P hòng làm việc của tôi trên lầu, rất yên tỉnh, nhưng thỉnh thoảng vào khoảng hai, ba giờ chiều, nhất là vào ngày Chủ Nhật, tiếng ca nhạc từ một nhà hàng xóm nào đó vang đến rất rõ đôi lúc khiến tôi phân tâm. Thường thì tôi khép cửa sổ, tiếp tục công việc của mình. Hôm nay, tình cờ vẳng đến một giọng hát nữ với lời ca có giai điệu khá quen thuộc, chắc là tôi đã nghe thụ động nhiều lần mà không để ý, và tôi cũng không biết tên bài hát. Lần này tôi lắng nghe và nghe trọn được câu hát cuối bài:
“Nếu anh có về khi tan chinh chiến
Xin em cúi mặt giấu lệ mừng nghe em!”
Câu hát khiến tôi xúc động. Sự xúc động đột ngột khiến tôi rùng mình.
Giọng hát nữ, nhưng tình ý lời ca là của người con trai lính chiến. Trước khi trở lại chiến trường cùng đồng đội, anh đã dặn dò người bạn gái, người yêu, hay người vợ chưa cưới của mình một lời nhẹ nhàng mà trong đó chứa đựng một điều hết sức lớn lao. Điều đó, hiện giờ ta thường gọi là “tính nhân văn.”
Nhớ hai câu thơ trong bài Lương Châu từ của nhà thơ Vương Hàn thời Thịnh Đường của nước Tàu xưa:
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!
(Bạn đừng cười ta say nằm lại ở sa trường
Xưa nay ra trận có được mấy người trở về đâu!)
Chẳng mấy người ra trận còn giữ được mạng sống trở về, thân nhân mình còn sống trở về là quý lắm, mình phải vui mừng, như sau này người ta kỷ niệm ngày chiến thắng phải giăng khẩu hiệu, treo cờ, bắn pháo hoa, hát vang bài ca “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng…” để rầm rộ ăn mừng chớ. Sao lại “xin em cúi mặt giấu lệ mừng nghe em?”
Chiến tranh hai bên đánh nhau, không phải chỉ người bên đối phương chết, mà người bên mình cũng chết. Dù đối phương toàn là ngoại nhân không cùng chủng tộc đi nữa, họ cũng là con người, máu họ cũng đỏ. Họ cũng có thân nhân gia đình và nhiều quan hệ xã hội. Họ xâm lăng gây tôi ác với ta, ta chống lại, và ngoài chiến trường ta phải giết họ để bảo vệ mình. Nhưng họ vẫn là những con người. Giết họ rồi ta vẫn kính trọng họ như những con người. Chính vì tinh thần văn minh đó, những người lính trong các quân đội Tây phương luôn tận tình cứu chửa thương binh đối phương (họ đã bị thương, không còn khả năng chiến đấu gây nguy hiểm cho ta được nữa), và họ có tập quán đứng nghiêm đưa tay chào tử sĩ đối phương.
Trong một cuốn phim về Thế Chiến thứ 2 tôi xem từ nửa thế kỷ trước nên không nhớ tên, có một cảnh quân đội Mỹ nã pháo tiêu diệt toàn bộ một đơn vị quân Nhật trên một hòn đảo trong Thái Bình Dương. Sau đó, khi đổ bộ lên đảo, chứng kiến xác chết của quân lính Nhật nằm la liệt khắp nơi, những người Mỹ chiến thắng, từ vị tư lệnh đến người binh nhì đã đứng nghiêm đưa tay lên chào vĩnh biệt những người lính đối phương đã chết.
Để có được nhận thức mang tính nhân văn, tôn trọng con người, người ta phải là một Con Người văn minh trước đã, với tâm hồn và tính chất Người, tức phải có tính nhân văn hay nói nôm na là tính người và tình người trước đã.
Ngày chấm dứt cuộc chiến tranh Nam Bắc Hoa Kỳ, tướng Grant, tư lệnh quân đội Miền Bắc, không cho quân sĩ của mình ăn mừng chiến thắng hay buông lời xúc phạm người lính đối phương bại trận. Grant không chỉ hành xử như một bậc đại nhân quân tử, mà ông còn là một con người có tình nhân loại, và yêu thương con người. Với ông, dù người lính Nam hay Bắc, thắng hay thua, họ đều là người Mỹ, ông tôn trọng họ. Tại các nghĩa trang “liệt sĩ” của quân đội Hoa Kỳ người ta an táng các binh sĩ tử trận cả Nam lẫn Bắc; các đài tưởng niệm tử sĩ cũng không phân biệt Bác Nam.
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!
Xưa nay chinh chiến mấy ai về!
Chấm dứt chiến tranh ta còn sống trở về nhưng nhiều đồng đội của ta không còn cơ hội trở về nữa. Sự vui mừng lộ liễu của ta có khác gì rạch thêm nhiều nhát dao vào những vết thương lòng của thân nhân những đồng đội xấu số của ta. Họ không phải một hai người, mà hàng triệu người, kể cả hai bên, đã không về nữa từ chiến trường, từ các trại tập trung, từ rừng sâu biển cả. “Xin em cúi mặt giấu lệ mừng nghe em!”
Xin em cúi mặt, vì sự vui mừng của em không chỉ làm đau xót thêm nỗi đau trong lòng thân nhân tử sĩ đối phương, mà cũng xát muối vào vết thương sâu muôn đời không lành của thân nhân đồng đội mình trên khắp nước nữa.
Một người của bên thắng cuộc, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có một nhận xét tương tự: “Ngày 30 tháng 4 có triệu người vui nhưng cũng có triệu người buồn.”
Là một người Cộng sản, thuộc bên thắng cuộc, ông chỉ có nhận xét thế thôi. Còn để cảm nhận tính chất vui buồn của hàng triệu người này một cách sâu sắc, để từ đó có được sự cư xử mang đậm tình người và đầy lòng nhân đạo thì trước đó phải sống trong một nền văn hóa văn minh thấm dẫm tính nhân văn, như người lính này, trong một tình huống bình thường, chẳng lên giọng lên gân gì cả, thốt ra những lời giản dị sâu đậm tình người:
“Nếu anh có về khi tan chinh chiến
Xin em cúi mặt giấu lệ mừng nghe em!”
Tôi không biết tên bài hát này, có lẽ nó thuộc loại “nhạc vàng” (mà trước đây có ai đó gọi là golden music – chớ không phải yellow music như bị gán lầm) vẫn sống dai dẳng suốt 45 năm qua trong lòng nhiều người Việt, không những ở miền Nam mà tính nhân văn của loại bài hát này có lẽ cũng lay động nhiều tâm hồn người miền Bắc, dù một thời gian dài bị cấm hát cấm nghe. Những bài hát đầy tình người và không kêu gào thù hận giết chóc dễ bám vào lòng người ta, vì “nhân chi sơ tính bổn thiện.” Những kẻ trong lòng còn nhân tính khi tiếp xúc với loại văn hóa ăm ắp tính người và tình người này rất dễ dàng đồng cảm và họ đã đồng cảm với nó một cách tự nhiên. Họ hát theo bài hát, thực ra họ hát tính nhân văn “bổn thiện” có sẵn trong tâm hồn mình.