Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      



THÍCH PHƯỚC AN
NGÂN VANG NGÀN TIẾNG LÒNG THƠ



K ể từ ngàn xưa muôn thuở nọ, tuy xa xăm, hun hút tuyệt mù nhưng vẫn còn dư vang, thấp thoáng trong sương mờ vạn cổ, những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.

Đó là những Thiền sư, những Thi sỹ, những đạo nhân, mặc khách, hành giả đã xuất hiện trên mặt đất, trần gian này. Họ đến rồi đi, chỉ để lại vài tiếng thơ, tiếng sáo hòa lẫn trong tiếng hét, tiếng gầm rền vang với giọng cười tiêu dao, hào sảng còn dội âm trầm hùng suốt vạn đại rung ngân…

Thật kỳ diệu thay! Thích Phước An, một nhà văn ẩn cư trên đồi cao Trại Thủy, Nha Trang, hơn nửa thế kỷ dài trầm tư, tịch lặng đã lắng nghe được những tiếng lòng thiên cổ vô vi đó.

Cho nên rung nhịp cung hồn văn chương mà hòa âm thâm thúy, tâm cảm với các Thiền sư, Thi sỹ ấy đi về. Hòa âm cung bậc từ “Trần Thái Tông và cuộc lên đường tìm kiếm một quê hương vĩnh cửu” đến “Tuệ Trung Thượng Sỹ, kẻ rong chơi giữa sống và chết”. Từ “Quê hương, ngôi chùa và thiên nhiên trong cõi thơ Trần Nhân Tông” đến “Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm lặng của mùa thu”. Từ “Nguyễn Trãi đến Ngô Thì Nhậm và con đường đi lên đỉnh núi Yên Tử”.

Thư thả, thong dong một cách chân tình, Thích Phước An hoan hỷ đưa chúng ta khám phá biết bao vẻ đẹp tuyệt trù, từ “Núi Hồng Lĩnh nơi nuôi dưỡng lòng từ bi của thi hào Nguyễn Du” đến “Toàn Nhật thiền sư với những nẻo đường cát bụi của quê hương”. Từ “Đêm nhìn sao Mai mọc nơi rặng Hy Mã Lạp Sơn đến những con đường thôn dã của quê hương”. Từ “Cuộc hành trình cuối cùng của Đức Phật với những thống khổ muôn đời của nhân loại” đến Kinh Địa Tạng, bà Mẹ của mặt đất điêu linh”.

Tình tự thiết tha, tình yêu, tình thương vô lượng, tình mộng, tình thơ rực rỡ, phiêu bay chập chùng khắp muời phuong thế giới. Từ “Buddhaghosa và Lev Tolstoy, những người đi tìm ý nghĩa cho cuộc đời” đến “Rabidranath Tagore, thi nhân đi tìm vô hạn trong vòng tay của bà Mẹ cát bụi”…

Rồi lênh đênh, văn sỹ “Đi tìm lại đám mây trắng trên mái chùa xưa” qua cõi giới tân kỳ “Thi ca Huyền Không với tuổi thơ học đạo”. Dạo khúc Mùa cổ điển với “Quách Tấn, nhà thơ của núi cũ chùa xưa”. Đùa chơi, ngao du ngày tháng với “Thơ Bùi Giáng và tuổi trẻ lang thang trên hè phố Sài Gòn”. Còn hay mất, hỡi “Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ?” mà lặng lẽ trầm ngâm, ngậm ngùi “Buổi chiều qua cầu Ngân Sơn nhớ Võ Hồng”…

Bồng phiêu cùng tuyệt theo “Phạm Công Thiện -Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng”. Chạnh niềm xót xa, tha thiết hòa phím sầu ca, để lịm hồn nghe “Thơ Tuệ Sỹ hay là tiếng gọi của những đêm dài heo hút.” Ngút mang mang sầu, rợn màu sương khói “Hoài Khanh-Người thi sỹ đi tìm cỗi nguồn của một dòng sông”. Có hay không mà như mộng, như thơ vụt bừng lên trên “Những ngày xuân hoang vu của Nguyễn Đức Sơn”…

Hơn nửa thế kỷ rồi mà vẫn bồi hồi bao thân thiết khi “Đọc Quê hương tôi của Tràng Thiên”. Rất hân hoan chuyện trò với “Đỗ Hồng Ngọc gió bấc cuối năm”. Thắm thiết bao nỗi niềm cùng “Ngôi chùa trong tâm tưởng”…

Thường ngồi một mình trên đồi cao, nhìn xuống bát ngát trùng dương, thưởng thức “Tác phẩm Hạt nắng Bồ đề của Nguyên Đạo Văn Công Tuấn”“Tuyển tập thơ thiền Lê-Nguyễn” quá đỗi tuyệt diệu, phiêu nhiên…

Huyền chi hựu huyền, miên man giữa trời thơ đất mộng, lồng lộng trong lòng sâu thẳm khôn dò. Từ đó mà tuôn chảy suối nguồn sáng tạo tự do. Đó cũng chính là nội dung ba tác phẩm tâm đắc của nhà văn Thích Phước An: Đường về núi cũ chùa xưa, Đức Phật trên cõi phù du và Hiu hát quê hương bến cỏ hồng (Ba tác phẩm này đều được tái bản nhiều lần).

Thật là hy hữu, điều đó chứng tỏ, tác phẩm Thích Phước An được nhiều độc giả khắp chốn mọi nơi đón nhận, tìm đọc. Đọc văn Phước An chẳng khác chi đọc thơ, mở khơi mạch ngầm tâm cảm sâu xa trong tàng thức hướng về Chân Thiện Mỹ.

Chỉ mới đọc cái tựa đề mỗi bài viết của văn sỹ là đã thấy đầy chất thơ, chất thi ca bàng bạc rồi. Trong bài “Tuệ Trung Thượng Sỹ, kẻ rong chơi giữa sống và chết”, Phước An viết: “Là một nhà thơ của Phật giáo Thiền tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ khuyên ta nên trở về tìm kiếm cái đẹp ngay bên trong chứ đừng tìm bên ngoài. Nếu ngày nào ta vẫn cứ tiếp tục lang thang đi tìm bên ngoài, thì ngày đó ta vẫn chỉ gặp toàn thất vọng và đau khổ mà thôi…

Và sau cùng, con người phải nhận ra rằng, mọi hiện tượng của thế gian, cứ thế tiếp tục trôi chảy không ngừng, sự tồn tại và hủy diệt của mọi sự vật và của chính ta nữa cũng nằm trong dòng sông vô tận ấy…

Vậy thì, tại sao ta phải sợ sống chết nhỉ? Trong bài Sanh tử nhàn nhi dĩ (Sống chết chỉ là nhàn mà thôi) Tuệ Trung Thượng Sỹ cho rằng, chỉ có người ngu mới sợ sống chết, còn kẻ trí tức là người đã “ấn định được thời tiết” rồi, thì xem sống và chết chẳng là gì cả mà cũng chỉ là một dịp để cho ta tiếp tục cuộc rong chơi, chỉ có vậy thôi:


Ngu nhơn điên đảo bố sinh tử
Trí giả đạt quan nhàn nhi dĩ

Nghĩa:
Người ngu điên đảo sợ sống chết
Bậc trí có cái nhìn thông đạt, xem sống chết chỉ là lẽ thường mà thôi”

Rồi trong bài “Núi Hồng Lĩnh nơi nuôi dưỡng lòng từ bi của thi hào Nguyễn Du”, nhà văn cảm nhận sâu sắc: “Trong bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, đã được Nguyễn Du viết từ khi còn rất trẻ, ta đã thấy Nguyễn Du bắt đầu nhắc đến Lòng Bồ đề hay Từ bi hỷ xả rồi:


Tiếp đãi mấy đêm một mực
Lòng Bồ đề hỷ xả từ bi
Xôn xao một khắc ngàn vàng
Đàn chẩn tế Ba la Bát nhã

Vậy là không còn hồ nghi gì nữa, tất cả tấm lòng, tất cả tình thương nồng nàn của Nguyễn Du đối với bao nhiêu thống khổ của con người, thể hiện từ Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sanh đến ba tập thơ chữ Hán là Thanh hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục đều khởi đầu từ Lòng Bồ đề, hỷ xả từ bi, từ những ngày còn rất trẻ vậy.”

Tiếp tục, chúng ta hãy nghe Thích Phước An dẫn dắt theo “Cuộc hành trình cuối cùng của Đức Phật với những thống khổ muôn đời của nhân loại”: “Có lẽ ngày nay, nhân loại đã thực sự thức tỉnh và nhận ra rằng, không ai có thể cứu rỗi được cho ai hết. Và sẽ không có một thiên đường nào ở ngày mai, nếu hiện tại của ngày hôm nay, con người không chịu nỗ lực để loại bỏ những điều xấu xa và thấp hèn ở trong chính bản thân mình.

Bởi thế, cho nên cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, khi cái an lạc của hiện tại vĩnh cửu mà bậc Trí giả trầm lặng của dòng Thích Ca đã công bố cách đây trên 25 thế kỷ vẫn là “điểm hẹn” không chỉ trong thế kỷ 21 này mà chắc chắn sẽ còn tiếp tục trong những thế kỷ sau nữa.

Vì chẳng phải Albert Einstein, nhà vật lý học lỗi lạc của Mỹ, người đã đoạt giải Nobel về Vật lý năm 1921 đã tiên đoán rằng: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ” và Albert Einstein đã tự trả lời, tôn giáo ấy chính là Phật giáo: “Nếu có một tôn giáo nào thích hợp được với những nhu cầu của nền khoa học hiện đại thì tôn giáo đó chính là Phật giáo” đó sao?”

Rào rạt một lòng thơ lai láng, một hồn văn nhạy cảm, lại có một thời gian dài sống chung, cận kề với các bậc xuất chúng, thâm uyên như Bùi Giáng, Tuệ Sỹ, Phạm Công Thiện tại Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, nên Thích Phước An cũng cùng phiêu hốt, lãng đãng trên phong vận tài hoa. Hãy nghe văn sỹ nói về thiên tài kỳ dị Bùi Giáng:

“Còn thi nhân thì ngược lại, mỗi giây phút sống trên đời này đều là mỗi giây phút thiêng liêng. Vạn vật đối với họ như có linh hồn, vì đang cùng với trái tim của họ rung lên bao nỗi chờ mong:


Tôi đã gởi hồn tôi biết mấy bận
Cho mây xa cho tơ liễu ở gần
Tôi đã đặt trong bàn tay vạn vật
Trái tim mình nóng hổi những chờ mong

Và theo tôi, sở dĩ người nghệ sỹ ấy, tự chọn cho mình một đời sống lao đao, lận đận như vậy, chẳng có mục đích nào khác hơn là muốn chia sẻ với con người một chút đau khổ giữa cái khổ lớn lao mà con người đang phải gánh chịu, với hy vọng đốt lên được ngọn lửa của tình thương mà vốn dĩ đã quá nguội lạnh trên cuộc đời này, như thi nhân đã một lần phát đại nguyện:


Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn”

Nguồn cảm rung vô cùng phúc hạnh cứ trào dâng, quần tụ mãi trong lòng Trần Hữu Cư (tên khai sinh Thích Phước An) trong những ngày tháng lang thang cùng thi sỹ Bùi Giáng, nhất là được Bùi thi sỹ ưu ái viết tặng một bài thơ không đề:


“Giọt mù sương cố quận
Bước chân về dặm xa
Xa vời bóng Thích Ca
Con đi từ ngõ hẹp
Con đi từ nhớ mong
Một con đường đi vòng
Đến bên chân rừng núi
Con ngồi bên bờ suối
Kính tặng một bài thơ”

Với Thích Phước An, nguồn cảm hứng sáng tạo rực rỡ được khơi mở rạt rào, mãnh liệt từ Bùi Giáng và Phạm Công Thiện, một người anh thân thiết, từng chia bùi sẻ ngọt vời nhau trên đồi cao Trại Thủy, Nha Trang và Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn:

“Trừ những năm Phạm Công Thiện sống ở nước ngoài, còn những năm anh ở trong nước thì tôi đều được ở gần anh. Những năm anh ở Sài Gòn là những năm anh ở trên đỉnh cao của cuộc đời, khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh nổi tiếng, được sinh viên xem như thần tượng. Có nhiều tờ báo còn gọi anh là “hiện tượng Phạm Công Thiện” và quả thật anh xứng đáng để được tôn vinh như vậy.

Nhưng với riêng tôi, tôi chỉ muốn giữ lại cái hình ảnh của một thanh niên tri thức đã can đảm từ bỏ hết những đam mê, quyến rũ của Sài Gòn để về nằm trên đồi cao của đồi Trại Thủy “nghe gió đìu hiu và tiếng sóng vỗ xa”. Đúng như hai câu thơ mà anh đã làm trên đồi cao lộng gió này:


Trùng dương nằm đợi vô thường
Đồi cao bạt gió hai đường âm u”

Rồi nhà văn nhận định một cách khách quan, vô tư: “Phạm Công Thiện vốn nổi tiếng giỏi ngoại ngữ, nhất là các ngôn ngữ Tây phương. Hồi mới mười sáu tuổi, anh đã soạn Anh ngữ tinh âm từ điển. Việc thông thạo các thứ tiếng Tây phương, chắc chắn đã quyết đinh hướng đi cho anh.

Ngoài hai tác phẩm Nguyễn Du đại thi hào dân tộc và Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử thì tất cả các tác phẩm còn lại đều viết về các triết gia, văn hào và thi hào trên thế giới. Vào những năm cuối đời, Phạm Công Thiện còn dịch và viết nhiều về tư tưởng Phật giáo Mật tông Tây Tạng nữa…

Và một điều vô cùng quan trọng hơn nữa là trong các tác phẩm của Phạm Công Thiện mà hầu hết đều viết về các triết gia, văn hào và thi hào trên khắp thế giới, thế nhưng dường như lúc nào, anh cũng để một vị trí đặc biệt cho các Thiền sư, nhà văn hay nhà thơ của quê hương, đất nước.

Ví dụ trong tác phẩm rất quan trọng là Im lặng hố thẳm (có thể là quan trọng hơn cả Ý thức mới trong văn nghệ và triết học) Phạm Công Thiện đã mở đầu bằng hình ảnh của một Thiền sư, đứng chót vót không chỉ với tư tưởng Việt Nam mà còn cả tư tưởng của nhân loại nữa:

“Thiền sư Không Lộ ở thời Lý của quê hương, một lần kia cô đơn, bước lên tận một đỉnh núi chót vót và sực kêu lên một tiếng bơ vơ làm lạnh cả bầu trời xanh lơ đầy mây trắng. Dưới kia là hố thẳm hoang sơ, hố thẳm của quê hương, niềm câm lặng của hố thẳm bỗng vọng lên Tính và Việt: Triết lý của Việt Nam ra đời, vỗ cánh bay lên như phượng hoàng, để rồi mười năm sau, hóa thân làm rồng bay vút trời nhân loại…


“Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”
(Đỉnh non có buổi leo lên thẳng
Gầm dài một tiếng lạnh hư không)

Tiếng gầm của Không Lộ từ ngàn xưa vẫn còn dội vang về trong “Thơ Tuệ Sỹ hay là tiếng gọi của những đêm dài heo hút”. Mở đầu bài đó, Thích Phước An viết:

“Lúc ấy là cuối hè 1976, tôi đưa Tuệ Sỹ đi Vạn Giã để anh khởi sự một cuộc đời mới –#8211; đi tìm rừng để làm rẫy. Dù từ Nha Trang đi Vạn Giã đường sá rất bằng phẳng, lại chỉ khoảng chừng 60 cây số, nhưng tôi có linh cảm rõ rệt rằng, đây sẽ là chuyến đi gian nan và nguy hiểm nhất của đời anh…


Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu

Tuệ Sỹ sáng tác hai câu thơ trên khi đang làm rẫy tại núi rừng Vạn Giã, nghĩa là vào khoảng cuối năm 1977. Là một người trí thức (tất nhiên phải là trí thức có liêm sỉ) Tuệ Sỹ đã ý thức được rằng, mình không thể nào đứng ngoài cuộc để nhìn sự đau khổ chung này được. Hai câu thơ trên chứng tỏ anh đã đoán được những gì sẽ xảy ra cho bản thân mình và điều tiên đoán đó đã đúng…”

Rúng cảm thần hồn, một bài viết tuyệt hay về Tuệ Sỹ. Chỉ có Thích Phước An, người thân cận với Thiền sư Tuệ Sỹ thì mới cho chúng ta biết được những chi tiết như thế mà thôi:

“Tại sao trong truyền thống thi ca Viễn Đông, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam…Thiền sư và Thi nhân thường đi đôi với nhau như hình với bóng? Không thể biết được, ta chỉ có thể đoán cả hai đều đang đứng đó để trông ngóng một mùa thu cô tịch đang đến chậm ở cuối chân trời xa kia chăng?”

Tương tự như Phạm Công Thiện, văn chương Thích Phước An cũng thường hay viết về đề tài các tác giả văn học Đông Tây kim cổ. Bút pháp tự nhiên như kể chuyện, uyển chuyển như mây bay, nước chảy, đầy chất thơ nhạc bàng bạc khắp các tâc phẩm…

Tâm đắc với “Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng”, nhạc sỹ Tuấn Khanh viết trong Lời nói đầu: “Quyển bút ký Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng, nhắc nhiều đến Quách Tấn, Tuệ Sỹ, Võ Hồng, Hoài Khanh, Nguyễn Đức Sơn…Những tri kỷ của núi sông đã vận dụng mọi từ ngữ cao quý nhất của mình, để mô tả vẻ đẹp của quê hương Việt Nam, đời Việt Nam…

Người Việt đã từng hay đến vậy. Trí tuệ Việt đã từng vời vợi như vậy. Chúng ta từng có tất cả đó thôi. Đọc sách mà bật lên tiếng lòng xao xuyến. Từng lời kể giản đơn trong Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng cứ thấm dần qua từng trang giấy. Sột soạt như đôi giày cỏ thầm lặng bước ở ven đường.

Chậm rãi và an nhiên như một lữ khách đi qua địa cầu, tác giả ghi chép kỹ lưỡng những gì mình nhìn thấy, vì biết rõ chỉ còn lại một ít thời gian ở kiếp máu đỏ da vàng này như duyên nghiệp..

Đọc những dòng soi vào thời gian và trao lại từ bậc trí giả im lặng, thấy sấm động đâu đó trong trái tim mình…”

Văn Công Tuấn, một kỹ sư, chuyên viên điện toán, đồng thời là nhà văn (đã xuất bản 2 tác phẩm rồi) hiện đang sống định cư bên Đức, nhận xét về Thích Phước An:

“Thầy Phước An khác với những vị ở Vạn Hạnh xưa. Thầy rất thích thơ, lại phê bình thơ. Thầy hay giao du thân thiết với những nhà thơ lớn như Bùi Giáng, Tuệ Sỹ, Quách Tấn, Hoài Khanh…

Như vậy mà tự mình thầy không làm thơ (ít nhất là tôi chưa thấy bao giờ). Nhưng ông thầy này lại thích viết văn, viết nhiều bài tản văn nhiều trang. Đọc văn của thầy mê chết được nhưng phải đọc nghiêm túc, đọc đi đọc lại vì dài và có khi khó hiểu, nhiều chi tiết…”

Tuyệt diệu làm sao, du sỹ này cũng có duyên lành với nhà văn từ mấy chục năm trời nay. Thầy trú cư trên đồi cao Trại Thủy ấy hơn nửa thế kỷ nay rồi. Thầy sống một mình, chỗ phòng Thầy ngồi uống trà nhìn xuống đại dương, thấy toàn cảnh thành phố Nha Trang thấp thoáng dưới xa kia vời vợi…

Nơi đây, du sỹ thường hay ghé về thăm chơi, trên những chuyến đi phiêu bạt, giang hồ xuyên Việt bằng con ngựa sắt. Lặng niềm sâu thẳm, nhắp chén trà thơ, ngồi tịnh yên cùng thầy chuyện trò và tha hồ đón từng trận gió từ ngút ngàn trùng khơi lồng lộng thổi vào xào xạc mấy tàng cây lá reo vui. Vui nhất là khi từ biệt, lần nào cũng vậy, Thầy đều cho tiền lộ phí để lên đường.

Tương cảm, tâm cảm, rung cảm, quá cảm xúc, cảm động trước tấm lòng bao dung, thanh thản đó nên có lần du sỹ mần thơ kính tặng Phước An đồi biển ngát:

Đường về núi cũ chùa xưa
Dấu thiền sư bước thượng thừa ung dung
Đồi cao nắng ấm trầm hùng
Cung đàn vạn pháp mãi rung cảm hòa

Dù cho mấy độ phong ba
Chùa im lìm biết chỉ là chiêm bao
Nhìn lên nhật nguyệt thở phào
Ngắm trùng dương xuống lặng lao xao niềm

Cõi nào trổ đóa Hoa Nghiêm
Mà đây trời đất vẫn điềm nhiên ngân
Chiều lên Hải Đức xuất thần
Thấy sau xưa giữa hồn Xuân bây giờ

Tâm Nhiên

(Vô Trú Am 16. 10. 2025)




VVM.31.10.2025.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .