho rằng Phật là Thần Linh, có toàn quyền Cứu Khổ, ban vui, ban phúc, giáng họa, cứu khổn, phò nguy, “Cứu độ cả Tam thiên Đại Thiên thế Giới”, chỉ cần thành khẩn cầu xin là sẽ “được độ”.

- Cho rằng thật sự có Nước của Phật A Di Đà ở Tây Phương. Vì thế, nếu công phu bằng cách “Niệm Phật ngày đêm sẽ phát sinh công đức, lúc qua đời sẽ được vãng sinh về Tây Phương Cực Lạc”.

- Cho rằng khi có người thân qua đời , người nhà chỉ cần rước Sư tới Tụng Kinh Vãng Sanh thì Phật A Di Đà và Thánh chúng sẽ đến rước vong linh đưa thẳng về Tây Phương Cực Lạc !

- Thay vì dùng “ Hương”- tức là thành quả của những việc làm tốt đẹp - dâng cúng lên Phật, tức là Sự Giải Thoát của Tâm Mình - thì đốt Nhang làm bằng bột gỗ có tẩm mùi hương, cúng lên tượng đồng, hay Tượng gỗ, tượng xi măng mang hình tướng Phật !

- Thay vì dùng những Hạnh mà Phật đã Hành, tượng trưng cho 32 TƯỚNG TỐT, 80 vẻ đẹp của Phật rồi Hành theo đó, gọi là ĐỤC, CHẠM, KHẮC TƯỢNG PHẬT CHO MÌNH, thì dùng vàng, đồng, xi măng, thạch, cao, đổ hay đúc, chạm thành Tượng, rồi thắp hương, xì xụp lạy để thờ cúng !

- Thay vì thực hành theo lời Kinh dạy, thì mang Kinh ra mà Tụng ngày mấy thời. Lấy đó làm công phu tu tập ! Nhiều Tu Sĩ Xuất Gia tu hành là vì tin Phật là Thần Linh, nên để hy sinh cuộc đời để phụng sự cho Phật. Họ tin Phật “quyền phép vô song, cứu độ Tam Thiên Đại thiên thế giới”, nên cũng dạy cho bá tánh Cầu An, Cầu Siêu, Cầu Phật, Bồ Tát phù hộ, độ trì ! Những Tu Sĩ hành đạo như thế chính là “Những con trùng trong thân Sư Tử, ăn thịt Sư Tử”, vì đã biến Đạo Phật thành Tà Đạo. Biến bá tánh - lẽ ra có thế tu hành, thành Phật - thì trở thành những “gã cùng tử”, chỉ biết cầu xin Phật, Bồ Tát cứu độ, thành những người Thờ Phật. Mọi khổ, vui, an, nguy, sống, chết của cuộc đời đều trông cậy vào Phật !

Phật không phải là thần Linh. Không thể cứu độ cho ai. Phát ngôn chính thức của Phật Giáo trên Internet cũng giải thích : “Phật không phải là Thần Linh, mà chỉ là một người bình thường như tất cả mọi người, nhờ tu hành mà Thoát được phiền não”. Tất cả mọi người đều có thể tu hành để đạt được kết quả như Phật. (Nguồn Phatgiao.org). Do đó, Chùa chiền nào vẫn xem Phật là Thần Linh rồi hướng dẫn cho bá tánh nhang khói Cầu An, Cầu Siêu, cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mọi người được sống trong bình an, hạnh phúc, có việc thì hương đăng, trà quả đến Chùa để Câu Xin Phật, Bồ Tát phù hộ, độ trì thì không phải là Chánh Pháp của Đạo Phật. Theo Kinh KIM CANG thì đó là những người hành Tà Đạo.

Cách phân biệt thế nào là CHÂN KINH, thế nào là NGỤY KINH :

Trước khi Đức Thích Ca nhập diệt, có ngoại đạo tên là Subhadda đến chất vấn Phật “Làm sao phân biệt trong những vị Sa Môn, Bà La Môn, giáo trưởng, Sư trưởng, những người có tiếng tăm .. là người giác ngộ hay chưa giác ngộ” ? Phật trả lời :

“Này Subhadda, trong Pháp luật nào không có Bát Thánh Đạo, thì ở đó không có Đệ Nhứt Sa Môn, không có Đệ Nhị Sa Môn, không có Đệ Tam Sa Môn, không có Đệ Tứ Sa Môn. Này Subhadda, chính trong Pháp luật này có Bát Thánh Đạo, thời ở đây có Đệ Nhất Sa Môn, có Đệ Nhị Sa Môn, có Đệ Tam Sa Môn, Đệ Tứ Sa Môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có. Này Subhadd. Nếu những vị Tỳ Kheo này sống chơn chánh, thì đời này không vắng những vị A La Hán”.

Điều kiện được Phật nêu ra rất rõ : Không được đi ra ngoài BÁT CHÁNH ĐẠO. Nếu hành đúng theo Bát Chánh Đạo thì từ suy nghĩ, hành động, lời nói..đến nuôi thân mạng cũng đều phải Chân Chánh. Mục đích là để THÂN, KHẨU, Ý đều không tạo Nghiệp Tham, Sân, Si, gọi là “Ba Nghiệp thanh tịnh”. Như vậy, dù có biết bao nhiêu người Tu một thời gian, hiểu nhiều hay ít, cũng viết sách giảng Đạo tràn lan. Nhưng Giới và BÁT CHÁNH ĐẠO là hai thứ để cho chúng ta phân biệt những gì của họ viết ra đó có chân chính hay không ? Nếu có GIỚI và BÁT CHÁNH ĐẠO, thì ít nhất cũng hướng dẫn cho người học theo trở thành một con người có đạo đức, vì Đạo Phật tuy không dạy đạo đức, nhưng tất cả những việc hành trì đều hướng tới con đường CHÂN-THIỆN-MỸ.

Chúng ta cần phân biệt cho rõ, không thể gom tất cả những tác phẩm viết sau thời Phật giảng cho đó đều là Kinh Ngụy Tạo, mà chỉ nên nói về những quyển kinh được viết bởi những người CHƯA THẤY TÁNH, CHƯA CHỨNG ĐẮC. Không thể nói là Ngụy Kinh đối với những quyển Kinh ĐẠI THỪA do các Tổ được TRUYỀN Y BÁT viết, dù các Ngài không nêu rõ danh tánh hay dùng văn phong y như những lời ngày xưa Chư Đại Đệ Tử Phật đã dùng khi Kết Tập. Cũng bắt đầu bằng “Ta nghe như vầy”.. hay “Chính tôi được nghe” như là do chính Ngài Anan kể lại.

Về các TÔNG, PHÁI, thì Sử 33 Vị Tổ có viết. Trước khi Tổ Đạt Ma sang Trung Quốc thì ở đây đã có Lục Tông gồm : Hữu Tướng Tông, Vô Tướng Tông, Định Huệ Tông, Giới Hạnh Tông, Vô Đắc Tông và Tịch Tịnh Tông. Chính Tổ Đạt Ma đã tìm đến đấu pháp với từng Tông để thu phục họ và họ đã quy y ĐẠI THỪAtheo Tổ.

Đệ Tử nhiều đời sau của Lục Tổ Huệ Năng thì lập ra NGŨ PHÁI THIỀN. Gồm có : VÂN MÔN TÔNG, PHÁP NHÃN TÔNG, QUY NGƯỠNG TÔNG, TÀO ĐỘNG và LÂM TẾ. Những Tông này dù xuất phát từ nguồn là Đệ tử nhiều đời của Tổ Huệ Năng, nhưng không liên quan đến Lục Tổ, vì lúc đó Lục Tổ đã nhập diệt cả trăm năm trước rồi.

Chúng ta có thể khẳng định : Những Pháp Môn, Tông, Phái là những vị có thể trước đó có thời gian tu theo ĐẠI THỪA, nhưng sau đó tự tách ra riêng để làm Giáo Chủ, có cách thức tu hành riêng, thì không còn trực thuộc vào ĐẠI THỪA nữa. Vì thế, những việc họ làm hay Kinh, sách của họ viết, những gì họ truyền bá, nói về những điều gì cũng không liên quan gì đến Tổ, cũng không thể đổ cho đó là ĐẠI THỪA. Ngay cả những người trong dòng ĐẠI THỪA chính thống, nhưng nếu không hành trì theo đúng như những gì Chư Tổ hướng dẫn trong Chính Kinh thì đó cũng không phải là do lỗi của Đại Thừa.

ĐẠI THỪA dạy TU TÂM. Nói rằng “Tức Tâm, tức Phật”, “Muốn tìm Phật thà tìm Tâm”. ”Muốn được Tịnh Độ thì phải Tịnh Tâm”. Mỗi người tự quay vô Tâm để làm những Hạnh Phật, gọi là chạm, khắc Tượng Phật nơi Tâm, không dạy đúc Tượng Phật để quỳ lạy, van vái, cầu xin. Những người quay ra, dùng chất liệu để đúc, tạc thành Tượng Phật rồi thắp nhang cúng bái không phải là do ĐẠI THỪA hướng dẫn. Chính 4 câu Kệ :

    “Ai nương sắc thấy ta.
         Dùng âm thanh để cầu ta.
         Ngưởi đó hành tà đạo
         Không thể thấy Như Lai”,
là trích từ Kinh KIM CANG của ĐẠI THỪA.

Về PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY, theo tôi, nếu thật sự là người tu hành theo đúng như nghĩa của hai từ Nguyên Thủy, thì lẽ ra các vị không được bỏ qua bất cứ lời nào của Đức Thích Ca Phó Chúc mới đúng. Vậy thì các vị nghĩ sao về việc TRUYỀN Y BÁT của Phật ? Việc đó là sự thật, đã diễn ra, còn ghi lại trong lịch sử Đạo. Theo đó, thì Tổ là người chính thức được Phật trao cho trách nhiệm cầm nắm Tăng Đoàn và phổ biến Giáo Pháp của Ngài. Như vậy, phải chăng nhóm chống đối, tự tách ra, không chấp nhận dưới quyền lãnh đạo của Tổ đã được ủy nhiệm, thì cũng đồng thời chống lại lời dặn dò của Đấng Đạo Sư thì liệu còn xứng đáng xưng là Đệ Tử Phật để rao giảng Giáo pháp của Phật hay không ? Hơn nữa, “Tu Phật là phải thành Phật” thì mới gọi là tu hành đúng theo Chánh Pháp. Người chưa Chứng Đắc, bản thân còn chưa hiểu rõ cách thức tu hành để “Thành Phật” thì làm sao hướng dẫn cho bá tánh mà cho là mình hộ trì Chánh Pháp ?

SO SÁNH CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO và CÁI KHÔNG

Phật ngôn có câu : “Như nước biển chỉ có một vị mặn, Giáo Pháp của ta cũng chỉ có một vị Giải Thoát mà thôi” . Cái Giải Thoát này không phải là né pháp, tránh pháp, mà phải ở ngay trong nó mà Thoát nó. Người tu phải “ở trong phàm mà thoát phàm”, giống như hình ảnh của HOA SEN, ở trong bùn mà không vương mùi bùn. Đó là lý do mà Đạo Phật dùng Hoa Sen làm biểu tượng.

- Người tu theo ĐẠI THỪA thì cho rằng “Giải Thoát hay ràng buộc cũng chỉ do cái Tâm”, nên chuyển hóa Cái Tâm của mình, làm cho nó miễn nhiễm với các Pháp, để dù ở trong các pháp đầy biến động mà vẫn thanh tịnh, như lời Kệ của Lục Tổ Huệ Năng : “PHẬT PHÁP TẠI THỂ GIAN. BẤT LY THẾ GIAN GIÁC” . “Không rời thế gian mà Giác Ngộ”. Vẫn ở trong thế gian, vận dụng Nhân Quả để lợi mình, lợi người. Điều đó mới thật sự nói lên hình ảnh của Hoa Sen mà đạo Phật dùng làm biểu tượng. Vì thế, Giải Thoát của Đại Thừa, là TRUNG ĐẠO, là sống trong cảnh CÓ mà Tâm như Hư Không.

Người chứng Con Đường Trung Đạo sẽ không khinh chê cuộc đời. Không cho rằng cuộc đời là bể Khổ như trước khi tu hành. Trái lại, họ tri ân cuộc đời, cảm ơn cái Thân, vì nhờ có cái Thân, có Lục Căn hỗ trợ họ mới có thể QUA SÔNG SINH TỬ, nên họ theo lời Phật dạy, sau khi hoàn tất việc tu hành, phải ĐỀN TỨ ÂN để trả nghĩa cho Cha Mẹ là người đã sinh thành, dưỡng dục. Ân Đất Nước đã cưu mang họ. Ân Phật, Ân Thầy chỉ cho con đường Giải Thoát và Ân của tất cả chúng sinh đã cung cấp mọi phương tiện sống để họ được tồn tại. Họ không xa lánh cuộc đời để được an nhàn, thanh tịnh, mà vẫn tiếp tục ở trong cuộc đời, thực hành theo Lý NHÂN QUẢ, góp tay để xây dựng cuộc đời, rập khuôn theo Hạnh của Phật để chạm khắc những Tướng Tốt cho Phật của mình, bằng cách làm những việc lợi ích cho mình, cho cuộc đời để trả ân cuộc đời mà họ đang góp mặt.

Phía Phật Giáo Nguyên Thủy không hề đề cập đến cái Tâm. Không biết có Cái Tâm để tu sửa. Không biết rằng “Niết Bàn hay Địa Ngục cũng chỉ do cái Tâm”, nên phải tránh né các Pháp để được thanh tịnh. Giải Thoát của bên TIỂU THỪA là cái KHÔNG, chê đời là ô trược, nên tránh né các Pháp, xa lánh cuộc đời, dẹp hết tạp niệm, không tham gia việc đời để được thanh tịnh, chờ ngày về Niết Bàn. Do thấy “Các Pháp là Không”, nên không vận dụng được Các Pháp, không sinh lợi ích gì cho ai, cả đời chỉ tụng kinh, Niệm Phật, để chờ hết kiếp được lên Niết Bàn hay về Tây Phương Cực Lạc. Vì thế, nên bên Đại Thừa gọi Tiểu Thừa là “Chồi Khô mộng lép” là trong nghĩa đó.

Một sự mâu thuẫn không hề nhỏ là : Quả vị là của Tiểu Thừa là A La Hán, tức là CÁI KHÔNG. Nếu mọi thứ đều là KHÔNG, lẽ ra Không có Phật, không có chúng sinh, không có Ta,.Không có bá tánh. Không có Con đường tu hành. Không cả vật chất. Không cả thế gian và mọi vật thì mới đúng lý. Nhưng nếu chúng ta để ý thì sẽ thấy, những nước mà PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY là Quốc Giáo thì trái lại. CHÙA, TƯỢNG chiếm vị trí quan trọng nhất. Chùa nào cũng nguy nga, lộng lẫy, đồ sộ. Trên đời có bao nhiêu thứ quý giá như vàng, ngọc, đều tập trung để trang hoàng cho Chùa, cho Tượng ! Như vậy thì liệu các Pháp có thật sự là KHÔNG ? Các Pháp là KHÔNG sao Chùa chiền lại CÓ ? Sao CÓ mình đúng, CÓ người khác sai ? Có mình hộ trì Phật Pháp, CÓ người khác phá pháp ? Dựa vào đâu ? Nếu mọi thứ đều Có đề so sánh đúng, sai, tốt xấu, thì sao cho là KHÔNG được ?

NGỮ và NGHĨA

Đạo Phật hiểu đúng nghĩa, là Con Đường Giải Thoát. Tín đồ của Đạo Phật không xem Đức Thích Ca như là một vị Thần Linh để tôn thờ, mà xem Ngài là NGƯỜI KHAI MỞ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT mà tất cả những ai Hiểu rõ và hành trì đúng theo những gì Ngài hướng dẫn đều sẽ đạt được kết quả như Giải Thoát như Phật không khác. Bằng chứng là Chư Tổ và Chư Vị Giác Ngộ đã làm và đã thành công. Người theo Đạo Phật CHỈ CẦN TIN LUẬT NHÂN QUẢ, TIN CÓ TAM THẾ PHẬT, TIN GIÁO PHÁP CỦA ĐẠO PHẬT SẼ HƯỚNG DẪN NGƯỜI HÀNH TRÌ THEO ĐẠT KẾT QUẢ LÀ ĐƯỢC GIẢI THOÁT hay THÀNH PHẬT, rồi từng bước hành trì theo kinh nghiệm của Chư Tổ đi trước được ghi lại trong Chính Kinh để bản thân mình cũng được Giải Thoát. Do vậy, những người THỜ PHẬT, cầu xin để được phù hộ độ trì lúc còn sống cũng như khi qua đời, thì không phải là tín đồ của Đạo Phật chân chính, mà đó là những người hành Tà Đạo như bài kệ của Kinh KIM CANG đã trích dẫn ở phần trước.

Đã TIN NHÂN QUẢ thì không những không cúng kiếng, cầu xin mà ngay cả khi sai phạm thì biết rằng người phải gánh chịu hậu quả là chính mình, Phật không phải chịu trách nhiệm cũng không có quyền tha thứ cho mình. Do đó, cũng không có gì phải nhang đèn đến Chùa để SÁM HỐI với Phật, cầu xin Phật tha thứ, mà chỉ là tự Sám Hối với bản thân để không bao giờ tái phạm nữa.

- Thay vì THẮP HƯƠNG được làm bằng bột gỗ tẩm mùi hương, đốt lên trước các TƯỢNG PHẬT, thì LÀM những HẠNH : Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Huệ gọi là LỤC ĐỘ. Sáu việc làm này là để cứu độ cho LỤC ĐẠO CHÚNG SINH nơi TÂM CỦA MỖI NGƯỜI. Không ai có thể cứu độ chi người khác, kể cả Đức Thích Ca là vị sáng lập Đạo Phật cũng chỉ cứu độ cho mọi người bằng Giáo Pháp, tức là những lời hướng dẫn, giáo hóa mà thôi.

Có Bốn điều người tu Phật cần phải Y theo. Đó là Y PHÁP BẤT Y NHÂN. Y NGHĨA BẤT Y NGỮ. Y TRÍ BẤT Y THỨC và Y KINH LIỄU NGHĨA BẤT Y KINH VỊ LIỄU NGHĨA !

Do đó, nếu theo NGHĨA mà Y, và tu hành đúng CHÁNH PHÁP thì :

- Thay vị TU TƯỚNG thì hãy TU TÂM.

- Thay vì CẠO TRỌC ĐẦU thì hãy CẠO SẠCH PHIỀN NÃO.

- Thay vì ĐẮP Y thì hãy PHỦ LÊN THÂN, TÂM một màu thanh tịnh, không để cho SẮC TRẦN làm ô nhiễm.

- Thay vì mang bát đi xin cơm tức là KHẤT VẬT THỰC, để nuôi Thân Phàm, thì hãy KHẤT PHÁP THỰC, tức là học hỏi nơi Kinh sách hay những người biết Pháp Giải Thoát để NUÔI THÂN GIẢI THOÁT.

- Thay vì XÂY CHÙA hữu tướng bằng gạch, ngói, xi măng, cát, thì hãy quay vô Tâm, xây CHÙA VÔ TƯỚNG ở đó, bằng cách LÀM CHO TÂM ĐƯỢC THANH TỊNH.

- Thay vì lấy Vàng, bạc, đồng để ĐÚC TƯỢNG PHẬT HỮU TƯỚNG thì hãy Hành theo những HẠNH mà PHẬT ĐÃ LÀM. Đó mới thực sự là đúc, tạc Tượng Phật nơi Tâm. Hoặc có Tổ còn nói cách khác là : Tượng Phật nơi Tâm của mỗi người vốn sẵn có, chỉ cần lau, rửa, tẩy những bùn, đất đã che khuất, để cho Tượng được lộ ra. Tượng Phật đó mới không bị thời gian, không gian làm cho hư hoại.

Đức Thích Ca cho rằng mỗi người được sinh ra, được giáo dưỡng, trưởng thành là nhờ cha mẹ, đất nước, những bậc Thầy đã dẫn dắt, và những người đã cung cấp hạt gạo, ngọn rau, phương tiện sống cho. Vì thế, Phật dạy nguời Tu xong phải đền TỨ TRỌNG ÂN. Đền cách nào, nếu không phải là phụng dưỡng cha mẹ, đóng góp công sức, trí tuệ để trả ơn đất nước, xã hội đã cưu mang và mọi người đã cung cấp phương tiện sống cho mình ? PHẬT chỉ có nghĩa là GIẢI THOÁT. Không phải là Thần Linh, nên không hề có quyền năng, không phù hộ được cho ai, vì thế không thể Cầu Xin Phật ban ân phước để trả ân cho những người mình nợ họ. Do đó, những người không đền TỨ ÂN thì không xứng đáng lè Đệ Tử của Phật.

PHẬT DI -LẶC

Phật DI LẶC mà Kinh Đại Thừa đề cập, cho là “thời sau Phật Thích Ca sẽ ra đời” làm cho hàng NHỊ THỪA cứ nhìn lên trời, mong ngóng cả mấy ngàn năm qua ! Không ngờ đó là Chư Vị Giác Ngộ muốn diễn tả sự thành tựu cuối cùng của người đã hoàn tất việc tu hành. Vì người tu nói rằng Tu Phật cho lớn lao, thật ra chỉ cần Tu Sửa Thân và Tâm để được kiếp sống giả tạm được an vui, hạnh phúc. Kinh LĂNG NGHIÊM dạy :”Giải Thoát hay triền phược đồng do SÁU CĂN. Được chứng Thánh hay đọa phàm cũng bởi SÁU CĂN chở không có con đường nào khác”.

Hình ảnh PHẬT DI LẶC mang ý nghĩa như sau : Khi chưa tu hành thì LỤC CĂN, (tức là MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI, THÂN, Ý) được gọi là LỤC TẶC, tức là SÁU TÊN GIẶC, vì luôn mang ngoại pháp vô làm hại Thân và Tâm của mỗi người. Người theo ĐẠI THỪA được dạy là : Cái TÂM làm chủ cái Thân. Cái GỐC của mọi sai phạm hay lành, dữ đều ở đó. Do đó, khi tu hành thì bứng Gốc, không bẻ cành, lặt lá. Cứ nhắm vào CÁI TÂM mà khống chế. Sau khi Chuyển hóa được cái TÂM, thì nó không còn sai Cái Thân làm quấy nữa. Lúc đó, LỤC TẶC không còn hung hăng, quấy phá, mà vô hại như những đứa trẻ con chơi đùa mà thôi. Chúng lại trở thành LỤC HỘ PHÁP để hỗ trợ đắc lực cho người tu,

Thật vậy, LÀM ÁC, hại người, để gây tạo Nghiệp Quả rồi rơi vào Ác Đạo để Trả Nghiệp cũng chính do LỤC CĂN. Nhưng tu hành, thành tựu, được kết quả Giải Thoát cũng lả nhờ LỤC CĂN. Con đường Tu Phật chỉ có thế. Nhưng lại được những người không thể diễn tả tình trạng bên trong Cái Tâm, mà mô tả ra bên ngoài bằng hình tướng, làm cho nhiều người cho rằng đó là một Vị Phật có thật, nên tạc tượng để Thờ, và mong ngóng ngày nào đó Ngài sẽ giáng trần để cứu độ thế giới, mà quên rằng nếu có Phật để cứu độ cho bá tánh thì Đạo Phật đâu còn là Đạo TỰ ĐỘ, Đạo NHÂN QUẢ nữa ! Cho nên, nếu không tìm NGHĨA để Y, thì dù có đọc Chính Kinh cũng biến Chính Kinh thành Ngụy Kinh, biến Chánh Pháp thành Tà Pháp !

Người Tu Phật là người xem cuộc thế là giả tạm. Ngay cả cái Thân mà họ còn không cho đó là Thật. Họ phải chuyển cái VỌNG TÂM trở về với CHÂN TÂM. Từng sát na họ phải canh chừng, không để cho niệm xấu trồi lên. Họ thấy Vạn Pháp chỉ là TẠM CÓ. Thấy cảnh đời bon chen lợi, danh, là phiền não, thì đâu có mưu đồ để tranh dành với ai ? Chỉ lo điều phục THÂN, TÂM. Lo « Thu thúc Lục Căn » vì cho rằng Phiền Não, Đau Khổ, Sinh Tử đều xuất phát ở đó.

Tôn chỉ của Đạo Phật là Tự Độ, là nương theo Giáo Pháp của Đạo Phật rồi hành trì để Tự Cứu. Kết quả cuối cùng là Hạnh Phúc, An lạc xuất hiện trong tâm, được gọi là Đức DI LẶC giáng trần. Vì thế, không có một Đức Di Lặc nào sẽ xuất hiện từ trên trời cao hay xuất hiện ra giữa đời để cứu đời như hàng Nhị Thừa vẫn hiểu lầm rồi mong đợi từ mấy ngàn năm qua.

KẾT LUẬN :

Đạo Phật không phải là một Tôn Giáo, Đức Thích Ca không phải là Giáo Chủ Độc Tôn, tất cả những lời Ngài giảng dạy là duy nhất, không ai có thể hay có quyền nói ra những điều như thế,ĐẠO PHẬT là CON ĐƯỜNG mà tất cả mọi người, mọi thời, nếu ai đi đúng trình tự theo những gì được hướng dẫn thì đều đạt được Kết Quả Giải Thoát như Đức Thích Ca và Chư Vị Giác Ngộ đã đạt được. Mục đích của Đạo Phật không phải là để người tu hành thành tựu trở thành Thánh hay thành một vị Thần Linh có thần thông, phép mầu để cứu độ cho người khác. Người tu Phật là người sửa đổi Thân, Tâm của chính bản thân để vẫn tiếp tục sống giữa trần gian, không chê chán thế gian, không bỏ trần gian để lên Niết bàn hưởng phước, mà chỉ là để được Thoát vòng cương tỏa của Các Pháp, được sống an vui, hanh phúc trong cảnh trần cho đến hết kiếp, gọi là HỮU DƯ Y NIẾT BÀN. Người đã Chứng Đắc, dù ở bất cứ thời nào, đều là người đã hiểu, đã hành, và đạt Kết Quả cũng giống như người đi trước. Vì thế, họ hoàn toàn có quyền giảng hay viết sách nói lại kinh nghiệm tu học, hành trì của mình theo ngôn ngữ của thời họ, để ai cũng có thể hiểu và hành theo. Không có gì sai, vì « Phật trước, Phật sau đều bình đẳng ».

Thời Phật tại thế thì chỉ có một mình Ngài giảng Pháp. Nhưng trước khi Phật nhập diệt, thì Ngài đã TRUYỀN Y BÁT lại cho Ngài CA DIẾP thay Ngài. Từ đó, chỉ những người ĐƯỢC TRUYỀN Y BÁT mới được quyền Giảng Pháp, vì đó là người được giao sứ mạng truyền bá ĐẠO PHẬT. Do đó, không phải bất cứ ai, chỉ cần Xuất Gia, vô Chùa tu hành, khoác lên người Bộ áo Cà Sa, tu học một thời gian là được quyền Giảng Đạo Phật, mà phải là người đã Chứng Đắc, đã  « Thấy Tánh ». Tổ Đạt Ma dạy : « Nếu không Thấy Tánh mà nói Pháp là ma nói ». Bởi vì người chưa Chứng Đắc, chưa Thấy Tánh, là người chưa nắm vững Đạo Phật, chưa phân biệt thế nào là phương tiện của Đạo, chưa biết cách để tu hành đến nơi đến chốn thì làm sao hướng dẫn được cho người khác để tu hành cho đúng như ý Đức Thích Ca, gọi là Chánh Pháp ?

So sánh Giáo Pháp của PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY và ĐẠI THỪA, tôi thấy không khác gì nhau, chỉ có khác về Quả Vị mà mỗi bên cho là người tu sẽ Chứng được. ĐẠI THỪA cũng không hề Ngụy tạo Kinh Phật, mà thời nào mọi người đều biết : KINH ĐẠI THỪA, là của những Tổ Đại Thừa giảng về Đạo Phật. Trong số Kinh sách từ xưa để lại cũng có Kinh của những người không phải là Tổ Đại Thừa viết. Những loại Kinh như thế có thể hướng dẫn sai lầm, hoặc không chỉ đúng cách thức tu hành theo Đạo Phật. Vì vậy, chúng ta không nên dựa vào những Kinh, sách KHÔNG PHẢI CỦA CHÍNH CHƯ TỔ ĐẠI THỪAVIẾT để kết luận Kinh ĐẠI THỪA là Ngụy tạo, là « Không phải giáo thuyết của Phật Thích Ca, đưa người tin theo trở thành nô lệ tâm linh, bị ma khiển sử, đóng góp cho sự tàn phá Đạo Phật ».

Về việc Trung Quốc xâm chiếm Trường Sa và Hoàng Sa thì chúng ta thấy : Luật đời cũng như luật Đạo đều cho rằng tội ai làm nấy chịu, không ai kết tội người khác lỗi không phải do họ làm. Người đã nắm vững Giáo Pháp của Đạo Phật thì càng hiểu điều đó để không bao giờ qua một vài hành động lỗ mảng của người Trung Quốc để kết luận rằng Đạo Phật do người Trung Quốc truyền là sai, dù Đạo Phật có thời gian dài xuất hiện ở Trung Quốc, NĂM VỊ TỔ SAU CÙNG ĐƯỢC TRUYỀN Y BÁT LÀ NGƯỜI TRUNG QUỐC. Từ 5 vị Tổ TRUNG QUỐC, Đạo Phật mới truyền sang các nước Châu Á như Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bổn mà đa phần kinh điển của nước ta đang dùng đều được dịch từ những Tạng Kinh của Trung Quốc.

Những bậc Chân Tu thời nào cũng không tham gia vào những được, mất, hơn thua của cuộc đời. Không hề có việc tranh dành cao, thấp hay danh, lợi với người đời. Vì thế, không thể đổ trách nhiệm của những nhà lãnh đạo đất nước Trung Quốc lấn chiếm đảo của nước ta lên Chư Tổ TRUNG QUỐC được. Tổ nhập diệt hàng mấy trăm năm rồi, đâu còn hiện diện để xúi dục Chính Quyền Trung Quốc làm điều đó ? Đạo song hành với đời, nhưng không tham gia việc đời. Chúng ta không nên mang chính trị vào Tôn Giáo làm ảnh hưởng đến niềm tin của bá tánh. Tổ là những vị được Đức Thích Ca ủy thác việc phổ biến Giáo Pháp của Ngài, thì dù là người dân tộc nào, ở thời nào, cũng đều tu hành Chân Chính như nhau. Người bản thân chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc TRUYỀN Y BÁT, lại chống đối Tổ và truyền bá những ý tưởng mạo phạm đến các Tổ, làm cho bá tánh mất niềm tin nơi Đạo Phật do Chư Tổ thừa hành, phổ biến, là có lỗi với Đức Thích Ca, với Đạo Phật. Đó là tội đó là phỉ báng Chánh Pháp mà người hiểu rõ sẽ không dám vi phạm.

Đọc Kinh ĐẠI THỪA, chúng ta thấy trong đó không hề cổ súy cho việc tu hành mà không cần gắng sức. TU nghĩa là SỬA. Vì vậy, vấn đề của người TU là phải biết MỤC ĐÍCH của việc Sửa. Phải biết CẦN SỬA Ở ĐÂU ? SỬA NHƯ THẾ NÀO ? Không phải gắng sức nhiều đã là đúng.

Từ sau Phật nhập diệt, có biết bao nhiêu lớp người Xuất Gia, tu hành. Nhưng đâu có được bao nhiêu người Chứng Đắc ? Trong đó cũng có những người được học với chính Tổ Sư ĐẠI THỪA, nhưng chưa Chứng Đắc mà vẫn mở ra giảng pháp. Điển hình là trường hợp của Sư Thần Tú được ghi lại trong PHÁP BẢO ĐÀN KINH. Cho tới thời này thì Chùa Ngọc Tuyền của Sư đã dào tạo biết bao nhiêu lớp Đệ Tử kế thừa ? Do đó, chúng ta không thể nhìn vào những người hiểu sai, hành sai lời Phật mà mở ra giảng Pháp, viết Kinh, rồi gán cho đó là Đại Thừa, hay Kinh Đại Thừa dạy sai.

Có lẽ những ai còn tự nhận là Đệ Tử của Phật cần xét lại để đừng tiếp tục gieo tiếng oan cho Đại Thừa, bởi vừa bất lợi cho bản thân, vì không được học hỏi Giáo pháp do chính những người thật sự Đắc Pháp nối nhau truyền lại, gọi là “Mồi ngọn Vô tận Đăng”, vừa là người phản lại Phó Chúc của Đức Thích Ca, là vị khai sáng Đạo mà mình đang tôn kính, đang hy sinh cuộc đời để phụng sự. Bản thân đang dựa vào uy danh của Phật, màu áo Đệ Tử Phật mà được ở nhà cao, cửa rộng, không phải lao động vất vả, được cung dưỡng, an nhàn tấm thân, thậm chí được bá tánh tôn trọng. Thế mà lại dám xem những người chính thức được Phật ủy thác truyền bá giáo Pháp của Phật là những người “rao bán hàng giả mà tuyên truyền là hàng có chất lượng cao” ! Trong khi đó, chính bên Tiểu Thừa khó mà chứng minh Tổ nào bên mình được Phật giao cho quyền rao giảng Phật Pháp, vì các Trưởng Lão là những Vị đầu tiên lập ra Tiểu Thừa mới bắt đầu xuất hiện từ thời Tổ Thứ Ba. Lúc đó Đức Thích Ca đã nhập diệt cả 100 năm rồi !

Xin nói rõ thêm, cũng không phải bất cứ ai tu học với Đại Thừa đều thành công, mà đòi hỏi phải đủ hai yếu tố : Thứ nhất, người tu học phải tinh tấn. Thứ hai, phải gặp được Chân Minh Sư, vì như Kinh VIÊN GIÁC viết : “Này Thiện Nam ! Có loại chúng sanh có thể chứng được Viên Giác. Song, nếu chúng gặp thiện Tri Thức là Thinh Văn hóa độ, thì chúng thành Tiểu Thừa; còn gặp Thiện Tri Thức là Bồ Tát hóa độ thì chúng thành Đại Thừa. Nếu gặp Như Lai dạy tu đạo Vô Thượng Bồ Đề thì chứng thành Phật Thừa”.

Ngoài việc người học trò không thể có trình độ cao hơn Thầy thì nếu đệ tử tinh tấn mà gặp người Thầy không có pháp thì cũng vô ích. Ngược lại, người Thầy có Pháp mà đệ tử giải đãi, kiêu mạn, chấp ngã thì người Thầy cũng không thể cứu được, vì mỗi người phải ý thức để tự cứu, người Thầy chỉ có trách nhiệm nhắc nhở mà thôi.

Về phần Giáo Sư TOKYO TOKUNO. Chính kết luận của Giáo Sư, thêm một lần nữa, chứng tỏ là Giáo Sư chỉ là một nhà nghiên cứu thuần túy - dù rất công phu - nhưng vì chưa phải là người trực tiếp tu hành theo đường lối của Đạo Phật, nên chưa có cái kiến thức của người thật sự Hiểu và Hành theo đường lối tu hành theo Đạo Phật như Kinh ĐẠI THỪA hướng dẫn. Vì thế, Bà Giáo Sư chưa biết thế nào là « Nội Quang phản chiếu » để thấy tất cả những gì Kinh viết, đều mô tả những cảnh trong NỘI TÂM của con người, không liên quan gì đến xã hội bên ngoài. Hơn nữa, người Tu Phật là người chỉ lo Tu Sửa bản thân, lo chuyển hóa cái Tâm của mình, để Cải Ác, Hành Thiện, không có mưu đồ danh lợi, huống chi chính trị là những việc của những người quan tâm đến những người khác trong xã hội, muốn lo cho họ hay muốn lái họ đi theo đường hướng giống như mình. Do Giáo Sư Tokuno không biết gì về quy trình tu hành, Chứng Đắc của Đạo Phật, cứ dựa trên văn tự mà suy đoán rằng việc Kinh viết về Đức Di Lặc như một đấng cứu thế trong thế giới hiện tại « có thể bị hiểu lầm thành một sự lật đổ chính trị và là một thách thức cho nhà cầm quyền của chế độ thế tục » quả là một hiểu lầm rất tai hại và bôi bác cho Kinh Đại Thừa.

Rất may. Nếu luận này được viết ra vào thời các bạo chúa mà họ nghĩ là phải chính xác - bởi do một đại trí thức viết - thì những người theo Đại Thừa tránh sao khỏi tội mưu đồ làm phản, biết đâu không thoát tội tru di tam hay cửu tộc !  Như thế, càng chứng tỏ lời Phật dạy  : « Y KINH GIẢI NGHĨA TAM THẾ PHẬT OAN » đã gần 3.000 năm vẫn còn nguyên giá trị.

Kính mong được đón nhận mọi ý kiến phản bác để học hỏi thêm.

Trân trọng.

Tháng 11/2014 (Bổ sung 8/2021)





VVM.19.10.2021

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com