Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      

NHỮNG CƠN GIÓ NỒM



C ứ mỗi độ gió nồm thổi về, mẹ tôi lại nhắc đến anh. Cái thằng thật hiền mà chết sớm!.

Anh mỉm cười nhìn tôi từ tấm ảnh trên bàn thờ. Bây giờ, đã hơn ba mươi năm, tôi thay anh đóng vai người con trai đầu trong gia đình khi mẹ đã gần tám mươi. Tôi chẳng giúp được gì cho mẹ ngoài những lần trò chuyện giải khuây của mỗi lần về thăm nhà.

Tôi biết, mẹ bao giờ cũng thương con và tình thương ấy được chia đều khi chúng còn nhỏ dại. Đến khi chúng lớn lên, mỗi đứa mỗi ngã, mỗi đứa có mỗi sự nghiệp khác nhau thì tình thương như đã vẹn toàn mãn nguyện. Thế mà, mẹ vẫn còn âu lo trăn trở khi thấy đứa con của mình vấp ngã đau buồn.

Nhớ có lần, anh tôi từ chiến trường Quảng Trị trở về với cái chân khập khiểng, máu bết thâm nâu ở ống quần rằn ri xanh đen loang xuống chiếc giày bốt-đờ-sô rách nát hở miệng. Anh cười nhăn nhó khi bước vào nhà. Mẹ tôi sững sờ, nắm lấy tay anh mà nước mắt lưng tròng “ may mà còn lành lặn”.

Cái thuở nhỏ sao lắm giận hờn và hiểu lầm. Anh em tôi thường đùa nhau ở bãi cỏ xanh cuối xóm. Đá banh đến bể mắt cá chân vì không có banh da phải thay bằng cái lon sữa bò! Cởi ngựa bằng lá dừa, bắn súng bằng ống đu đủ, phóng phi tiêu bằng sóng lá. Miệng đì đùng tiếng súng trong khi chiếc trực thăng cứ đánh vòng quanh trên đầu. Trò chơi không chán đến giờ cơm mẹ kêu về. Có lúc, anh em tôi trốn bữa cơm ra sông tắm, chia sớt nhau từng con tép nướng khi vừa vớt được dưới chân những nhà sàn và cùng chia nhau năm roi phạt trên chiếc đi-văng khi lén lút trở về nhà.

Thương quá anh tôi! Thời buổi chiến tranh. Tuổi động viên khi anh vừa lên lớp mười một chưa kịp thi Tú tài một! Lon Trung sĩ Đồng Đế đặt trên vai người con trai mới lớn trẻ măng râu mép chưa kịp bén. Ly cà phê vội vã, điếu thuốc cap-tăng chưa quen hơi, sặc sụa, nước mắt. Anh khóc, “ở nhà ráng học, đừng đi lính, khổ lắm, chết lúc nào không hay, ba má buồn”, anh dặn dò tôi bên chiếc xe đạp ngoài cổng quân trường tận Nha Trang xa xôi kia.

Anh có người yêu. Chị ấy tên Duyên, người hàng xóm, học cùng lớp. Chị ấy khá kiêu ngạo với má lúm đồng tiền trong khi anh tôi lại hay rụt rè nhút nhát “ nhìn theo bóng dáng nàng qua hàng rào rợp lá quấn xanh”. Lúc anh lên đường, chị ấy gởi cuốn vở trăm trang và cây bút mực Alpha để viết thư tình. Ngày anh về mang theo giấy phép “thương binh” là lúc chị ấy chia tay anh để làm dâu xứ lạ. Hai mươi mốt tuổi, trẻ măng! Tôi ghẹo anh “ Xá gì một nải chuối xanh, ba bốn kẻ giành cho mủ dính tay”. Anh buồn rười rượi, niềm vui còn lại của thời trai tráng xem như mất đi một nửa y như đang xem phim lưng chừng bị đứt.

Tưởng như xong, trình diện lại, người ta đưa anh ra pháo binh đóng tại đồi Đức Mẹ ở Pleiku. Nghe tin tôi đi vào đại học, anh mừng đón tôi trong cái quán cà phê thênh thang ở xứ đồi cao nguyên lạnh buốt. Cái lạnh se sắt không tả được, lạnh đến thấu xương. Những con trốt xoay quần nhau lên xuống đồi tựa như lũ trẻ con chơi đùa không mệt mỏi. Anh chỉ tôi cô gái chạy bàn trạt tuổi mười bảy rồi ra câu đố tên họ cô ta bao nhiêu chữ? Nguyễn Thị Lóng Lánh Như Ánh Bình Minh! Anh tự trả lời rồi phá lên cười.Trông anh dạo ấy xanh xao và buồn buồn sao ấy. Anh hỏi thăm ba mẹ, mấy đứa em. Tôi trả lời khá cặn kẻ để anh vui lòng. Chiến sự càng nóng bỏng. Anh than thở “đánh nhau làm chi cho xác thân rũ rượi, thân chúng điêu tàn”. Tôi hỏi anh buồn có làm thơ? Anh tặng “ Lấy nón đồng hứng một đống thi nhân”. Ừ, một đống thi nhân. Tuổi trẻ rời nhà trường, tiếng yêu thương nhường lại bằng tiếng réo gọi qua máy truyền tin “ chim sẻ gọi đại bàng, dế mèn gọi gà trống”. Đêm về, hai anh em tôi chẳng thể chợp mắt. Mong sao chiến tranh “tan hàng” để anh trở về nguyên vẹn. Những ngọn lửa bùng hăng hăng mùi thuốc súng bắt lên từ viên thuốc bồi to đùng bằng ngón tay cái làm cái bi-đông sắt sôi lên ùng ục. Vẫn cà phê. Làn khói thuốc lá lưng lửng bao quanh cái lô-cốt dựng bằng bao cát mập mờ trong ánh đèn lấy ra từ những tép pin mỏng dính. Đâu đó, tiếng pháo vọng về phía bên kia núi. Anh vỗ về tôi ráng ngủ, mai về dưới rồi, biết chừng nào gặp lại.

Chiến tranh, hậu quả của lòng tham con người. Mẹ tôi mất anh như nhiều người mẹ khác trên cõi đời này và tôi mất anh như nhiều người em khác trên cõi đời này.

Anh vẫn mỉm cười nhìn tôi từ trên chiếc bàn thờ trên cao kia. Xác anh không tìm thấy trong cơn loạn lạc.

Bao nhiêu năm đã qua, gió nồm cứ lại về. Mưa ngắn dài như nước mắt mẹ tôi…

Viết xong, tháng 7-2102

 


VVM.21.9.2023-NVA

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .