Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      



BẾN XƯA




    M áy bay đáp xuống Nội Bài. Những ngày áp Tết. Mưa xuân lất phất lạnh. Nhận phòng khách sạn xong, ông già xuống quầy tiếp tân, gọi tắc xi. Gần bảy mươi năm ấy nhỉ - ông thoáng nghĩ. Thời gian như thoi đưa! Rồi ta cũng trở về cát bụi, nắm tro cốt tro về đất mẹ cha. Cậu chàng tắc xi mau chuyện, ông nghe câu được câu mất, xa quê hương lâu quá mà.

- Cụ quê ở đâu ạ ta?

Chợt nhớ tiếng mẹ đẻ - từ cụ, cậu chàng tắc xi vừa dùng, à, nay mình tuổi lên cụ rồi, tám mấy còn gì. Xe dừng, ông bước xuống bến đò Đông. Bến xưa, cái bến yêu ấy, đâu nhỉ? Lặng tìm, lặng nhìn,… Năm ấy, mùa nước đông ken, dòng song Đuống lặng lờ trôi; bãi ngô đang kỳ trổ hoa, cánh bãi sông bên lở bên bồi. Bóng Thắm tan loãng trong đêm vắng. Lặng buồn, cuộc đời là bãi bể nương dâu? Ông chợt nhớ về bài thơ mình từng làm tặng em, hình ảnh Thắm mỏng manh trên bến đò quê, trong thời khắc giao mùa:

“Mưa xuân bất chợt dịu dàng
Con đò mùa đông đang sang ngang
Chở đầy lưu luyến chen mong ngóng
Nửa muốn quay về nửa muốn sang
Chiều xưa có người qua song Đuống
Cát mềm ướt lún gót chân son
Gió bấc sau lưng lùa thân mỏng
Mưa rây trước mặt thấm môi non.”

Ngẩn ngơ ông đứng lặng sân đình. Vẫn ngôi đình xưa, mái trĩu nặng, võng võng thời gian, “lưỡng long triều nguyệt”, tam quan chùa kiến trúc thời Lê,... Ký ức trong ông đổ về. Chính tại ngôi đình này, ông từng bị trói ghì cánh khuỷu, khát đến cháy họng,…

Làng Đà, tổng Cói, gọi là nhà quê, nhưng nếu đường chim bay, chỉ cách Bờ Hồ dăm, ba ki lô mét. Qua cầu Long Biên, men theo đê song Đuống, sang đò Đông, là đến quê bạn. Vùng này xưa vốn là vườn thượng uyển, Lâm Hoa Viên Nhà Lý. Từ kinh thành Thăng Long, các vua Lý theo đường thủy về quê nội, tế lễ tổ tiên – bên  Đình Bảng; các vua dừng chân quê ngoại - tổng Cói. Chàng từng thăm ngôi đình Thái Bình, gần làng Đà, nằm men sông, địa danh lưu truyền, Trần Thủ Độ tận diệt họ hàng, thân tộc Nhà Lý.

Ngày Chủ nhật, một cuộc đi pích ních nhẹ nhàng, chàng học sinh trường Bưởi, quần soóc trắng, guồng xe về thăm quê bạn. Về thôn quê cho thảnh thơi, đầu óc bớt căng thẳng chuyện học hành. Nhà chàng sống nơi phố cổ, vốn vẫn tự hào, “chẳng thơm cũng thể hoa nhài...”. Gốc gác xưa, nhà chàng dân quê. Xa xưa các cụ ra thành Thăng Long sinh sống. Nông thôn với chàng, qua trang báo, truyện ngắn, tiểu thuyết: u tịch, buồn tẻ, đói nghèo và ngơ ngác; là dưới ao bèo, tiếng ếch ộp oạp kêu, tiếng quạ hú nơi gò tre,... Hóa ra, nhà quê không đến nỗi như trong trang báo, trang truyện, hay sự hình dung, tưởng tượng của chàng. Ngôi làng Đà cổ kính, đẹp hơn thơ, giếng nước, sân đình… cây bồ đề cổ thụ, dễ đến mấy trăm tuổi. Lại nhớ câu thơ của ông nhà thơ kia: “Hôm qua em đi tỉnh về;  Đợi em ở mãi con đê đầu làng...” Nhà bạn, năm gian nhà đại khoa, rồi nếp ngang, dãy dọc, sân vườn, ao cá,… gọn gàng, ngăn nắp.

Làng Đà nay thay đổi quá, chả còn mấy dấu vết xưa. Bước theo dòng ký ức, "Làng xưa thiết kế kiểu răng bừa, mười sáu ngõ xóm." Ấy là ông già nhớ lại, lời giảng giải của cha bạn, cụ cử nhân họ Ngô Quý. Bao quanh làng là lũy tre dày, bên ngoài ao đầm vây bủa, hai cổng chính của làng mở ra hướng Bắc - Nam; cửa lim dày, đêm hôm đóng lại. Thật là “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, trộm cướp chịu.

Nhà bạn đâu? Ngõ Bảy. Chỉ còn nhớ ngôi cổng đồ sộ, đắp nổi hàng chữ Nho, kiến tạo Tự Đức năm... Kìa, ngõ đây rồi: ngôi công cũ kỹ, thấp tè, kẹp áp bên tòa nhà xây cao to. Ông già lẩm nhẩm tính đếm, chầm chậm bước. Ngõ nhỏ quanh co, sâu hút, thi thoảng sót lại bức tường  xây từ thuở ấy. Ô kìa, vẫn ban thờ hậu khiêm nhường, lấp ló, nằm áp lùi trên bức tường xây. Bạn từng giải thích, ban thờ vợ chồng ông bà già trong ngõ. Không con cái, họ công đức ngôi cổng và con đường ngõ, gạch vỉa nghiêng nghiêng. Đêm ba mươi, dân ngõ ra thắp nén nhang lên ban thờ bầu hậu, tập tục văn hóa thôn quê nước Việt, ơn huệ người có công, góp sức với cộng đồng, dù chỉ là con đường nhỏ.

Kìa, cổng nhà bạn đây rồi. Ông già lặng nhìn, như thấy thời gian trôi. Cánh cửa gỗ cũ kỹ, mủn thẫm. Kéo sợi dây xích, chuông đồng leng keng kêu, nghe như tiếng thuở xưa ùa ập về. Ai đó trong nhà:

- Đợi một tí “lào”!

Nghe, chợt nhớ và từng đùa bạn từ đế “lào” nằm cuối câu, "nẫn nộn" nữa. Vùng quê ngọng, mãi bạn mới sửa "lổi". Người đàn ông cỡ ngoài sáu chục, ra mở cổng. Ông già giật mình, tí nữa thì cất lên tiếng chào cụ cử ngày xưa. Chao ơi, sao giống cha của bạn quá, cũng râu ba chòm, tóc bạc,... “Trường Nam thi với trường Hà”, cha bạn từng lều chõng thi cử, dự khoa Canh Tý, cùng nhà thơ Tú Xương. Cụ đậu cử nhân duy nhất của tổng Cói và xứ Đông Ngàn. Người đàn ông ngập ngừng chào khách, vẻ mặt bối rối. Khách vội cất lời:

- Xin cho hỏi, có phải nhà em... À. Dạ xin lỗi! Nhà cụ Thắm, phải không ạ?

Mặt chủ nhân thoáng ngỡ ngàng, rồi chợt như nhớ ra, ngắc ngứ, gật đầu xác nhận:

- Dạ… Đúng thế ạ. Rước cụ vào nhà!

Tòa nhà vẫn như xưa, ngói mũi hài, cánh cửa bức bàn,... Sao căn nhà như thấp bé, lùn tịt xuống? Khi người ta lớn, thứ gì xưa cũ đều đâm ra bé bỏng lại chăng? Sân, vườn hẹp lại, thì đúng rồi, bởi nay bao bọc là mấy tòa nhà cao tầng của hàng xóm. Ô kia, bể nước mưa vẫn y xưa. Nhớ em Thắm đứng múc nước thuở nào. Khác với chiếc áo dài Le mur của dân nội thành, em tóc vấn đuôi gà, áo tứ thân thẫm, tôn làn da em trắng nõn. Lần đầu tiên chàng học sinh trường Bưởi về quê, chạm mặt em gái của bạn, đâm sững sờ. Hóa ra, bạn có em gái, tuổi trăng tròn, xinh, xinh quá! Thế mà giấu biệt nhá - chàng nghĩ vậy, thoáng nhẹ nụ cười.

Nhà có khách, dưới nhà ngang, cụ đồ cho lũ trẻ nghỉ học. Lớp học dăm, mười đứa, tuổi lỡ cỡ, chúng khoanh tay lễ phép chào khách, lẹp kẹp guốc, áo the long tong chạy ra cổng. Theo học cụ đồ, chắc được chữ nào, hay chữ đó. Nho học xuống nước, Tây học lên ngôi, người ta học chữ Pháp, chữ quốc ngữ, mấy ai còn theo thứ chữ Nho cổ hủ. Bạn, con cụ đồ vẫn khác, dù Tây học, nhưng nho nhã và cái tính gàn gàn, kiểu cụ đồ.

Khi hầu chuyện cha bạn, thi thoảng chàng lại đánh mắt ra sân, mong nhìn thấy bóng hồng. Trên sân, em Thắm tí tí bước qua bước lại – em giúp mẹ nấu nướng dưới bếp, làm cơm tiếp đãi khách. Chàng vài lần nữa được giáp mặt em: khi bê mâm cơm lên nhà trên, rồi thì... Bữa cơm, chủ khách tọa trên bộ sập gụ, chỉ có cụ đồ, khách và con anh cụ đồ dùng cơm; hai người phụ nữ, bà đồ và cô con gái, ăn dưới nhà ngang. Bữa ăn, món đặc sản quê nhà là miến xào rau cần, quê bạn có nghề trồng cần và nổ bỏng gạo.

Cha của bạn, ông già chừng ngoài bảy chục, ung dung, tự tại, da đỏ bồ quân, áo the thâm,  khăn xếp, đi đôi guốc gộc tre, chống cây gậy trúc,… thực người đẹp như tiên ông. Biết bạn của con trai về chơi, cụ đồ ăn mặc trịnh trọng vậy. Kiến thức của cụ cử thật thâm sâu. Chàng lắng nghe lời ông cụ giảng giải: ý nghĩa sâu xa của các bức đại tự, các câu đối, bày treo trong nhà; tác giả tặng chữ đều là những bậc túc nho tăm tiếng, đồng khoa, đồng niên với cụ. Cụ cử ăn chân tiên chỉ làng này vài chục năm rồi. Sau cuộc gặp, chàng từng đùa bạn: “Cụ tiên chỉ, hưởng mình một cỗ nhá”, làm bạn giận cả tháng.

Trong lúc ông cụ giảng giải, chàng thoáng mỉm cười, làm bạn đâm khó hiểu, về nụ cười vu vơ ấy. Chàng phải giải thích: “Lúc ấy toa nhớ tới câu chuyện, cụ Nguyễn Khuyến cho chữ. Làng nọ đến xin chữ cụ Tam Nguyên. Nhìn chữ cụ cho, từng là kẻ học hành, mà chả rõ là mắt chữ gì. Hóa ra, làng ấy đình bị cháy, dân dựng lại, cụ Tam Nguyên “vẽ” chữ giống y cái chày đứng. Cười, mà cụ giảng giải: “Chày – chày đứng, tức là đừng cháy”. Thì quá đúng, đình làng người ta vừa cháy, nay cầu mong đừng hỏa hoạn, chứ còn mong muốn gì nữa!

Khi chia tay, cha mẹ bạn đứng trên hiên nhà tiễn khách, còn em Thắm, ra tận cổng tiễn hai anh. Dắt xe qua sân, cánh cổng đang khem khép, chàng ngoái đầu nhìn lại. Ơ kìa, mắt em dõi theo. Bất ngờ bắt gặp ánh nhìn của chàng, em đâm lúng túng, đánh vội ánh nhìn sang hướng khác. Ôi chao, nom thẹn thùng, ngây thơ quá! Ánh mắt ấy cứ theo chàng, qua đò Đông sóng nước lao xao, đạp xe lững thững trên đê Đuống, chàng thẫn thờ, đến mức bạn nhận ra sự lạ:

- “Moa” sao thế?

Tế nhị, chàng nhoẻn miệng cười. Chả lẽ bảo, tại em của “moa” đấy, bắt hồn “toa” mất rồi! Thế thì ngượng chết. Đôi tuần sau bữa ấy, lấy cớ là quý phục kiến thức cụ cử, chàng lại về thăm quê bạn. Vì bạn bận chút việc riêng gì đó, chàng đạp xe về một mình, tám, chín giờ sáng, đã có mặt ở quê. Bà đồ sang giỗ làng bên, nhà chỉ có hai cha con, cụ đồ thì bận bịu dạy dỗ đám trẻ, nên đôi lúc, chàng giúp nàng việc nọ kia. Lúc ra về, em Thắm tiễn chàng ra cổng. Họ nấn ná và chàng kịp rút ra chiếc khăn mùi xoa tặng em. Thắm rụt ngay tay lại, đâm chiếc khan rơi rơi, bung ra cánh thư chàng giấu kín bên trong. Nàng đành lúng túng cúi xuống nhặt; còn chàng, vội vã nhấn bàn đạp xe. Bản nhạc dạo yêu của họ vậy đấy.

Tình yêu êm đềm, lặng lẽ và mộng mơ, tất nhiên, cha mẹ và bạn chàng mơ hồ nhận ra điều đó. Chàng nhớ mãi, đêm ấy vào tuần trăng sáng vằng vặc, nghỉ qua đêm ở nhà bạn. Tình yêu nảy nở ở một gia đình nền nếp, gia phong - cụ cử Nho học, chuẩn mực, chàng và bạn bắc ghế ra sân, ngồi đàm đạo văn chương, thế sự, còn nàng đứng góc sân chải tóc. Tóc nàng chảy dài,  lất phất bay trước gió, thoang thoảng hương sả, hương nhu...

Lại nhớ em Thắm mớ ba mớ bảy, mồng Sáu Tết cùng chàng và bạn dự hội Cổ Loa. Bên Giếng Ngọc, chàng kể về mối tình Mỹ Châu - Trọng Thủy, em e thẹn, ngước mắt buồn, thỏ thẻ, "Họ phải xa nhau?" Giá như không có cuộc binh đao nhỉ? Sau ngày nước Nam giành độc lập, bạn tham gia Vệ Quốc Đoàn, còn chàng, đăng lính Vệ Binh Quốc Gia. Có đau không, hai người bạn học, hai bên chiến tuyến!

Bước chân vào nhà, vẫn y cảnh xưa, gian thờ, cỗ sập gụ, bộ trường kỷ,… bức tranh quá khứ ùa ập về. Gần bảy mươi năm rồi còn gì. Thoáng giật mình, nhìn mấy tấm hình bày trên ban thờ: cụ cử; lại ảnh của bạn, sơ mi tay áo lửng, quần trắng, nụ cười niềm nở và kìa, bức hình ký họa ngày xưa của Thắm, họ thành người thiên cổ cả rồi. Người già mau nước mắt, nước mắt nhớ kỷ niệm xưa, nước mắt về mối tình đầu và nước mắt cho cả chính mình, ở cái tuổi mà người thân quen, sao nỡ bỏ đi hết mất rồi sao, người ơi! Thắp nén nhang cho cuộc đoàn viên “âm dương cách trở”, bạn học, mà thành ra kẻ bên này, người bên kia chiến tuyến, đối mặt nhau bằng cuộc chiến đằng đẵng mấy mươi năm, để rồi, nay người thành thiên cổ, kẻ tha phương chốn chân trời góc bể xa! Tiếng chủ nhân cắt ngang dòng suy nghĩ của ông già: 

- Cha cháu hy sinh chiến trường miền Mậu Thân năm sáu tám, còn cô cháu, mất đầu năm năm sáu, sau ông nội cháu đôi ba tháng. Ngày ấy cháu mới hai, ba tuổi, chỉ nghe mẹ kể lại thôi. Ông cháu chết cơ cực. Nhà không ruộng, nhưng bị quy tội hủ nho. Đói lắm! Lúc mất, chả có nổi cỗ quan tài, đành hạ cánh cửa xuống, ghép ván cho cu. Chập choạng tối, mấy người nhà im ỉm khênh xác ông cụ ra đồng. Dân làng sợ các ông đội, chả ai dám đưa tiễn. Cô cháu cũng vậy, chết bó manh chiếu cũ.

Khổ thân cụ cử, đức cao vọng trọng nhất vùng, ăn chân tiên chỉ hơn hai chục năm, kể cả bao tiền của, công sức bỏ ra tham dự phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, vẫn không thoát khỏi cảnh chết hờn chết tủi, lắm chữ nhiều nghĩa quá mà. Cũng khổ thân em Thắm! Hóa ra vạ lây cha mình. Người đàn ông kể đận “em Thắm” đói. Bà chị dâu thương tình, chả biết cách gì cứu giúp. Bữa ấy có nắm cơm, bọc lại, giả quang gánh ra ruộng, vùi xuống ruộng khoai, rồi bên nhà, đánh tiếng xa gần vọng sang, chỗ nọ chỗ kia, ngầm ý bảo, ra đó moi lên, lấy mà ăn. Tai vách mạch rừng, ai đó rình mò, nghe ngóng là khốn, kẻo bà chị dâu có chồng bộ đội, bị vạ lây.

Họ đang câu chuyện, chợt tiếng loa oang oang cắt ngang, thông báo danh sách các gia đình cung tiến việc sửa sang gì đó của đình. Ông già thoáng nghĩ, thời buổi văn minh vẫn khác, chả bù cho hồi xửa hồi xưa, khi đang câu chuyện với cha của bạn, tiếng thằng mõ lốc cốc mõ rao, hình như ra đình ăn cỗ phạt vạ vụ chửa hoang. Ông già quan sát, thấy khi tiếp khách, chủ nhân vẻ như bồn chồn. Bất chợt ông ta đứng lên, giọng lễ phép:

- Thưa cụ, cụ đợi cháu một tí ạ!

Nói rồi, ông ta bước vào buồng trong, được một thoáng, quay ra, trên tay bê hộp gỗ nhỏ.

- Dạ. Cô cháu chẳng để lại gì, trừ… Mẹ cháu dạy, của cô chỉ có thứ này. Cô trăng trối, lúc nào ấy, “người ta” đến…

Cuốn sổ tay bìa màu đỏ thẫm, lại liếc nhìn bức hình của Thắm trên ban thờ... Lần ấy, bạn, chàng và Thắm có cuộc pích ních. Trên triền đê, lúc nghỉ chân, ngắm cảnh, nhìn em Thắm, chàng vội chớp lấy, phác  nhanh bức ký họa. Từ cặp mắt già, đùn ra giọt nước mắt trắng đục, tay run run ông đón nhận lại kỷ vật xưa, những bài thơ từng viết tặng người tình thời trai trẻ.

Cuộc tấn công Hà Nội của người Pháp, diễn ra giằng dai, cuối cùng, quân Pháp chiếm được thành phố. Giữa bom rơi đạn lạc, chàng liều mình từ nội thành lặn lội ra vùng ngoại ô, mò mẫm về ngôi làng kháng chiến, quê hương Thắm. Chàng bị du kích tóm sống; nghi là quân do thám, bị trói ghì cánh khuỷu, bắt nhốt trong đình cả buổi. May thay, chuyện đến tai, cụ cử ra trình bày, xin xỏ mãi, chàng mới được tha.

Chia tay, em Thắm lẽo đẽo theo sau, mắt mũi đỏ hoe, hai du kích súng ống kè kè áp giải; họ chả nói năng với nhau được câu gì. Trời nhập nhoạng, con đò rời bến. Bên bến đò Đông, bóng người thiếu nữ em nhòe mờ, chìm lẫn trên bờ bến sống./. 

(Lại Đà, Đông Hội, Đông Anh,  Hà Nội, ngày Valentine, chiều 29 Tết, xuân Mậu Tuất – 2018.)


                                                      

VVM.28.6.2021

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com