Việt Văn Mới
Việt Văn Mới




NHỮNG HÌNH ẢNH CHẠM KHẮC
TRÊN CỬU ĐỈNH Ở HUẾ


            

C ửu đỉnh được khởi đúc từ năm Minh Mạng thứ 16 (1835), đến năm 1837 mới hoàn tất, mỗi đỉnh mang tên chữ từ trong Miếu hiệu các vua nhà Nguyễn, từ Thế tổ Cao Hoàng đế trở xuống: Cao, Nhân, Chương, Anh, Nghị, Thuần, Tuyên, Dụ, Huyền đặt trước sân Thế Miếu, ứng theo thứ tự các án thờ bên trong 

Triều Minh Mạng là thời kỳ đất nước Việt Nam thống nhất hùng mạnh, lãnh thổ vững chãi, đầy uy thế đối với lân bang. Có lẽ bất kỳ ai cũng đều thấy rõ: vị Hoàng đế của thời kỳ này là một người tuyệt đối theo Khổng giáo và là một nhà bác học thông tuệ của xứ sở. Cho nên rất dễ hiểu là cùng với đền đài cung điện đẹp đẽ, tráng lệ được xây dựng, nhà vua còn cho đúc Cửu đỉnh, có lẽ phần nào cũng bắt chước vua Hạ Vũ - Hoàng đế Trung Hoa xưa, lấy kim khí từ chín châu, đúc Cửu đỉnh tượng trưng cho 9 châu, làm vật báu của nước để truyền lại cho đời sau. Đặc biệt nhất là để xác định đế quyền của giòng họ trước Trời, Đất và Người. Vẻ đồ sộ, uy nghiêm do hình dáng và sức nặng của đỉnh biểu hiện sự vững bền lâu dài của triều đại, trong cách nhìn của chế độ phong kiến thì chính đấy cũng là tượng trung thiêng liêng của sinh mệnh Tổ quốc. 

Phải tưởng tượng đến cách làm việc của những người thợ đúc, mới thấy được công trình này vĩ đại như thế nào: đúc mỗi đỉnh phải dùng 60 lò nấu đồng góp lại, mỗi lò chỉ nấu chảy được từ 30-40 kg, khuôn để lật ngược, đồng đổ vào một chân đỉnh. Đúc xong đỉnh rồi sẽ gắn thêm đôi quai và các hình chạm nổi. Các hiệp thợ hàng trăm người được huy động từ Phường đúc Huế vá các Phường đúc có tiếng khác trong cả nước, làm việc liên tục trong 3 năm và phải sử dụng một khối lượng đồng thau nặng đến hơn 20 tấn để hoàn tất công trình này. 

Trên mỗi đỉnh đều có ghi trọng lượng, mỗi đỉnh nặng từ 2 đến 2,5 tấn, theo Khâm định Đại Nam Hội diễn sự lệ, trong lượng và kích thước của các đỉnh như sau: 

- Cao đỉnh nặng: 4.307 cân ta, cao 5 thước 5 phân, miệng rộng 3 thước 3 tấc 5 phân.

- Nhân đỉnh nặng: 4.160 cân ta, cao 4 thước 7 tấc 5 phân, miệng rộng 3 thước 3 tấc 3 phân.

- Chương đỉnh nặng: 3.472 cân ta

- Anh đỉnh nặng : 4.261 cân ta

- Nghi đỉnh nặng : 4.206 cân ta

- Thuần đỉnh nặng : 3.229 cân ta

- Tuyên đỉnh nặng : 3.421 cân ta

- Dụ đỉnh nặng : 3.341 cân ta

- Huyền đỉnh nặng: 3.201 cân ta, cao và rộng như Nhân đỉnh. 

Một cân ta nặng khoảng 0kg600, 1 thước ta dài khoảng 0m42. 

Ngoài mấy điểm đã đề cập trên. Cửu Đỉnh ở Huế ngày nay đã là một vết tích lớn của nền văn hóa, nghệ thuật dân tộc có lẽ do chính hiệu quả sâu sắc của những hình chạm khắc trên đó. Trên chín đỉnh đồng vĩ đại này, chúng ta sẽ nhìn thấy 162 hình ảnh tinh xảo, phân bố đều cho các đỉnh, mỗi đỉnh chứa đựng 18 hình ảnh chạm khắc nổi, tập họp thành một bức tranh toàn cảnh tươi đẹp của Tổ quốc Việt Nam, là một bức tranh hoành tráng rất hiện thực nhưng lại bắt sâu vào phần thiêng liêng của sông núi, tạo nên một vẻ đẹp hài hòa kỳ diệu, theo một cách nói nào đó thì các đỉnh tạo thành một bản tài liệu biểu tỏ kiến thức bách khoa của các vị nho sĩ thông thái trong triều đình Huế năm 1835, tài liệu còn giữ được nguyên vẹn dưới mắt chúng ta trong khi những tài liệu khác hoặc đã bị tiêu hủy hoặc đã bị nhiều phần sai lạc. Đấy là hình ảnh trời, đất, trăng, sao các hiện tượng thiên văn, khí tượng, các thực thể địa lý quan yếu trong nước như sông, núi, biển, đèo, các động vật, thực vật, chim chóc, hoa lá, những vật thể gắn liền với cuộc sống như xe cộ, ghe thuyền, binh khí. Tất cả những hình ảnh ấy đã gắn bó bền chặt cùng nhau, cả trên bề mặt lẫn chiều sâu, có khi là tiêu biểu của vẻ đẹp vương giả, cung đình nhưng có khi lại rất dân gian, thân thuộc với cuộc sống ngoài chốn đồng nội, thảo dã. 

Chúng ta thử liệt kê các hình ảnh ấy ở đây: 

Trên Cao đỉnh có hình tượng con rồng, chim trĩ, bông tử vi, củ hành, cây lúa, cây mít, núi Thiên Tôn (Thanh Hóa), sông Bến Nghé, mặt trời, Kinh Vĩnh Tế, biển Đông, cây gỗ lim, con ba ba, cây trầm, con cọp, súng đại bác, thuyền nhiều cây (da tác thuyền, trois Mâts). 

Trên Nhân đỉnh là tập họp các hình tượng: cây ngô đồng, chim công, hoa sen, cây bòn bon, lúa nếp, gỗ kỳ nam, núi Ngự Bình, sông Hương, mặt trăng, sông Phải Lại (con sông đào phía đông thành Huế), biển Nam Hải, cá voi, con đồi mồi, con beo, súng đại bác đặt trên bánh xe (luân xa pháo), thuyền có tầng lầu (lâu thuyền), cây rau hẹ. 

Trên Chương đỉnh có hình ảnh: con gà trống, bông lài, rau kiệu, cây đậu xanh, quả đậu khấu, cây xoài, biển Tây, sông Gianh, ngũ hành tinh (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), sông An Cựu, núi Thương Sơn (gần Huế), cây bồ hòn, tê giác, súng điểu thương, thuyền chiến, cá sấu, rùa thiêng. 

Trên Anh đỉnh là các hình ảnh: con ve, bông hồng, chim hạc, cây cau, cây nghệ, cây tô hợp (styrax), núi Hồng Lĩnh, sông Lô, sao Bắc Đẩu, sông Mã, sông Ngân Hà (voie lactée), con ngựa, cây thị, con trăn, đàn bươm bướm (hồ điệp tử, boulet châiné), lá cờ, cây dâu. 

Trên Nghị đỉnh là các hình ảnh: cây mai, con đuông dừa, hoa hải đường, cây đậu ván, cây quế, cây huỳnh đàn, cửa biển Thuận An, sông Bạch Đằng, sao Nam Tào, sông Vàm Cỏ, cửa ải Quảng Bình, cá tràu (cá lóc), con voi, cặp chim uyên ương, thuyền đi biển, cây giáo, cải bẹ xanh. 

Trên Thuần đình: cây đào, chim hoàng anh, hoa quỳ (hướng dương), cây đậu nành, rau húng, cỏ sa nhân (cardamome sauvage), cửa biển Cần Giờ, sông Thạch Hãn, gió, sông đào Vĩnh Định (Quảng Trị), núi Tản Viên, con cá rô, con bò tót, gỗ sao, thuyền đua, lưỡi gươm, con trai. 

Trên Tuyên đỉnh có các hình ảnh: chim két, cây trắc bá, cây đâu phụng, hoa sói, cây nhãn, tổ chim yến, sông Lam (Nghệ An), núi Đại Lãnh (giữa Phú Yên và Khánh Hòa), đám mây, sông Hồng, núi Duệ (phía đông nam Huế), con sam, con vích, con lợn, chiếc thuyền với 6 cặp tay chèo, cái nỏ, cây gừng. 

Trên Dụ đỉnh: chim anh võ, cây thông, cây dâm bụt (ketmie), cây đậu trắng, cây trầu, cây lê, cửa biển Đà Nẵng, sông Vệ (Quảng Ngãi), sấm chớp, sông Vĩnh Điện (Quảng Nam), cửa ải Hải Vân, con cá mú, con dê, con hến, cây phạng (faux de combat), thuyền ô, cây tía tô. 

Trên Huyền đỉnh: cây mộc lan (magnolia), chim đầu sói (marabout), cây bông vải, cây Nam sâm, cây tỏi, trái vải, sông Thao (Việt Trì), núi Hoành Sơn (giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình), cơn mưa, sông Tiền sông Hậu, cầu vồng (arc-en-ciel), con cà cuống, con lộc mã (cerfhybride), cây nhựa sơn, súng phun lửa, con mãng xà, xe tứ mã. 

Xem qua những khắc chạm trên, có lẽ tất chúng ta dễ dàng đồng ý rằng chính đây là một cuộc triển lãm bao gồm những tác phẩm mỹ thuật rất tinh tế với nhiều kỹ xảo, tinh thần khoa học, lại xây dựng trên đời sống trí tuệ và tâm linh của cả một dân tộc mà cho đến ngày nay giá trị ấy càng được xác định hơn. Tâm hồn của đất nước truyền thống hiển hiện tài tình qua một số phạm trù: vũ trụ, thiên nhiên, lịch sử, tất cả đã tập hợp cùng nhau để ngợi ca Tổ quốc hoa gấm, nước biếc non xanh giàu đẹp vững bền. 

Ở nơi đây, như đánh giá của một nhà nghiên cứu về Huế: Cửu đỉnh là kiệt tác của nghệ thuật và kỹ thuật đúc đồng Việt Nam vào thế kỷ thứ XIX tại Huế, cũng là mẫu mực về sự chan hòa giữa nghệ thuật chính thống và nghệ thuật dân gian. Có thể xem đây là thành tựu vượt bực của văn hóa Phú Xuân, một sáng tạo kỳ diệu của văn hóa nghệ thuật Việt Nam truyền thống. Ý kiến này khá xác đáng, xem xét kỹ bộ Cửu đỉnh vĩ đại chúng ta sẽ thấy rằng đây không phải là sản phẩm của tầng lớp quý tộc phong kiến mà đúng là một công trình chung của dân tộc, là một thành tựu do nhiều người góp sức vào, của nhà cầm quyền, giới trí thức, những nhà nghệ sĩ tạo hình và của biết bao nhiêu người thợ khéo đến từ nhiều nơi. Nếu người chủ xướng công trình là vua Minh Mạng (1821-1840) thì công bằng mà nói, chúng ta phải nhận là cách nhìn của nhà vua rất phóng khoáng, cởi mở, có một cái nhìn bao trùm lên toàn giang sơn cẩm tú, chứ không chỉ hẹp hòi trong vẻ đẹp thanh tao vương giả và biểu tượng cung đình cứng nhắc. Thế cho nên, bên cạnh hình tượng con rồng uy nghi, bên cạnh vầng nhật nguyệt và những chòm sao thiêng liêng, cạnh móng cầu vồng bảy sắc rạng rỡ kỳ lạ trên bầu trời, cạnh những giống chim quý như trĩ mà có nhà nghiên cứu cho là tiền thân của loài Phượng hoàng phương Đông, cao nhã như chim hạc, lộng lẫy như chim công, kiểu cách như anh vũ, vàng anh, chúng ta bắt gặp những hình ảnh dân giã biết bao, như những con cá rô, cá tràu, con heo, con đuông dừa, con sam, con cà cuống, củ hành, củ nghệ, rau tía tô, rau húng, bụi rau hẹ, cây lúa, cây đậu phụng. Cạnh sản vật và phong thổ tự nhiên là những công trình lao động sáng tạo của nhân dân như Kinh Vĩnh Tế là một điển hình đặc sắc. Con kinh đào nối liền Châu Đốc - Hà Tiên với số nhân công trên 80 ngàn người với bao nhiêu gian khổ hy sinh, phải lao nhọc dai dẳng trên 5 năm trời để được như sách Đại nam Thống Nhất Chí nhận xét: "Từ ấy đường sông lưu thông. Từ kế hoạch trong nước, việc phòng giữ ngoài biên cương cho tới sinh hoạt buôn bán của nhân dân đều được tiện lợi vô cùng". 

Trong chiều hướng như đã nhìn thấy ở trên, chúng ta có thể lần lượt phân tích tất cả 162 hình ảnh trên Cửu đỉnh để thấy được cái đẹp đẽ dàn tải mênh mông khắp nơi, vừa rất hiện thực mà lại vừa đầy tính biểu tượng của đất nước thân yêu tươi đẹp. Cảm động và tự hào biết bao khi đứng trước một di sản tôn quý và thiêng liêng như thế của ông cha, chắc chắn nó sẽ góp thêm một phần vào sức mạnh tiềm tàng của xứ sở trước ngưỡng cửa cuộc sống hôm nay và cả ngày mai.  -./.

Trong  "Di sản Thế giới




VVM.10.10.2025.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com