Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      

XUÂN AN NHIÊN



N gày xuân đến, thế gian khoe áo mới. Cái tuổi thơ hồn nhiên cũng cạn dần nhường cho mái tóc điểm sương nếu cuộc đời diễm phúc tồn tại. Ôn cố tri tân, miên man đất trời với bao thành hư còn mất.          

Dù cho “Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu xuân phong” (Thôi Hộ) với cái cảm người xưa đâu tá, chỉ thấy hoa đùa trong gió xuân về?...             

 Với con người bình thường với suy tưởng cùng hồ bao vui buồn trút lên thế sự thăng trầm, ngụp lặn sinh tử thì dưới cái nhìn của người xem thời gian bao giờ cũng xuân lại là chuyện khác.            

  Xuân đến thật nhẹ nhàng, ý tứ, thầm thỉ như cô gái tuổi mười tám:          

     Khả liên vô hạn thương xuân ý
             Tận tại đình châm bất ngữ thì.

              (Xuân nhật tức sự- Huyền Quang Thiền sư)         

 Tạm dịch:Thương xuân không sao nói hết, chỉ biết đọng lại trên đường kim mũi chỉ. 

Xuân trong đạo Phật là Xuân của tất cả mọi loài chúng sanh ở mười phương pháp giới. Chính các Thiền sư đã coi chân như một sinh vật tiềm ẩn trong vạn vật.

Nhà sư Chân Không đã có câu kệ mang ý của bài thơ Mãn Giác:         

  Xuân khứ xuân lai nghi xuân tận,
             Hoa khai hoa lạc chỉ thị xuân.”
 
            (Xuân đến xuân đi ngỡ xuân hết).
                    Hoa nở hoa tàn ấy vẫn xuân.)           

Đó là cảm quan thiền của thiền sư ở thế kỷ XI về mùa xuân.Thế nhân hay dao động buồn, vui trước dòng đời biến ảo vì chưa thấu rõ quy luật thành, trụ, hoại, diệt của vạn vật. Dưới tuệ nhãn của thiền sư, thật tướng của mùa xuân hiển lộ rõ, dù hoa nở hay hoa tàn, xuân đến hay xuân đi đó vẫn là xuân. Như vậy chân như có gốc ở tâm “Tâm là Như Lai Tạng”, các pháp có tính bắt nguồn từ tâm. Trong quy luật sinh diệt này người ta còn nhận ra cái không sinh diệt “đó là Phật pháp bất ly thế gian” .

Không cảm khái như Nguyễn Du tự day dứt gởi lòng mình vào không gian phút giây thay màu đổi dạng, dù thấy cảnh xuân vốn là nhập đề của một trang thơ đời:

 “Cỏ non xanh rợn chân trời
         Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

thế nhưng:

 “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.       

 Ngỡ ngàng qua một đêm xuân, Mạnh Hạo Nhiên nhà thơ Đường cũng bật thốt:          

 

 Dạ lai phong vũ thanh,     
Hoa lạc tri đa thiểu?

(Xuân Hiểu)        

 Tạm dịch:

Gió mưa xào xạc trong đêm
                       Cánh hoa nào biết rụng thêm ít nhiều?.
  

Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm càng cảm khái hơn cho thân phận già yếu bệnh tật trong lúc đất trời đang trở mình giao mùa:        

   “Lão lai khước dữ bệnh tương kỳ” 
         (Già đến lại cùng với bệnh tật lại gặp nhau)         

    Cuối trời chiều thảng thốt câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan bỏ hết chuyện đã qua để quay nhìn về cố hương khi người và cảnh là một.        

     Gác mái, ngư ông về viễn phố
          Gỏ sừng, mục tử lại cô thôn.

(Chiều hôm nhớ nhà).        

      Xuân có tự bao giờ hỏi ai để biết? Xuân mang đến những gì, chỉ hỏi chính mình mới có thể hay? Trong cuộc đời có những điều khi hỏi hết mọi người mà cũng không cách nào để hiểu được, vậy thì nên tự hỏi chính mình. Thiền Tăng cũng đang trãi nghiệm của chính cuộc đời mình từng phút giây khi xuân đến.            Khứ lai tự tại, duyên hợp duyên tan, mặc cho đến đi, kệ cho tan hợp, xuân của Thiền Tăng luôn còn mãi mãi, mặc cho khứ lai của cuộc đời nào ảnh hưởng gì đến xuân, Thiền sư và xuân chỉ là một tướng, xuân và Thiền sư vẫn một sắc thôi.   

Chính vì trong ý đợi xuân nên vuaTrần Nhân Tông đã hân hoan diễn bạch:          

  Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
          Nhất tâm xuân tại bách hoa trung.

Tạm dich:Tuổi niên thiếu hai chữ sắc không chưa từng hiểu rõ, chỉ thấy xuân về tâm mình vui rộn cùng với trăm hoa.)         

  Và xem xuân là tướng sinh ra đời người trong năm “Nhân chi sanh tướng, tuế nãi xuân thì”  vì hoàn cảnh có khác nhau nhưng ai cũng có một tuổi xuân tràn trề ước vọng.         

   Xuân đến đâu có ý làm cho cỏ cây xanh tươi rồi khô héo, để cho con người khôn lớn rồi già nua, tất cả chỉ là sự vần chuyển tự nhiên của trời đất, là định luật của vô thường “sanh- trụ- dị- diệt” mà thôi. Có hiểu được như vậy thì với xuân mới đủ tình đủ vị, và nếu ngộ được lẽ thường tình ấy thì cùng xuân “trẻ mãi không già”, vui mãi vẫn vui.        

   Xuân vốn là như vậy vui buồn lẫn lộn, ý xuân có khác gì, được mất, có không. Cái không tưởng con người cứ bám víu đi tìm là vòng đời quá hạn hữu muốn là vô hạn. Con chim én biểu trưng thời xuân kia đâu biết mình quá đoản mệnh vì không có tầm nhìn vượt quá vòng đời chính minh, khi chúng ta là con người nên nghĩ khác. Tại sao con người cứ đi tìm trong một thế giới vật chất hỗn độn không gì bất biến hay tồn tại vĩnh viễn mà ít khi nào bằng lòng với chính nó, mà điểm dừng lại là khi nhìn vào chính mình. Thật lạ!           

   Nhất thiết hữu vi pháp,
           Như mộng ảo, bào ảnh,
           Như lộ diệc như điển,
           Ứng tác như thị quán.

            (Kinh Kim Cang)          

Hết thảy pháp hữu vi, như mộng ảo bọt nước, như điện chớp sương sa, nên quán sát như vậy).   

 Thế giới vật chất kia chỉ là nhận thức trong ta, nên thấu xét về chúng chỉ là hình tướng của thực tại, không có đến và đi mà cũng chẳng mất và còn. Và, vua Trần NhânTông đã thể hiện một cách cụ thể qua câu kệ với Pháp Loa :       

 

   “Nhất thiết pháp bất sinh
           Nhất thiết pháp bất diệt
           Nhược năng như thị giải
           Chư Phật thường hiện tiền
           Hà khứ lai chi hữu”


           (Hết thảy pháp không sinh,
           Hết thảy pháp không diệt;
           Nếu biết được như thế,
          Chư Phật thường hiện tiền.
                Vậy còn có gì là đi với đến)         

      Những nhận thức sai biệt “Tri kiến lập tri” khi chúng ta nhìn vào hiện tượng sự vật rồi lắp ghép vào đó tậm sự chính mình để cảm nhận sự vui buồn, có không, đến đi. Làm sao thoát khỏi những trói buộc của khái niệm để có một xuân trong thu tàn đông buốt?         

      Cớ chi Đỗ Phủ phải buồn rầu:        

 

    Tuyệt tri xuân ý hảo      
Tối nại khách sầu hà 

(Giang mai)          

Tạm dịch: Ý xuân luôn trọn đẹp, Lòng khách sao lại buồn ?   

Xuân ở quanh ta đầy tin tưởng ước vọng, chuyện ở cõi ta bà này dù “ hoa nở, hoa tàn” vẫn là xuân. Quên đi chuyện hỉ nộ ái ố để trong tâm tinh khôi một nụ cười. Nếu nhận đúng được vấn đề thì chúng ta chẳng có gì băn khoăn, thoát được khỏi định kiến phân biệt của thế giới vật chất kia, để thấy xuân kia vẫn an nhiên trú tại tâm hồn. Và thế là, xuân đã “ bất lai diệt bất xuất”, không đến không đi…-./.




VVM.30.1.2024.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .