Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      




BỨC THƯ ĐỂ LẠI



T rường trở về nhà sau những năm ở trại giáo dưỡng. Khi đi trại, nó còn là đứa trẻ vị thành niên, nay đã vào tuổi người lớn hẳn hoi. Ông Thường nửa mừng nửa lo, đón con bằng một lời khuyên: "Từ nay chịu khó tu chí để mà nên người!". Không hiểu sao khi ấy nó "vâng" một tiếng có vẻ hững hờ. Sự hững hờ khiến người bố nghĩ rằng, nó chưa hẳn nguôi giận ông. Bởi chính ông đã hạ bút ký cam kết với công an để tống nó đi trại giáo dưỡng. Nơi ấy xưa nay không chỉ riêng nó coi là chốn lao tù. Mà cảnh tù xứ mình, chỉ nghe kể cũng đủ sợ vãi đái ra quần. Nhưng phải thế - ông Thường nghĩ - phải bắt nó và tất cả những kẻ vô lương bất trị đương đầu với cảnh sống khốn khổ khốn nạn, may ra chúng mới tỉnh ngộ, để trở lại làm người tử tế. Chứ ông thì hoàn toàn bất lực trước cậu con trai rồi.

Vâng. Bây giờ thì con trai ông tỉnh ngộ rồi đây. Nó rất muốn làm người tử tế đây. Nó đang chờ ông tìm kiếm công ăn việc làm đây...

Ngay từ ngày đầu trở về, Trường đã mong có luôn một việc làm để nuôi thân, mà không muốn ăn bám bố quá một ngày. Ăn bám là bất lương. Trộm cắp là bất lương. Những điều ấy, mấy năm qua nó được học thuộc lòng, như thể con chiên học kinh thánh vậy. Có điều, con chiên thì tự giác học. Còn nó (cùng đồng bọn) thì bị bắt buộc nhồi nhét vào đầu. May mà nó sớm nhận ra lẽ phải, biết ăn năn trước lỗi lầm, tích cực lao động cải tạo. Nên nó mới được rời trại trở về.

Ông Thường đã phải chạy đôn chạy đáo kiếm việc cho nó. Để nó nằm dài ở nhà, không khéo lại sinh hư. Trước kia vì ham chơi mà nó bỏ học. Vì ham chơi nên sa vào cái nghề trộm cắp bất lương. Nhiều lần bị người ta đánh cho sưng mày sưng mặt. Nhiều lần ông phải ra đồn công an ký bảo lãnh xin tha cho nó. Khiến ông chẳng mặt mũi nào muốn nhìn ai nữa. Giá mà dễ dàng chết được thì ông dám chết quách cho rồi. Mặc nó tự đương đầu với cõi đời này. Coi như dòng dõi nhà ông đến đây là mạt vận. May thay, nó biết trở lại làm người. Tức là phúc đức nhà ông vẫn còn. Nên ông cần phải sống làm chỗ tựa cho nó.

Nơi đầu tiên ông cậy cục việc làm cho con là chỗ người em họ. Chú ấy quyền hành không lớn, nhưng có sức chi phối thiên hạ. Tuy là anh em gần, song vì quan niệm sống trái chiều nên bao năm rồi hai bên không qua lại nhau. Sau này người em nhờ chức quyền trở nên giàu có, khiến ông càng thêm xa lánh. Nay ông phải tìm đến gõ cửa, nghĩ cũng ái ngại vô cùng. Thôi thì vì con, ông đành cúi đầu xuống vậy. Nghe trình bày, người em họ nói thẳng băng: "Trường hợp của thằng Trường thật khó. Nghề nghiệp đã không, lại còn bị cái án tù nữa mới gay!". Ông liền thanh minh. Rằng thằng Trường không mắc án tù. Mà do ông gửi nó vào trại giáo dưỡng, cốt bứt khỏi cái lũ hư hỏng ở xung quanh. Và hy vọng sự dạy dỗ nghiêm ngặt ở trại sẽ cứu vớt nó nên người. "Mong chú hiểu rõ trường hợp của cháu là như thế!". "Em hiểu. Em hiểu. Nó không bị xử tù là bởi khi ấy còn đang trong tuổi vị thành niên. Nếu là người lớn, làm sao nó tránh án tù được. Vậy bản chất sự việc không khác nhau đâu. Nên chỗ người nhà, em mới nói tuột nó là như thế". "Thôi thì... Xin chú thương cháu. Thương cháu tức là thương tôi. Tôi không dám xin cho cháu công việc ở nơi cơ quan chú. Chỉ xin chú ném cháu xuống đơn vị nào đó. Chẳng hạn như là Công ty Vệ sinh môi trường. Nơi ấy chắc không đòi hỏi bằng cấp cao siêu hoặc nghề nghiệp gì ghê gớm. Cốt sao cháu có việc làm là được". Người em cười khẩy: "Xin bác đừng có coi thường cái nghề hót rác, đổ thùng. Nghề ấy bây giờ thơm chán. Thu nhập các khoản không ít tiền đâu. Muốn vào việc cũng phải tìm đúng cửa mà đút lót mới trôi. Bác không thấy thời thế bây giờ nó thế ư?". Ông khẽ gật đầu: "Thôi thì... nếu có phải quà cáp thế nào, xin chú cứ bảo. Miễn sao công việc trôi chảy". "Ơ kìa, có bố chúng nó cũng không dám nhận gì của em. Nhưng mọi trường hợp đều miễn nhận thì... cấp dưới em chúng nó ăn gì? Hít không khí đủ sống à? Cho nên chúng em đều phải tự biết đến vấn đề là: Không có lấn sân nhau!". "Hay là, xin chú mách cho tôi đường đi nước bước để tôi tự... Coi như chú không hề biết việc này. Tôi và cháu cũng xin giữ kín quan hệ họ hàng gần gặn với chú". "Bác nói, xem ra thì được. Song, chắc chắn bác không đủ sức lo lót đâu. Đều tính bằng cây que cả đấy!". Ông đành ra về với nỗi buồn khác lạ. Vẫn biết thời thế bây giờ đạo đức con người xuống cấp, song ông cứ nghĩ đó không phải là tình trạng tràn lan. Hóa ra ông nhầm to. Ngay người em họ ông cũng không một chút nể vì, dám hắt toẹt đi cái đề nghị cỏn con trong tầm tay hắn. Phải chăng trước đồng tiền bát gạo, họ hàng ruột thịt chẳng còn ý nghĩa gì ư? Mà ông với hắn không chỉ có quan hệ chung chung là anh em con bác con cô ruột thịt. Còn sâu nặng hơn nhiều. Xưa bố ông đã phải thay cha mẹ nuôi mẹ hắn từ lúc hai tuổi đến khi gả chồng cho em. Bố hắn chết, ông lại phải bù trì cho mẹ hắn nuôi hắn, cũng từ hai tuổi cho tới trưởng thành. Thế mà giờ đây hắn quên sạch. Bởi coi đồng tiền là trên hết ư? Nếu hắn là người dưng nước lã, ông chỉ việc xoè ra cây que cùng với lời đề nghị yêu cầu, hẳn là sự việc chót lọt ngay thôi. Trong tích tắc, ông đâm oán mình vẫn còn niềm tin vào con người. Nhưng sao lại không tin! Có điều, niềm tin nên đặt vào đâu, vào ai. Tin ở lẽ phải, tin ở chân lý, điều đó không sai. Song, lẽ phải và chân lý lại do con người nắm giữ. Vậy làm thế nào tìm ra ông Bao Công trong cái biển ngưòi mênh mông này để mà gửi gắm niềm tin. Làm thế nào? Liệu trên đời có còn ông Bao Công bằng xương bằng thịt không? Và ông Bao Công liệu có thắng nổi sức tàn phá của con người đang như sóng thần dâng không?

Đương nhiên ông chưa hẳn thất vọng. Ông tiếp tục đi gõ cửa tìm việc cho con. Nơi thứ hai ông đến chính là chỗ mình làm việc hơn hai chục năm cho tới ngày nghỉ hưu. Ông không nghĩ vị giám đốc một viện nghiên cứu tầm cỡ quốc gia lại sẵn sàng tiếp cái lão nhân viên quèn ngày trước. Sau khi rót nước mời, vị giám đốc hồ hởi hỏi: "Thưa, bác có yêu cầu gì với viện ta ạ?". Ông rụt rè nói: "Báo cáo đồng chí viện trưởng, chả là tôi có thằng con... Vâng, thằng con độc nhất... nay cần việc làm". "Thế cháu học ngành gì ạ?". "Dạ, cháu nó chưa có nghề nghiệp. Chỉ được cái trẻ khoẻ... và sẵn sàng nhận bất kỳ công việc chân tay nào được phân công ạ!". "Vậy thưa bác, tôi xin nói rõ: Viện có chủ trương ưu tiên tiếp nhận con em cán bộ công nhân viên từng công tác lâu năm tại đây. Nhưng chỉ tiếp nhận khi có nhu cầu. Nên, xin mời bác đăng ký cho cháu tại phòng tổ chức ạ". Nói rồi, đích vị viện trưởng dẫn ông đi.

Thôi thì, chẳng biết bao giờ mới đến lượt con ông được vời gọi, song cách cư xử của người đứng đầu viện khiến ông mát lòng hởi dạ hẳn lên. Mà vị viện trưởng rõ là trẻ. Chắc ở đâu mới về, nên mình không quen mặt.

Trong lúc ông Thường đi gõ cửa thiên hạ thì Trường cũng đã tăm vài ba nơi. Đoàn thanh niên phường hứa sẽ cố gắng thu xếp một việc gì đó. Mấy thằng bạn bảo kiếm việc cho. Một công ty trách nhiệm hữu hạn hứa nghiên cứu sắp xếp. Trường còn bòn mót cho đủ năm mươi nghìn đồng để đăng ký tìm việc tại một trung tâm tư vấn lao động được quảng cáo là: Uy tín, chất lượng, hiệu quả. Đến nơi nào nó cũng được nghe sự động viên yên tâm chờ đợi, tin tưởng. Thế rồi một tháng, hai tháng trôi qua. Rồi nửa năm trôi qua. Cái mục tiêu "việc làm" cứ mỗi ngày như thêm xa hơn. Tun hút. Thăm thẳm. Đến lúc này thằng Trường mới nhận thức rõ ràng rằng: Nó thất nghiệp không chỉ do tình trạng thiếu công ăn việc làm đang là căn bệnh trầm trọng tại đất nước mình gây nên; mà còn bởi cái lý lịch màu xám của nó gây khó thêm cho nó. Từ đấy, tia hy vọng chờ việc làm tắt ngấm trong nó. Nó đã cố nén mà nhiều khi không ghìm nổi những tiếng thở dài thườn thượt trước bố. Khiến ông buồn thỉu buồn thiu ra mặt; làm cho nó luôn luôn động lòng thương cái thân già gày guộc như xác ve ấy. Gần cả cuộc đời bố quá khổ rồi. Chắc chắn còn khổ cho đến khi tận số. Phải chăng nỗi khổ của bố là nỗi khổ thuộc về thế hệ. Thế hệ trải qua chiến tranh triền miên, và thiếu cơm rách áo. Có người tới lúc chết chưa hề được bữa ăn ngon. Chỉ bọn có chức có quyền thì ở đâu cũng tha hồ nhậu nhẹt thoả thuê, phung phí.

Ngay trong cái trại giáo dưỡng cũng không thiếu cảnh ăn đút lót diễn ra. Vì ăn đút lót nên mới có hiện tượng xuất trại sớm cho những đứa hư nổi tiếng. Những đứa ấy cậy bố mẹ chúng lắm tiền. Có tiền mua tiên cũng được, thì xá gì họ không đút lót để kéo con cái trở về. Còn nó, nó bảo bố đừng có sốt ruột, đừng có thăm nom. Thăm nom tốn sức, tốn tiền; trong khi bố đã cạn sức và không có tiền. Rồi sẽ đến ngày nó được "xuất chuồng", chứ chẳng chịu chết trong trại đâu. Mà, đưa con vào trại chẳng là nguyện vọng của bố đấy ư? Có điều, bố nó làm sao thấy được những sự xấu xa trong cái trại giáo dưỡng này. Cứ nghĩ họ là cán bộ dạy người thì phải khá hơn. Khá hơn! - nó cười sặc sụa bởi ứ khí tại cổ họng. Khá hơn ở thủ đoạn tham lam thì có. Họ chẳng nề hà bớt xén từ bữa ăn tối thiểu hằng ngày của trại viên - là những đứa trẻ khốn khổ trên cõi đời này. Và tất cả việc gì đụng đến đồng tiền là họ tìm cách ăn chặn. Họ nói, không ăn có đói rã họng. Ở thế ăn được mà chịu đói là ngu. Thời buổi liêm khiết qua rồi. Liêm khiết không để làm gì. Ấy thế mà hằng ngày họ vẫn ra rả dạy đạo đức làm người!(?) Nhưng đố đứa nào dám cãi. Đố đứa nào dám lý sự, chê bai, tố cáo. Dám, chỉ có mà ăn đòn. Các kiểu đòn. Đòn roi không đáng sợ bằng đòn thù. Họ mà thù, anh có cải tạo tốt mấy, vẫn bị coi là ngoan cố bướng bỉnh. Thì cái "cửa ra" đối với anh cứ là xa vời vợi. Thế nên, vô phúc thì chui đầu vào cái trại cải tạo này. Vậy mà bố nó tin nơi ấy là "trường học lớn" dạy dỗ con người. Những ngày đầu bị vào trại, nó trách ông nhiều lắm. Sau, nó đã mau chóng tìm ra hướng xử sự đúng. Dù sao thì mình cũng mang tiếng là đứa trẻ hư. Có oán bố đến đâu cũng không thay đổi được gì. Chỉ còn độc cách là làm thế nào để những người quản trại nhận xét mình cải tạo tốt. Đó là con đường duy nhất để thoát ra.

Nó mà không được thả, hoặc giả chết trong trại - người bố nghĩ - thì thật ân hận suốt đời. Thôi thế cũng là may. May vì nó đã ra tù, à... nó đã cải tạo tốt ở trại giáo dưỡng. Nhưng ông, và cả nó, lại rất buồn vì những lời hỏi thăm: Thằng Trường đã được ra tù rồi ư? Với cả những lời thì thào của hàng xóm láng giềng: Thằng ấy về rồi, cẩn thận cửa rả, chẳng nó cuỗm tuốt đồ đạc trong nhà! Nghe đắng ngăn ngắt mà ông không biết thanh minh ra sao. Hẳn chẳng có lời lẽ nào bằng sự lặng im. Còn thằng Trường thì phải bằng hành động để chứng minh, từ nay nó là người tốt.

Đương nhiên với trách nhiệm người cha, ông không thể ăn ngon ngủ yên trong lúc thằng Trường chưa có việc làm. Tức nó đang ăn bám ông. Ăn bám không đáng sợ bằng sự nhàn cư kéo dài, khiến nó dễ làm điều bất thiện. Dù sao thì lúc này ông còn có chút yên tâm là, cả thời gian qua thằng Trường ít giao du bạn bè. Bởi nhiều lý do. Nể bố, nghe bố chỉ là một phía. Nó còn có ý lánh mặt mọi người trong xóm; để khỏi phải trả lời những câu hỏi vô bổ, thậm chí gợi lại nỗi đau buồn cũ. Và, cái chính là nó cố lánh lũ bạn hư hỏng, nhằm tránh bị lôi kéo trở lại con đường xưa; con đường mà nó đã phải trả giá bằng sự tập trung cải tạo suốt ba năm ròng. Từ khi trở về nhà đến nay, nguyện vọng tha thiết của nó chỉ là kiếm được việc làm. Việc làm. Việc làm là trên hết. Sức lực nó dư thừa. Ý chí nó đã quyết. Vậy sao khó khăn đến thế?

Cũng không chỉ thằng Trường kiếm việc khó khăn. Khó khăn là khó khăn chung của cả nước. Hàng triệu người trong độ tuổi lao động đang chơi dài đấy thôi. Nên càng dễ phát sinh đủ thứ tệ nạn. Trộm cắp. Đĩ điếm. Cờ bạc. Nghiện hút. Đâm chém nhau... Những tệ nạn ấy đáng sợ hơn mọi thứ bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Hễ ngơi cảnh giác phòng ngừa là nó lây lan sang mình. Vướng phải những tệ nạn ấy, thật khó thoát ra. Lại còn mang tai mang tiếng với đời nữa chứ!

Những năm tháng thằng Trường ở trại giáo dưỡng, ông Thường chỉ một nỗi niềm mong mỏi nó sớm được trở về. Được trở về, tức nó có sự cải tạo tiến bộ. Thế là ông yên lòng. Rồi kiếm cho nó một việc làm. Rồi vợ con cho nó. Xong xuôi mấy việc ấy là ông xong bổn phận làm cha. Nghĩ thì đơn giản. Thực tế lại không đơn giản chút nào. Thằng Trường chỉ cần một việc làm thuần tuý cơ bắp mà bế tắc suốt. Ông đã cậy cục gõ cửa năm bảy nơi đều bị từ chối, trừ cơ quan cũ của ông cho xếp hàng chờ. Chờ đến bao giờ? Mấy lần hỏi qua điện thoại, anh cán bộ tổ chức không trả lời nổi câu hỏi ấy. Đến bây giờ thì ông cạn niềm hy vọng vào bất cứ lời hứa nào. Thế mà có lần trong giấc ngủ, ông mơ thấy thằng Trường cầm quyết định đi xuất khẩu lao động. Đi Mỹ hẳn hoi. Mặt nó tươi hơn hớn, mắt sáng long lanh. Nó nói cười rộn rã, chứ không nằm dài thườn thượt như trước đó. Ông hỏi: "Đi mấy năm hả con?". "Năm năm bố ạ!". "Lâu thế cơ à?". Ông buông câu ấy là vì lo lắng đến cái tuổi cao sức yếu của mình. Lo lúc chết, không có thằng Trường ở bên. Bỗng thấy câu nói của mình dễ làm nhụt bước chân con, ông vội đính chính: "Nhưng không sao. Bố thừa sức sống quá năm năm. Có khi chục năm ấy chứ!". Nói thế nhưng bụng ông nghĩ: Mình sống chết chẳng quan trọng gì. Cốt sao thằng Trường có công ăn việc làm là mừng. Con cứ yên tâm mà ra đi. Đi lâu bao nhiêu cũng được.

Đang thiu thiu bỗng ông bừng tỉnh. Giấc mơ còn lưu nguyên vẹn trong đầu. Nếu sự thật diễn ra như mơ thì sao? Ừ thì... nó cứ yên tâm mà đi. Đi lâu bao nhiêu, hay đi mãi mãi cũng được. Xứ sở nào có việc làm để sống thì con cứ đến cứ ở. Ở Mỹ hay Pháp, có lẽ đều tốt cả. Hẳn là tốt, nên người Việt mình mới bảo nhau kéo đến nước họ xin cư trú. Không tốt thì họ mặc cho chết chìm giữa biển khơi chứ lỵ. Đằng này, chẳng những họ cứu mạng, còn tạo điều kiện cho hàng triệu người mình làm ăn sinh sống lâu dài, như vậy là quá tốt. Vậy sao đài - báo nước mình cứ ra rả nói Mỹ - Pháp là xấu nhỉ? À mà thôi, việc ấy mặc kệ họ. Còn với thằng Trường thì nó ở nơi đâu, tự nuôi sống mình, lại biết góp phần xây dựng Tổ quốc tức là yêu nước. Sống ở trong nước mà vô tích sự cũng chẳng có nghĩa lý gì. Con có thống nhất với ý bố không, hở Trường? Ông thầm hỏi thế.

Giá mà lúc này ông có cất tiếng hỏi, thì thằng Trường cũng chẳng ở nhà để mà thưa. Nó đi từ chiều, đến giờ chưa về. Ông bật điện nhìn đồng hồ. Đã quá mười hai giờ đêm. Gần đây nó hay đi sớm về khuya. Nói rằng, săn bạn bè để tìm việc. Nói thế, ông chịu rồi. Không thể ngăn cản nó. Mà có ngăn cũng không nổi. Thỉnh thoảng ông còn bắt gặp mấy đứa đến nhà rủ rê nó nữa. Ông kỵ nhất đứa nào hay văng tục chửi bậy. Song giáp mặt ông, đứa nào cũng biết chào hỏi lễ phép ra phết. Đố ai dám nghĩ chúng là những đứa hư. Ấy thế mà hư chứ lỵ. Vừa rồi, ông mất trọn xuất lương hưu mới lĩnh về. Không phải mấy đứa bạn thằng Trường thó thì cứ chặt đầu ông đi. Có điều ông không bắt được quả tang, đành chịu. Có lũ bạn như thế, nghĩ đến con, ông yên lòng sao được, hở trời? Nó dễ "ngựa theo đường cũ" mất thôi. Hay là tìm cách cho nó đi xuất khẩu lao động?

Phải chăng giấc mơ của ông là điềm lành báo trước? Nhưng thật khó. Lấy đâu mấy chục triệu đồng để ném vào các khoản làm thủ tục cho nó đi. "Hay là bố bán nửa cái nhà này?" - nó đề xuất. Ông Thường không thông, nên im lặng. Bán nhà mà công việc thông đồng bén giọt ắt chẳng sao. Nhỡ gặp trục trặc thì khốn. Hai bố con không thể ở mãi gian nhà chỉ còn hơn chục mét vuông. Mà rồi nó cũng phải lấy vợ nữa chứ. Nghe ông phân tích, nó gật đầu nói: "Là con thoáng nghĩ vậy thôi. Đúng là không thể bán nhà!". Không bán nhà - ông Thường nghĩ - khác nào mình cột chân con. Giữ nó ở lại, phải tìm nổi việc làm để nó nuôi thân. Nhưng làm gì? Làm gì? Cầm bơm xe ra vỉa hè thì bị công an quét. Mà thanh niên thành thị chẳng đứa nào chịu bơm xe, bán báo, hay đánh giày. Còn việc đạp xích lô - cái nghề mạt hạng thời xưa, nay có muốn cũng chẳng được. Nghề mạt hạng ấy bây giờ trở thành độc quyền của một nhóm người rồi. Kinh doanh độc quyền, lại chuyên chở khách Tây khách ngoại, cầm chắc sống rồi. Chỉ còn việc chạy xe ôm, có thể thằng Trường chấp nhận. Xắm cái xe năm bảy triệu đồng, tìm chỗ vay mượn may ra còn được. Nghe bố nói, nó bảo: "Được thì được, nhưng bố để mặc con tự thu xếp". "Thế tức là con đồng ý chạy xe ôm, phải không?" - Ông Thường hỏi lại lần nữa. Nó: "Vâng". "Vậy con thu xếp bằng cách nào nào?". Đoán biết nỗi lo của bố, nó nói: "Con thề không trộm cắp đâu!". Là nó cứ hứa đại thế thôi. Ít ra cũng làm bố khỏi băn khoăn lúc này. Bố nó lại nhắc: "Tính toán thu xếp thế nào, chớ để mang tai mang tiếng là được. Bây giờ con lớn rồi, nếu phạm pháp là họ bỏ tù mọt gông".

Nói đến đi tù, Trường sợ phát khiếp. Vào trại giáo dưỡng đã sợ, đi tù còn sợ hơn. Thời gian ở trại giáo dưỡng, nó mong ra từng ngày ấy chứ. Ra để mình đỡ khổ. Bố cũng đỡ buồn. Hơn nữa, bố già yếu rồi, có mình bên cạnh, bố cũng yên tâm. Vắng mình, nhỡ bố ốm đau, lấy ai trông nom. Nghĩ thương ông cụ quá! Đấy là lần đầu tiên trong đời thằng Trường nghĩ đến tình yêu thương bố. Giá mà nó sớm nghĩ được trách nhiệm làm con, có thể trại giáo dưỡng không phải mở cửa nhận nó vào. Nay xuất trại rồi, nó lại thấy việc chống chọi để không sa ngã sao mà khó thế. Khó hơn hẳn việc phấn đấu để ra trại. Ở trại chỉ cần vâng lời cán bộ, chăm chỉ lao động, tự giác chấp hành nội quy là quá đủ. Ngoài ra, khỏi phải lo lắng gì hơn. Bây giờ cái lo trước tiên là: Việc làm! Không có việc làm, cứ kéo dài mãi cảnh ăn bám bố già thì quá trớ trêu. Nghịch cảnh! Mà hai người chỉ sống bằng khoản hưu còm của bố, sức lực xuống dốc nhanh là phải. Bố quắt queo hơn hẳn ngày mình mới về. Mình cũng gày rộc đi. Do kém ăn. Lại nghĩ ngợi nhiều. Chứ còn nguyên nhân gì nữa, mà xóm giềng cứ hỏi vì sao? Vì sao? Vì không có việc, phải chơi dài đây!

Đã chơi rông chơi dài thì khó tránh những phức tạp xảy ra - ông Thường nghĩ. Phía trước thằng Trường hay dở thế nào, đành trông chờ vào sự may rủi của số phận thôi. Không ít đứa đã ra tù, rồi lại vào tù. Chỉ vì xã hội chẳng có việc gì cho chúng nó làm. Liệu thằng Trường có giữ mình lâu dài được không? Quả là khó! Bất giác ông Thường thấy không khí oi nồng khó thở. Lại phải mở tung cửa sổ bên giường mà ông vừa đóng trước khi đi nằm. Trong giấc ngủ chập chờn, ông thấy cảnh trại tù hiện ra trước mặt. Rồi hai người cảnh sát ập đến nhà trói thằng Trường. Ông bật ngồi dậy. Biết là giấc mơ, song không hết bàng hoàng lo sợ. Gần đây ông luôn thấy những giấc mơ hoảng sợ. Có thể vì ông lo lắng đến số phận thằng Trường nhiều quá. Chẳng biết giờ này nó đang ở đâu? Nó bảo xin phép bố đi chơi xa bốn năm ngày. Tiền do bạn bè nó bao vô tư. Có thật vô tư, hay là... ? Hay là...? Nó nói bằng giọng không bình thường: Sao cái gì bố cũng nghi ngờ? Như thế chỉ khổ bố thôi!

Nào có phải cái gì ông Thường cũng nghi ngờ đâu. Với việc thằng Trường xin đi chơi, ông không có chút nghi ngờ. Thế mà, kết cục là… nó không đi chơi. Nó đã bỏ trốn. Trốn ông. Trốn đất nước này. Ông phát hiện sự thật đau lòng ấy qua bức thư nó để lại. Dưới đây là mấy đoạn trong thư của nó:

"... Trước tiên xin bố đại xá cho con về tội bất hiếu, bởi đã bỏ mặc bố sống cô quạnh những năm cuối đời. Con đành phải ra đi, vì có ở lại đất nước mình cũng khó hy vọng sáng sủa gì hơn. Gần một năm qua, cả bố và con đều cố công cố sức mà nào có đào bới được việc làm cho con đâu... Chẳng lẽ để khỏi ăn bám bố, con lại sa vào trộm cắp - điều mà con không hề muốn bao giờ. Cũng chẳng ai muốn. Mà đã trộm cắp thì sớm muộn phải ngồi tù. Ngồi tù rồi lại ra tù. Ra tù đối với con cũng không khó. Ra tù... nhưng không có việc làm, sẽ khó thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn... lại vào tù. Nỗi nhục ngục tù, đâu chỉ riêng con gánh chịu. Con biết bố không thể sống, nếu con thêm một lần nữa ngồi tù. Như thế khác nào con phạm tội giết bố? Con muốn tránh xa tội ác ấy, cũng không muốn tiếp tục ăn bám vào bố nữa. Sức dài vai rộng mà ăn bám bố già, nghe nực cười lắm bố ạ... Cho nên con phải tìm đường biệt xứ thôi. Con coi cảnh tha phương cầu thực là sự bất đắc dĩ, và chẳng có vui sướng gì. Biết rằng, không ít người phải bỏ mạng vì đi theo con đường ấy... Nhưng con đường ấy may ra có thể cứu đời con. Như nó đã cứu hàng vạn người mình trước nay. Có ít người đã trở nên vẻ vang khi họ trở về thăm đất nước quê hương, được tung hô trọng vọng đến bất ngờ, được lãnh đạo quốc gia nghênh đón. Bởi họ có túi Đô la đem về góp phần xây dựng đất nước. Và, vì có Đô la chìa ra, nhiều người còn được quê hương bỏ qua cho họ những tội ác xưa...

Thưa bố, những lời con giãi bày không nhằm gieo hy vọng ở nơi bố, đối với đứa con bất hiếu đã vứt bỏ tất cả để hòng tìm lối thoát thân một mình. Chỉ hy vọng bố yên lòng khi đã biết rõ cái lý do con ra đi...

Con tin bố đủ tỉnh táo và ý chí để sống qua chặng đời thiếu vắng con... Con còn kè kè bên bố, nửa cái nhà nhà mình rồi sẽ đi tong, lại chưa dám chắc kiếm được công ăn việc làm. Thiên hạ nó lừa giỏi lắm, bố ơi!... Thà rằng, nửa cái nhà ấy dành để cứu bố những khi yếu đau cần tiền. Thế là thiết thực, phải không ạ?...".

Ông Thường quá bất ngờ trước sự việc xảy ra. Chưa một lần ông nghĩ thằng Trường lại biệt xứ. Chỉ lo nó dính vào trộm cắp thôi. Nó đi theo hướng nào, hở trời? Hẳn không như ngày xưa, biết bao người phải chạy trốn bằng con thuyền nan, lênh đênh trên mặt biển vô định mịt mùng. Bây giờ chúng nó ra đi, dù là bất hợp pháp, nhưng vẫn có thể ngồi tàu bay. Trường ơi! Trường ơi là Trường!... Con đi đâu? Con đi bằng gì?... Ông thầm gọi. Mắt ông nhoè nhoè nước, như sương mù giăng trước mặt. Những giọt nước mắt rơi ướt cả lá thư trong tay. Chỉ vì ông bất lực, không kiếm nổi một việc làm đơn giản cho con!




VVM.03.3.2023

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com