C ỗ xe mười hai chỗ thả bà bên chiếc cầu treo bắc qua sông Ngàn Phố. Người phụ nữ chủ xe lướt nhìn vẻ thị thành của bà: “Cô bị chung thân, nhỉ? Xã nhà chú ấy mãi trong rú kia, chim kêu vượn hú, cô ơi!” Còn phải nói! Bà ngao ngán nghĩ thầm. Mình dân đất thần kinh, nơi mọi người đổ về như sông ngòi với biển cả. Bà không một ngày làm dâu nhưng quê chồng vẫn là nơi, không biết nói thế nào đúng. Bà hay tìm chữ để định nghĩa sự day dứt đó nhưng luôn thấy bất an, không nỡ.
Chiều sẫm. Sương đùn lên từ những lùm cây. Khí núi xộc vào khứu giác và xộc vào tận tâm can. Bốn mươi năm chồng vợ, bà theo ông về quê ba lần, ít ỏi thật, vô tâm thật. Nhưng mọi việc nào có giản đơn. Lần thứ tư này thì đi một mình, không tự nguyện cũng không ra bắt buộc, giống một cuộc rượt đuổi. Về già Tolstoi cũng đâm chán tất nên mới chết còng queo ở một ga xép, còn ông, ông đồ gàn dở của bà có đúng là “chán cả Hà Nội” như từng ta thán, hay ông đang là một trự cóc già đang muốn quay đầu về đất tổ?
Khớp chân của người đàn bà ngoại lục tuần giống hệt chiếc cầu treo này.Trông xa chiếc cầu có vẻ hay hay nhưng khi đặt chân lên thì e ngại làm sao. Dây văng của rừng và gỗ cũng từ rừng, ông đã kể không biết bao nhiêu lần với nhà vợ và con cái về chiếc cầu làm nên dấu ấn miền núi của quê choa. Tuần trăng mật năm sáu mươi sáu ấy, lần đầu tiên “theo anh ta thì về ấy”, khi hai người nhảy xuống từ một chiếc xe đạp ông mượn ở ga Vinh và đối mặt với chiếc cầu treo, cô vợ thất sắc, không ngờ, thấy như bị chơi khăm. “Anh dân miền núi, ư?” Người chồng cười ngất, sảng khoái, tự đắc: “Miền núi thì sao nào?” Cô vợ nghe như mình vừa vấp một hạt sạn, hạt sạn đầu tiên trong cuộc hôn nhân của mình. Miền núi thì đã sao, ông không là người Hà Nội nên ông không thấy những cách biệt. Miền núi thì đã sao, bà tự trách mình, bà dốt môn địa lý, hay vì bà ưa thi vị hóa bởi thuộc nhiều Xuân Diệu và Huy Cận, hay vì ông quá trắng sáng với những ý nghĩa đẹp nhất của từ này, lúc đó?
Bà bước chầm chậm, không thể không dừng ở giữa cầu. Ngàn Trươi rồi Ngàn Sâu, Ngàn Phố. Cái chữ Ngàn nó hiển hiện ở những cây sao ven đường mà ba lần trước bà không mấy để ý. Truông và ngàn, thung thổ và tâm tính con người, bà sống với điều đó ngần ấy năm mà lúc nào cũng thấy mình “truông ngàn” với nó. Gay gắt, chói rát, quyết liệt? Gì nữa, không phải không còn gì thêm ngoài những cá tính ấy. Nếu chỉ có như vậy thì hẳn bà đã tháo ra và đã không có cuộc rượt đuổi này. Bà nhắm mắt để ghé xuống, một hồi mới dám mở mắt ra. Mùa lũ đã qua lâu, nước đang rất thấp, lòng sông giống một dải lụa rập rờn. Lần về thứ hai năm bảy mươi sáu ấy, ông đã bỏ lại bà giữa cầu để một mình chạy bay sang bên kia rồi phóng từng bước một. Như một cậu học trò về hè, hấp tấp với áo sống, thoắt cái ông đã quần đùi lao xuống. Sãi trong nước như một con cá về nguồn, ông u oa một hơi dài và vẫy tay tình tứ với bà. Những hạt sạn của chuyến đó nảy ra vào lúc khác và chúng ở lại trong ký ức bà, nhưng hình ảnh tinh nghịch của ông cũng đã ở lại và nó đang trồi lên, chói sáng, không gì lấn át được. Bà như nghe thấy rõ mùi chồng sau cữ tắm bốc đồng hôm ấy, mùi của nước sông, của thịt da trai tráng và mùi của niềm hân hoan mãn nguyện vì có cô vợ cùng đứng giữa mảnh đất mà ông hằng tôn quý.
Rời cầu, bà đi men theo con đường độc đạo trải đá dăm. Hồi bà về lần thứ ba, đường chưa rục rịch bê tông, đất núi trồi lên trên đá hộc. Nay nền đường đã xong, bụi mù lên mỗi khi có xe máy lướt qua. Ruộng ngô và ruộng lạc, giống lạc nhỏ ri ri gọi là lạc sen làm nên thứ kẹo cu-đơ ngồ ngộ của vùng này. Những khóm rau lấp ló trong khuôn viên rào và những bụi khoai mỡ mà ông hay ca ngợi với món thịt dê gia truyền của bà Chắc gì đó. Gì cũng nhất, mở miệng ra là con cá lá rau tình người đều nhất nhưng người đỗ đạc thì không chịu quay về. Mỗi khi bà đã nói toạc ra với ông ý nghĩ ấy, ông thường cau mày không chấp và quay sang mô tả gió Lào để bà tự hiểu. Đây rồi những khóm tre bảo vệ của từng nhà, thứ tre mà ông bảo đã cứa vào nhau trong gió ngày hè và tự phát hỏa. Thảo nào! Thảo nào cái gì? Ông lừ khừ đay lại. Bà ý tứ làm thinh, nếu bà nói thêm về cái tính hay phát hỏa thì giữa hai người sẽ có âm thanh súng ống chứ không chỉ là sự va chạm của những hạt sạn. Bà chỉ khẽ hừ: “Chính ông bạn thân của ông đã tổng kết rồi đấy!” “Tổng kết sao, hử?” “Hừ, người Nghệ Tĩnh nhà ông thì gì cũng biết, trừ hạnh phúc!”. Không hiểu sao cả hai đều bật cười khi câu nói ấy được bật ra. Thấm thía nhưng vẫn buồn cười. Giỏi, ông khen bạn mình giỏi và bà cũng thấy một trong đặc điểm của người Nghệ là rất biết tự trào. “Như người Gabrovo, tự trào là sức mạnh!” – ông đế thêm. Trông ông khi ấy giống một quả tên lửa trên bệ phóng, hung hăng, hãnh diện và nguy hiểm.
Một người phụ nữ gánh hai bó cành sim đi từ trong núi ra, nhìn bà tò mò như thể gặp người nước khác. Đầu trần, khăn trễ xuống vai, chân cũng để trần, người ấy để lộ ra nước da trắng trẻo của dân truông ngàn. Làn da không bắt nắng của phụ nữ quê ông từng khiến bà thán phục và dĩ nhiên, với ông, đó là đề tài say mê, tự hào, bất tận. Nhất da nhì dáng, ông bảo gái Hà Nội của bà được cả da và dáng nhưng vẫn chưa đủ. Bà không hay gạn và cãi nữa nhưng bà biết mình thiếu cái mà ông gọi là “chưa đủ” ấy, đó là sự cố kết dòng họ và sự xả thân của một nàng dâu chứ không phải là sự tỉa tót văn hoa mực thước và lau chùi. Ông ghét nhất bà cái điểm hay lau chùi và nếu ông đang uống nước mà bà lăm lăm cái giẻ lau thì ông đặt ấm chén xuống rồi đứng lên bỏ ngay vào thư phòng.
Bà nhận thấy lòng bà đã bận rộn về ông nhiều hơn, rất nhiều, khi chân đã đặt lên vùng đất mà có chối bỏ thì cũng là quê chồng của bà. Nó cho khí núi trong thịt da con gái và cho tiết tháo trong cốt cách con trai bà. Còn mong muốn nào hơn! Lại một gánh sim nữa lướt qua, bà đứng lại hỏi, người phụ nữ cũng lịch sự đứng lại để trả lời. Thì ra ở đây người ta không còn củi để đun nấu mà đã phải cậy đến cây sim. Lại một phụ nữ gánh dây khoai đi trong ráng chiều, thong dong như múa. Bà suýt bật cười, lần về thứ hai sau năm Bảy Lăm ấy ông đã đưa bà ra đồng vào sáng sớm, khi sương còn làm khuất mặt người. Bà không quen, bà không thể quen được chuyện đó trong ruộng ngô và đã bước ra, vùng vằng. Khi ấy ông còn trẻ, ông chỉ khẽ cười: “Phố cổ nhà cô thì toa-lét công cộng, hơn gì so với ruộng ngô?” Bà không tranh luận, bà chỉ hít lấy hít để mùi sương sớm mùa khô và tối đó, một mình bà đã tìm ra đám khoai lang của vườn nhà đứa cháu chồng để “giải quyết trọn gói” cho cả chuyến đi. Lần thứ ba thì bà đã đứng tuổi, hay có vấn đề với hệ thống tiêu hóa và ông cũng không còn tươi trẻ để chiều vợ bằng cách giúp bà ra ruộng ngô vào sáng sớm nữa. Hai chục năm chứ ít gì, nhà ông anh trưởng vẫn cái hố xí tum hum giữa vườn, biết em dâu ưa kín đáo, ông anh vác ra một tấm ván kê sau chuồng lợn, chung quanh um tùm những bụi dứa gai. Bụng dạ của bà đây đẩy với món thịt dê và bà đã cắn răng ngồi lên tấm ván đó sau vách chuồng. Bầy lợn ộc ộc bên cạnh, khung cảnh đó ám ảnh bà, hãi hùng, cho đến tận bây giờ. Từ ấy đến nay cũng đã mười lăm năm nữa. Ông anh và bà chị đều đã mất, chồng bà cũng ít khi nhắc chuyện bản quán với cô vợ theo ông, chỉ có mỗi đặc điểm “Hà Nội gốc” để làm điều với nhà chồng.
Trời tối sập. Nhà nhà sáng điện nhưng đèn đường thì không. Sáng sớm nay con gái ở Mỹ Đình còn hỏi vặn trên điện thoại: “Mẹ chắc không, mẹ có chắc không?” Nó gặng về chuyện đi đường, chuyện tìm về và cả chuyện ông bà sẽ chạm mặt ra sao. Trước khi đi bà mở email và đọc thấy thư của con trai từ Đức: Đúng rồi, tốt lắm. Mẹ đi là tuyệt. Rồi bố sẽ ra theo, mẹ hãy tin như thế. Con gái đặt vé hai chiều, dịch vụ đón và trả tận nhà, dĩ nhiên lượt về là hai chỗ. Chu tất vậy mà vẫn còn phải gặng mẹ chắc không? Nhà độc một phòng, sách thở hết cả không khí nhưng được cái muốn đi là chỉ cần bấm khóa, nhẹ tênh. Mấy tháng nay nhà tịnh như chùa, laptop nguyên trên bàn của ông, điện thoại di động đặt chồng lên, ngay ngắn khác thường và cũng nhiều chủ ý một cách khác thường. Tôi để lại bà với cái Hà Nội phình to nhất nhì hành tinh của bà. Thế đấy, dằn dỗi, giận cá chém thớt. Ông định biến khỏi đời bà và biến khỏi mặt đất này bằng cách đó hay sao? Vẫn như trước, từ khắp nơi, những cú gọi đến bằng tiếng Pháp thì bà trả lời tàm tạm, tiếng Anh hay tiếng Nga là bà chào thua. Có hôm hàng mấy người nước ngoài đứng chực ở chân cầu thang để mong giáo sư tiếp cho. Nói ông về quê, họ quay đi, hôm sau lại đến, không mỏi mệt. Họ làm cho sự hiện diện của ông trong căn hộ có một thứ giá trị mà bà chưa từng biết hết. Không còn những trận khẩu chiến với bạn bè ở salon, không còn tiếng lục cục nửa đêm trong thư phòng, không còn tiếng khạc nhổ ầm ĩ ngày hai cữ sáng tối ở lavabô, hóa ra không còn mọi thứ khiến căn nhà chật cứng lên thì cuộc sống cũng không thuộc về bà nữa. Ông đã mang đi tất cả, trừ Hà Nội, như ông nói. Nhưng mà Hà Nội cũng đâu còn là của bà và những người như bà nữa.
Bà bắt đầu thấy bối rối với chạng vạng. Kỷ niệm mách bảo cứ bước, đường đi trong miệng chứ ở đâu. Hồi trước hay có xe trâu, mỏi chân xin quá giang cũng tiện. Bây giờ xe máy thỉnh thoảng lướt qua mà không thấy có xe ôm như Hà Nội của bà. Một chiếc xe máy vừa đi vừa rống từ hướng ngược chiều, mùi ống pô khét lẹt. Vậy rồi nó dừng sững bên bà: “Mự phải không? Chú bảo cháu đi đón mự nì. Đoạn bên trong mới đổ đất, nhớp lắm, không đi nhanh được, mự thông cảm nghe!” Ơi trời! Ông đã lại đi trước bà một bước, cả trong chuyện dàn hòa. Ghê gớm chưa? Nó là con trai anh trưởng, đang ôm nhà thờ họ. Chắc con gái và cả con trai bà đã tin cho bố nó, nhưng tin bằng cách nào mới được chứ. Người thanh niên vừa quay đầu xe vừa liến thoắng: “Cháu mắc điện thoại lâu rồi chứ mự. Rất nhiều nhà có điện thoại bàn, còn mô-bai thì đã rộ!” Bà ngồi lên khấp khởi. Không còn tỏ mặt để thấy đứa cháu chồng có tự nhiên với bà hay không nhưng nghe giọng nói thì biết người quê không chấp nhặt. Nó là đứa thi thoảng lui tới nhà bà khi thì túi lạc nguyên, khi chục kẹo cu-đơ, khi thì lọ nhút mít. Một lần bà ý tứ: “Mai kia cháu nên đưa lạc bóc vỏ cho gọn!”. Nó mau mắn: “Chú thích lạc nguyên mà mự!” Bà nghiêm giọng: “Ừ, thì chú của cháu thích nhưng phải có người chịu nóng bên lửa để rang giòn thứ lạc này chứ!” Nó ngượng ngùng và như hiểu ra. Từ bấy đến nay nó không ra Hà Nội lần nào nữa nhưng kẹo cu-đơ và món nhút vẫn có mặt thường xuyên từ ai đó. Kẹo bánh xe – từ của bà cho nó thanh tao – thì ông ăn vài bữa cùng với đám bạn nhà Nghệ ồn ào của ông. Riêng món nhút, bà đẩy vào tủ lạnh nhưng cái mùi của nó vẫn nhắc nhở bà, ít lâu bà đưa nó vào hốc bếp và ít lâu nữa, số phận của nó đã được định đoạt trong thùng rác. Có một gia đình vợ chồng đều dân Nghệ hay réo ông tới vì món canh nhút cá quả nhưng không lần nào bà đi cùng, bà không chịu được và nếu bà tưởng tượng thêm và nói toạc ra thì có khi hai người đã phải kéo nhau ra tòa vì món nhút!
Đường với xá. Đất ướt dồn thành sống trâu ở những chỗ người ta phải thụt chân vào giúp xe nhích lên. Nếu bà phải đi bộ thì chắc bà sẽ quỵ xuống và khóc hức lên với quãng đường nhoe nhoét tối om này. Bà muốn nói vào lưng đứa cháu chồng những lời cảm động thực sự nhưng sợ cho cái lưỡi bởi những cú chồm của con “chiến mã” đường núi. Rồi cũng qua. Đứa cháu tỏ ý được nghỉ cho xe nguội máy. Tiếng một ông già vang lên trong bóng tối: “Đi đón mự Hà Nội hỉ? Mự đi đường có mệt không?” Bà trả lời lễ phép, hạnh phúc mơ hồ. Đợi người đó đi hẳn, đứa cháu nói nhỏ: “Ngày trước bố mẹ ông ấy làm lão bộc cho ông nhà mình. Thời cải cách ruộng đất, họ đấu hung lắm. Giờ vẫn hoàn nghèo, rất mực lễ phép mỗi khi chú về. Họ biết tin mự về đấy!” Câu chuyện dọc đường với đứa cháu bỗng dưng chen vào chuyện thời thế bể dâu và vì sao chồng bà nặng lòng với cuốn hồi ký mà ông từng bảo phải viết ra thì chết mới nhắm mắt được.
Mọi thứ đã khác xưa quá nhiều. Gian bái đường được chính chồng bà đi chuộc lại từ một người cốt cán hồi cải cách ruộng đất, nó đã tôn vẻ bề thế của khu nhà thờ lên cùng với lịch sử. Ông bước từ trong ra, hao gầy nhưng bao dung, tươi sáng. Đứa cháu dâu cùng với ba đứa con của cô nàng ùa ra, vây quanh, ồn ả. Ông đưa bà vào gian trong thắp hương, giọng nói thì gượng gạo nhưng điệu bộ lại lăng xăng, trai trẻ. Con cá đang ở trong lạch trong trấp quê nhà đây mà. Bà nghe thấy mùi lạc rang nguyên vỏ trên lửa tận dưới nhà ngang. Sau đó, đích thân ông bật đèn cho bà mắc quần áo lên nhà tắm và hào hển khoe: “Không cần ruộng ngô với rẩy khoai lang nữa. Toa-lét tự hoại sát tường đây này!” Nghe tiếng ông càu nhàu thằng cháu mua trâu không mua nổi dây vàm, làm phòng tắm mà tiếc chi cái cửa gỗ để phải treo tấm nilon, tệ quá. Lại nghe ông hỏi cháu dâu tối nay đãi gì, ừ cháo gà thì được chứ đừng canh nhút, mự chúng mày chết khiếp cái mùi nhút mít! Ông trở ra với bà, ấm nước nóng và một cái chậu để pha. “Nước giếng ở đây mát lành nên da người rất mịn. Anh thích tắm suông”. Bà lúng túng như hồi trăng mật nhưng vẫn muốn kê kích ông về cái nhất của nước giếng. Thôi, cái gì đã thành thuộc tính và thói quen thì miễn bàn. Ông bê nước giếng kéo từ guồng lên pha một chậu ấm cho vợ. Bà nghe thấy hơi thở, mùi da, mùi chồng, quen thuộc, đằm thắm và rạo rực. Đã lâu, đã quá lâu mới có lại cảm giác này, bất ngờ và chếnh choáng, không yên. Bà chủ động ghé xuống hít nhẹ vào vành tai ông, ngượng ngùng, ấp úng.
Những ngày ấy mới thực là trăng mật. Ông đưa bà lên núi với tổ tiên, đi loanh quanh khắp vùng và đi lại với đám ruộng ngô rồi cùng cười ngất ngất như một đôi trẻ. Chuyến về, xe đứa cháu kẹp ba lên thị trấn để ông bà theo đôi vé mà con gái đã đặt cho. Chiếc xe mười hai chỗ khá mới nhưng chưa tới Vinh thì xe bỗng mất điện. Trăng đầy, một đêm trăng hữu tình may mắn, kỳ lạ. Gã trai tài xế liều lĩnh cho xe chạy thầm dưới trăng, như thể xe đi Trường Sơn hồi đó. Ban đầu thì sợ, sau chính bà cũng bốc lên, hát vang những bài ca năm xưa cùng với mọi người. Ông nắm lấy tay bà, tay trong tay, ánh mắt rạng ngời, quả quyết. Hà Nội đã lại có ông, chắc chắn chuyến đi sẽ an toàn để Hà Nội sẽ có lại ông. Một ý nghĩ khiến bà thấy hởi cả lòng, chính những viên ngọc như ông đã làm cho Hà Nội nặng hơn, sáng hơn và hấp dẫn hơn – đúng thế, Hà Nội của ông của bà nhưng Hà Nội không riêng của ai cả.