Ông lão mỗi tuần một lần bơi xuồng vào con xẻo mọc đầy cây tra của xóm Bàu. Mưa cũng như nắng, nắng cũng như mưa, cứ đúng vào giác trưa thứ sáu hàng tuần là ông có mặt. Ông cao, gầy, mái tóc bạc trắng như bông gáo; lúc nào cũng vận đúng bộ bà ba trắng đã ngả sang mầu cháo lòng. Lần nào cũng như lần nào, bao giờ ông cũng cặm xuồng đúng bến cây gáo nhà bà Bảy.
Bà Bảy sống một mình trong căn nhà lá nhỏ nhắn, dễ thương như cái nấm nằm cặp theo mí rạch, chỗ uốn một đường cong chữ S, thanh thoát như một dải lụa mềm mại trườn mình giữa đôi bờ bông tra mơn mởn mầu hồng phấn. Bà Bảy cũng trạc tuổi ông lão, nghĩa là cũng tròm trèm tuổi nhân sinh thất thập cổ lai hy. Hình như bà Bảy với ông lão có duyên nợ với nhau từ xa xưa thì phải. Từ ngày tôi đến trọ trong nhà bà Bảy để sưu tầm ca dao, thứ sáu tuần nào tôi cũng thấy, cứ vào lối hơn mười giờ là bà Bảy lui cui ngồi chụm lửa nấu nước, chế đầy vô bình thủy, rồi cặm cụi chùi rửa bộ đồ trà rất kỹ. Và thứ sáu nào cũng vậy, cứ khoảng trên dưới mười một giờ là ông lão bơi xuồng tới nơi. Bà Bảy chăm bình trà quạu. Ông lão lôi trong giỏ đệm ra lủ khủ thư từ, điện tín và dăm ba tờ báo. Họ ngồi đối diện với nhau ở hai bên cái bàn gỗ dầu cũng tuổi tác già nua như họ.
Bà Bảy hỏi:
- Lóng rày ông còn hay rêm mình nữa thôi?
Ông lão nói:
- Bà chuyển dùm tui mấy lá thư.
Rồi thì bà Bảy vừa ngồi ngoáy cơi trầu vừa nhai trầu bỏm bẻm. Rồi thì ông lão hắng giọng, đọc thủng thẳng từng chữ một bài báo nào đó. Rồi thì hai người lặng lẽ chia tay nhau.
Ông lão ngồi dưới xuồng nói vọng lên:
- Tui vìa nghen bà!
Bà Bảy vịn gốc còng sần sụi, nói vọng xuống:
- Ông chèo thủng thẳng, đừng chèo riết, rêm mình nghen ông!
Nhìn cảnh hai người lớn tuổi chia tay nhau, bao giờ tôi cũng thấy xốn xốn trong lòng.
Buổi trưa thứ sáu ấy, tôi đi sưu tầm ca dao ở bưng Ráng về giác hơn một giờ trưa, thấy bà ngồi thẩn ra bên cái bàn gỗ dầu với bộ đồ trà úp sấp, tôi rụt rè hỏi:
- Bữa nay ông Tư không đem thư từ báo chí tới há bà?
Dường như không nghe tôi hỏi, bà Bảy vẫn ngồi thẩn ra im lặng. Tôi đang tính hỏi thêm lần nữa, nhưng tiếng bà Bảy đã cất lên buồn buồn.
- Dám ổng bịnh rồi. Mấy tuần nay qua để ý thấy ổng yếu lắm.
Nhìn dáng ngồi tư lự của bà Bảy, tôi biết bà Bảy đang chìm trong một nỗi buồn hắt hiu, mung lung nào đó; bởi vậy tôi lặng lẽ xuống bếp lục cơm nguội ăn với cá bống trứng kho tiêu. Sau đó tôi ra vuông vườn mọc đầy mù u sau nhà, hý hoáy ngồi phân loại từng câu ca dao mình mới sưu tầm được hồi sáng. Với tôi, mỗi câu ca dao đều có máu, có thịt, có linh hồn riêng của nó. Tôi vừa ghi chép lại thật sạch vô sổ tay, vừa đọc lẩm nhẩm, vừa cố hình dung lại ánh mắt, gương mặt của mấy dì, mấy chú, mấy bác ở miền đồng Phụng Hiệp đã đọc cho tôi nghe những câu ca dao chứa đầy tâm sự.
Quân vi thần cang
Phụ vi tử cang
Phu vi thê cang
Giả tam cang tối thiện.
Anh giữ trọn ba giềng, em nguyện gởi thân.
Hừng sáng hôm sau, bà Bảy quá giang ghe máy của mấy bà bạn hàng chở rau lên bán trên chợ xã. Bà dặn tôi, ở nhà đói bụng cứ xúc gạo nấu cơm mà ăn; thức ăn thì còn cả ơ cá bống trứng kho tiêu, thèm ăn canh chua thì đã có mấy con cá lóc trong khạp, mấy trái cà tô mát trong chạn bếp. Tôi biết là bà đi thăm ông Tư.
Ở nhà một mình buồn thiu thỉu, tôi lôi cái võng dù (di vật còn lại duy nhất của ba tôi) ra giăng sau góc vườn mù u, nằm đòng đưa đọc cuốn Lục Vân Tiên của nhà thơ Ðồ Chiểu. Ðang chờm chợp chiêm bao thấy cảnh Lục Vân Tiên về thăm mẹ, thốt nhiên tôi nghe như có tiếng ai đó cất lên gọi đò văng vẳng. Phải mất một lúc tôi mới nhận ra có tiếng con gái gọi ở trước sân nhà: "Bà Bảy ơi, bà Bảy có nhà không bà Bảy?".
Người gọi cửa là một cô gái còn rất trẻ. Cô ta xách trên tay cái giỏ đệm quen thuộc của ông Tư.
- Cô thay ông Tư đưa thư từ báo chí đến phải hông?
- Ừa ! Tui là cháu bên ngoại của ổng. Ổng bịnh hổm rày không đi được. Anh nhận giùm tui nghen!
- Ông Tư đúng là giỏi thiệt. Ðã mười mấy năm nay, tuần nào ông cũng bơixuồng đưa thư tới tận từng ấp, từng xóm trong xã. Mưa gió nắng nôi là vậy, mà đồng tiền trợ cấp làm thêm có đáng là bao. Còn bà Bảy, tuần nào cũng lặn lội đưa thư, đưa báo tới tận tay bà con trong ấp, trong xóm, bà có được trợ cấp đồng bạc nào đâu. Vì lẽ gì mà cả hai con người tuổi tác già nua ấy lại tự nguyện đứng ra làm cái công việc âm thầm này cơ chứ? Mỗi tháng, mỗi năm và mười mấy năm nay, hai con người đơn độc ấy đi hết bao nhiêu đường đất?
Suốt cả tuần ông Tư đổ bệnh, bà Bảy cũng ở luôn trong trạm xá của xã để chăm sóc ông. Một mình sống trong căn nhà lá hiền như cái nấm rơm của bà Bảy, đêm nào tôi cũng thao thức nghĩ về hai con người già nua đơn chiếc ấy.
Ngoại kể ngày xưa, ba tôi là giao liên của Huyện ủy Ô Môn. Một lần ba đang trên đường công tác thì bị tụi bảo an phục trên mí sông phát hiện. Tụi nó chong súng, rượt bắn ba đùng đùng. Ðang chạy, ba bị một băng đạn cạc bin bắn xuyên qua bắp đùi, máu túa ra ướt đẫm cả ống quần. Không thể chạy được nữa, ba nhoài người xuống một con mương, hụp hửi lội ra con rạch, thả mài ốc tới chém vè trong đám ô rô, cóc kèm rậm rịt. Tụi bảo an quần thảo lùng sục cả tiếng đồng hồ, không tìm thấy ba, chúng hậm hực bắn vung loạn xạ vào các lùm bụi một hồi, rồi kéo nhau về đồn. Nhờ vậy mà ba trườn lết tới được nhà của ngoại. Ngoại dùng mật ong và bột nghệ xoa vết thương cho ba. Lúc gần ngất xỉu vì mất quá nhiều máu, ba nói thật với ngoại, ba cần phải chuyển công văn khẩn của huyện ủy tới linh mục Thành ở nhà thờ Sáng Trắng. Bấy giờ mẹ đã gần ba mươi tuổi, vẫn còn sống chung với ngoại, mẹ đã nhận chuyển công văn giùm ba tới tận tay ông linh mục. Sau này mẹ cùng ba chốn vô đồng, cùng ba làm giao liên cho huyện. Ba ngày sau khi ba mất vì đụng trận với lính sư đoàn hai mốt càn vô căn cứ, mẹ sanh tôi trong trạm giao liên của huyện. Vật còn lại duy nhất của ba chính là chiếc võng dù mà lúc nào tôi cũng đem theo bên mình.
Mới hơn chín giờ ngày thứ sáu, tôi nhìn thấy cô cháu ngoại của ông Tư xách cái giỏ đệm từ dưới bến cây còng bước lên. Lần này, ngoài cái giỏ đệm quen thuộc của ông Tư, cô gái còn xách theo một cái giỏ đệm khác. Trong cái giỏ ấy có một cái bộng vịt chừng ký rưỡi, hai con khô cá mặn, một chai nước tương hiệu con mèo đen.
Cô gái nó với tôi:
- Trưa nay em ở lại, làm cho anh món vịt nấu cháo, rồi em tự đưa thư báo cho biết nhà cửa của bà con xóm Bàu. Nay mai em thế ông Tư chạy thư từ báo chí cho bà con trong xã anh à. Ông Tư ổng yếu lắm rồi, hổng còn đủ sức bơi xuồng đâu anh.
Sau buổi cơm trưa, tôi với cô gái bơi xuồng đi đưa thư lòng vòng trong ấp trong xóm.
Khi chúng tôi về gần tới ngôi nhà của bà Bảy thì một cơn dông nổi lên đùng đùng. Tôi ngồi lái, ráng hết sức bơi xuồng thật nhanh để tránh cơn mưa sắp ập xuống. Ấy vậy mà bỗng nhiên tôi nghe cô gái reo lên đầy phấn khích:
- Chèng ơi! Bông tra đẹp quá trời anh ơi!
Cặp theo mé con rạch xuồng chúng tôi đang bơi, bập bềnh một thảm bông tra trôi vàng rực.
Lạ thật! Bông tra lúc chớm nở vào buổi sáng thì có mầu trắng phớt hồng, tới buổi trưa lại nở bùng những cánh mầu hồng sẫm, vậy mà xế chiều lại ngả sang màu vàng chanh roi rói. Bây giờ, trong cơn dông giật đùng đùng, tất cả những bông tra đều tung mình lên trời, bay bay theo gió rồi từ từ đậu xuống mặt nước, kết thành thảm bông tra đẹp tới mê hồn. Chiếc xuồng nhẹ của chúng tôi được nước được gió rướn mình lướt tới, làm cuộn lên hai vòng bông tra vàng xôn xao tới nao lòng.
Mưa bắt đầu sầm sầm đổ xuống như thác. Sóng trên con rạch cồn lên bựng bựng. Thảm bông tra vừa mới đẹp như mơ là vậy, giờ đã sũng nước, vỡ oà ra tan tác, rồi chìm biến đi lúc nào không biết.
Mưa đồng bằng châu thổ kéo dài cả mấy tiếng đồng hồ. Cô cháu gái ông Tư buộc phải nghỉ lại trong căn nhà của bà Bảy. Tôi biết tên cô gái là Hường.
Hồi đó, ông Tư và bà Bảy đều là kẻ làm người ở cho Hội đồng Thoàn. Hội đồng Thoàn rất cưng cậu Út. Năm cậu Út lên sáu, Hội đồng Thoàn cắt riêng cho ông Tư mỗi một việc là hằng ngày dẫn cậu Út tới trường làng học chữ. Cậu quý mến ông Tư, coi ông Tư như người bạn lớn tuổi của mình. Nhờ vậy mà ông Tư cũng được Hội đồng Thoàn ưu ái hơn đám gia nhân đầy tớ trong nhà. Phần bà Bảy, nhờ có chút nhan sắc nên cũng được Hội đồng Thoàn cắt cho công việc lau chùi dọn dẹp, hầu trà nước cho khách ở nhà trên. Ông Tư và bà Bảy nhờ vậy mà thỉnh thoảng cũng có được cơ hội để chạm mặt nhau trò chuyện. Rì rầm rì rầm mãi, rồi hai người cũng bén duyên nhau, cũng toan tính cùng nhau hẹn có ngày xe tơ kết tóc. Nhưng sự đời nào có để yên cho thân phận những kẻ tôi đòi.
Trong đám thực khách thường lui tới nhà Hội đồng Thoàn, Hương Quản Hòa là người háo sắc cả vùng ai cũng biết. Không biết hắn có thót thét sao đó mà Hội đồng Thoàn ưng thuận cho hắn chọn ngày rước bà Bảy về làm vợ nhỏ. Trong đêm biết chuyện, bà Bảy nhắn ông Tư nửa đêm hẹn nhau ở khu gò mả để tìm cách trốn đi.
Quản Hòa vốn ăn chơi trác táng xưa nay, hơn nữa hắn lại biết ông Tư với bà Bảy có tình ý với nhau đã lâu, nên máu ghen càng khiến hắn trở nên ranh ma như chồn như cáo. Thấy hai người biến mất cùng một lúc, lập tức hắn nghĩ ngay tới khu gò mả là nơi hắn đã từng trăng gió mây mưa.
Hội đồng Thoàn vốn là người trọng lời hứa, nay bắt quả tang ông Tư và bà Bảy đưa nhau trốn ra khu gò mả, sợ mất lòng bạn, ngay trưa hôm sau, ông ta đã cho người đưa bà Bảy sang nhà Quản Hòa. Bà Bảy bị buộc làm lẽ cho Quản Hòa được năm ngày thì tìm cách trốn mất biệt. Bà Bảy bặt vô âm tín từ đó tới tận sau 30 tháng tư năm 1975 mới trở về bến bông tra dựng ngôi nhà đơn sơ sinh sống...
Bà Bảy bị bắt đi làm lẽ hôm trước, hôm sau ông Tư cũng trốn nhà đi biệt xứ. Ông lang bạt kiếm sống bên Nam Vang được hơn hai năm mới gom góp bạc tiền về Tri Tôn sinh sống. Chẳng may ở đây ông bị tụi quân cảnh hốt đi quân dịch.
Lúc bà Bảy về quê, biết bà từng tham gia cách mạng, từng là cán bộ điện báo, đánh tê-lê-líp cho ban thông tin tỉnh ủy, ông Tư đã phải lánh mặt bà, lên mở tiệm hớt tóc trên chợ xã. Về sau, do nhu cầu chuyển thư tín của bưu điện xã ngày càng tăng, ông Tư đã tự nguyện xin làm người cộng tác chuyển thư từ báo chí cho bưu điện. Cũng từ ngày tự nguyện nhận chân đưa thư từ báo chí, ông Tư mới có dịp gặp bà Bảy thường xuyên mỗi tuần. Và cũng từ đó, ông Tư thành cái lệ mỗi trưa thứ sáu hằng tuần lại bơi xuồng tới nhà bà Bảy, nhờ bà Bảy chuyển thư cho bà con trong xóm trong ấp. Tuy là tình xưa nghĩa cũ, từng nung nấu một thời, thủy chung tới mức cả hai người không một ai nghĩ tới chuyện lập gia đình, vậy mà khi gặp nhau, cả hai đều thấy có chút gì đó ngượng ngùng không thể bước qua được...
Sau đêm thức trắng nghe Hường kể chuyện, tôi tháp tùng cô lên xã thăm ông Tư.
Lúc tôi với Hường bước vào phòng bệnh của trạm xá, ông Tư nằm teo tóp trên giường bệnh, hơi thở đã phều phào, hai mắt đã lờ đờ không còn thần khí. Bà Bảy ngồi lặng im trên cái ghế tựa, mái tóc tuần trước còn hoa râm, giờ đã bạc phơ mầu bông gáo.
Tự dưng tôi thấy rưng rưng trong lòng, thấy cay cay nơi khóe mắt.
Nhòa trong nước mắt, tôi thấy bến bông tra đã đơm mầu hoa hồng phấn của bình minh.-./.