C uối thế kỷ trước có một thi sĩ tặng tôi tập thơ tình, và muốn tôi có đôi dòng cảm nhận. Tập thơ in đẹp lời thơ lãng mạn nhẹ nhàng, ý thơ sâu sắc. Ngôn ngữ trong thơ là những hình tượng đầy màu sắc của hội họa ẩn vào con chữ vọng lên từ đáy tim. Nhà thơ đã nói lên tiếng lòng nên không dùng sáo ngữ thường thấy trong những lời cường điệu tán tụng tình yêu lứa đôi. Thi sĩ đã đắm hồn vào mộng tưởng dệt nên những vần điệu, những con chữ mang đầy hình ảnh màu sắc quyến rũ của tình yêu lứa đôi trong thơ. Đây là những bài thơ tình chứa nhiều ẩn dụ nên nửa hư nửa thật tạo cho không gian trong thơ bồng bềnh mờ ảo, dẫn người đọc bước vào một thế giới mộng mị nơi đó có hai mảnh hồn yêu nhau say đắm. Từ ngàn xưa Thơ là ngôn ngữ thật thà của con tim nên tác giả không thể che dấu được khi viết lên con chữ diễn tả nỗi lòng của mình. Trong những trang thơ này, những con chữ trong tâm hồn thi nhân đã bộc bạch lời của kẻ đang yêu lỡ vướng vào lưới tình tình ngang trái nên trăn trở viết thành những vần thơ. “Thi sĩ và Nàng thơ” hai tâm hồn đầy lãng mạn, họ yêu nhau qua thơ nên lạc vào mê lộ, vướng cảnh oan trái vì hai người đều đã có gia đình! Tôi chưa hề quen biết người thơ trong thi tập, nhưng lại thương cảm cho nàng qua cách diễn đạt tài tình của thi sĩ. Phải chăng nàng cũng biết làm thơ nên đã hòa điệu với thi nhân? Đọc những bài thơ tình nồng thắm trong thi tập lòng tôi xao xuyến, thương cảm cho cuộc tình lãng mạn của hai kẻ yêu nhau thuần khiết bằng tâm tưởng, đó là tình yêu Platonic giữa hai tâm hồn đồng điệu đã ngưỡng mộ nhau, mà không nói vì sự gặp nhau quá muộn màng! Tôi bỗng cảm hứng đã làm một bài thơ, và đặt cho cái tên: “Tình Chỉ Là Mơ” để chia sẻ hồn thơ của thi sĩ: Tình trong thơ chỉ là mơ thì có gì đâu mà ái ngại! Bài thơ của tôi không phổ biến nên tác giả không hề hay biết. Sau đó tôi lại phóng hồn làm thêm bài thơ tình khác viết cho tha nhân. Tình titết trong bài hơ đều hư cấu để cho tình thơ tha thiết, lãng mạn mang ý sầu. Nhưng ý thơ vô tình đẩy thi sĩ và nàng thơ vào “Cõi Tình”.
Vì cảm hồn thơ của tác giả khi đọc được những bài thơ tình hay và độc đáo, nên tôi đã trân trọng giới thiệu thi tập đóvới các bạn văn nghệ sĩ ở Paris,. Sau đó có nhờ vài người bạn là nhạc sĩ, và trao cho họ tâp thơ nếu đọc thấy bài nào cảm thì phổ nhạc giúp. Nhưng thuở ấy, vào thập niên 90 của thế kỷ trước đã xảy ra những trận bút chiến hãi hùng trên các văn đàn ở hải ngoại, mà tác giả thi tập đó đang hăng say tham dự trận bút chiến! Những nhạc sĩ có tâm hồn đồng cảm dù muốn phổ nhạc cũng ngần ngại dính vào cuộc bút chiến!
Thơ Phổ Nhạc:
Mang thi tập về nhà lòng tôi cứ bâng khuâng chẳng biết làm sao để những vần thơ hay được nương cánh nhạc bay cao lan toả đến công chúng. Nhưng có lẽ tôi đang làm một công việc “thừa ” thật ra một bài thơ hay, tự nó đã có giá trị lâu dài. Còn thơ được phổ nhạc là muốn đem thêm chút nghệ thuật âm thanh vào trong thơ làm nổi bật hình ảnh ý thơ đầy sắc màu tính nhạc riêng, theo giai điệu trầm bổng. Một bài thơ phổ thành ca khúc hoàn hảo rất khó, vì bài thơ được phổ sẽ không bị cắt những chữ làm mất hình ảnh câu, hụt ý nghĩa của tứ thơ. Nhưng đâu phải bài thơ nào câu chữ, vần điệu cũng chuẩn luật, cũng có tính nhạc! Có những bài thơ câu chữ thiếu, cũng có những bài thơ câu chữ thừa, hoặc những câu chữ trùng ý, trùng nghĩa ở những đoạn trên. Do đó nhạc sĩ cần phải cắt xén câu chữ, sắp xếp lại cấu trúc giai điệu để hình nốt vút theo từng cung bậc của ngữ nghĩa thành tác phẩm. Những ca khúc VN được giới am tường âm nhạc nhận định gọi là hay, thường có giai điệu đẹp, lời hay, “ý của ca từ ” sâu sắc và dịu dàng êm như thơ. Tuy nhiên, trong số đó cũng có những bài thơ ngôn ngữ thơ mộc mạc, tứ thơ bình thường, nhưng được người nhạc sĩ có tài phổ sẽ làm tăng giá trị bài thơ trở thành ca khúc hay vì nhạc sĩ đã cắt xén, ráp nối câu chữ lời thơ thành ca từ nương theo tính nhạc của bài thơ để phổ. Nhưng cũng không ít những bài thơ rất hay “bị phổ” cho lấy có, hoặc để đạt số lượng nhiều nên tác giả chẳng để ý đến lời thơ, ẩn ý trong thơ mà phổ quá nhanh, vội vã để thành bản nên thiếu chất nghệ thuật làm giảm giá trị bài thơ! Những nhạc sĩ đã từng học sáng tác, tốt nghiệp nhạc viện thì việc viết một ca khúc rất dễ, nhuưg chưa chắc đã có được một ca khúc hay. Sáng tác một ca khúc, nhạc sĩ không cần vận dụng những lý thuyết hàn lâm quá phức tạp trong âm nhạc, trời đã cho họ những ưu điểm từ trong vô thức đã có một giác quan rất bén nhạy chứa sẵn lý thuyết âm nhạc trong cảm hứng khi sáng tác.
Trong kho tàng văn học nghệ thuật Việt Nam có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng chỉ nhờ sáng tác một vài bài thơ, hay ít ca khúc nhưng những sáng tác đó đã để cho đời những áng thơ hay, những giai điệu tuyệt vời: Thi sĩ Vũ Đình Liên, Thi sĩ T.T.KH, thi sĩ Hữu Loan, … Phía âm nhạc: Nhạc sĩ Đặng Thế Phong, Lê Trạch Lựu, Đoàn Chuẩn& Từ Linh, Nguyễn Văn Khánh, Lê Hoàng Long, Hiếu Nghĩa, Dzũng Chinh, Nguyễn Mỹ Ca, La Hối, Lâm Tuyền, Hoàng Nguyên, Hương Trang, Nguyễn Ánh 9....vv….Họ là những nhạc sĩ sáng tác thực tài mà trời đã ban cho một năng khiếu âm nhạc đặc biệt để thẩm thấu những nét độc đáo của âm thanh kết thành giai điệu đẹp.
Đối với những nhạc sĩ đã sáng tác họ chỉ cần một vài ca khúc để đời là mãn nguyện. Nhưng nếu nhạc sĩ nào sáng tác được hàng trăm ca khúc, trong đó có nhiều bài hay thì đó là những người có tài. Tâm hồn nhạc sĩ phải thật phong phú mới làm nổi nhiều nhạc phẩm hay, nếu không chỉ là số lượng dù viết hàng trăm ca khúc! Có những thi sĩ làm hàng trăm bài thơ mà người đời cũng chẳng biết đến, hoặc nhớ một câu! Nhưng nếu người đời chỉ nhớ vài bài, hoặc vài đoạn thơ thì cũng làm cho tâm hồn thi sĩ ấm áp. Cũng có những ca khúc nghe qua chẳng gợi lại trong lòng người thưởng thức một chút ấn tượng thì ca khúc đó sẽ bị chóng quên! Phải chăng giá trị đích thực của nghệ thuật vẫn là hướng về chân thiện mỹ để ca ngợi Tình Con Người ? Thời gian dần trôi đi, người nghệ sĩ dù có bị người đời vô tình quên tên tác giả, hay “cố tình quên” thì họ vẫn cống hiến cho đời những tác phẩm. Những tâm hồn phụng sự cho những giá trị cao đẹp đều tuyệt vời! Trong cuộc sống đầy bon chen vội vã của thế giới vật chất hôm nay, có lẽ chỉ có Tình Yêu là đáng qúy vì trong đó có cả “tình lứa đôi, tình vợ chồng, tình Cha Mẹ. ”
Sinh Hoạt Văn Học:
Nhân dịp có người bạn là Nhà báo, Nhà Biên khảo GS Đặng Văn Nhâm ở Đan Mạch qua thăm Paris đúng vào dịp Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ hức sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật. Vài nét về Ký giả Đặng Văn Nhâm: Ông là khuôn mặt kỳ cựu trong làng Báo Sài gòn trước năm 1975. Sau năm 1975 ông là một trong những khuôn mặt nổi tiếng nhất ở hải ngoại, ngoài tài năng ra c òn do những bài báo viết mạnh tay đầy chủ quan của mình! Ông là tác giả nhiều bộ sách biên khảo như Dại Từ Điển Đan Việt,Tự Điển Báo Chí, Nhận định Chính Trị, và Văn Học..vv…Ông còn là một họa sĩ vẽ tranh biếm họa trên các tạp chí Sài Gòn năm xưa vào cuối thập niên 50 đầu 60. GS Đặng Văn Nhâm kiến thức rất uyên bác, ông có khả năng viết trong ngày cho nhiều tờ báo, với nhiều đề tài khác nhau mà vẫn giữ được chất lượng.
Ngày đó, Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris có tổ chức họp bạn văn nghệ quy tụ nhiều khuôn mặt trong giới trí thức văn nghệ sĩ ở Pris. Mở đầu, một số văn nghệ sĩ đã giới thiệu những sáng tác mới của mình, hoặc trình bày một đề tài văn học. Để tham gia trong chương trình tôi đem tập thơ của người bạn phương xa gởi tặng ra giới thiệu, trích đọc vài bài thơ Quê Hương và Thơ Tình tiêu biểu trong thi tập. Để tránh sự ngộ nhận cho tác giả thi tập, tôi đã không trích dẫn những bài thơ hay của thi sĩ đó vào đây. Trong lúc đọc thơ khán phòng im lặng, mọi người đều lắng nghe từng câu chữ và khen thơ hay, nhưng có lẽ ít ai hiểu những ẩn tình ngang trái trong những bài thơ tình! Để kết thúc phần giới thiệu về thi tập, tôi đã đọc bài thơ “Tình Chỉ Là Mơ” của tôi viết tặng tác giả, như sự đồng cảm giữa những người làm thơ sống trong cõi thơ. Phải chăng ở cõi mộng và thực đó mọi sự vật cũng chỉ là mơ ? Trong văn học người ta thường xem đóa hoa là phái đẹp, và hoa hồng tượng trưng cho tình yêu. Thi sĩ Tản Đà đã diễn tả qua câu thơ:
“cái giống yêu hoa giống lạ đời,
Mắt xanh chưa lọt đã mê tơi. ”
Tản Đà
Trong bài thơ “ Tình Chỉ Là Mơ,”tôi ví hoa là nàng thơ của thi sĩ mà tình yêu đã làm tâm hồn người thiếu nữ trở nên sầu úa như đóa hoa thiếu nắng! Trong thiên nhiên, một cành hoa dù hương thơm, sắc màu rực rỡ nhưng thiếu nắng lá sẽ kém tươi tốt, cánh hoa sẽ nhợt nhạt màu. Câu thơ: “ Như mất nửa hồn theo áng mây”. Trong thi ca áng mây là hình tượng mang sắc màu hội họa. Mây là những hạt nước li ti kết tinh bồng bềnh bay trên trời như giải lụa muôn sắc trong tia nắng trời. Hình dáng mây thay đổi theo gió nhìn rất đẹp nhưng luôn cao xa không chạm tới! Ở đây mây tượng trưng cho thi sĩ kẻ đã bước vào vườn tình đầy trái cấm!
TÌNH CHỈ LÀ MƠ
Thơ thẩn vì đóa hoa thiếu nắng,
Khép mi cho lòng đỡ ngất ngây.
Bỗng dưng ta thấy đời im lặng,
Như mất nửa hồn theo áng mây!
Em đến từ vầng trăng diễm ảo,
Nhập vào thơ lưu luyến duyên tơ.
Tình cõi mộng, đường đời huyên náo,
Một thoáng phù du, sao hững hờ!
Chẳng lẽ buồn vui đều ngoảnh mặt?
Đêm về con chữ sẽ cô liêu!
Nhớ em hiu hắt sầu giăng mắt,
Em mãi là thơ trong nắng chiều.
Dù lỡ say thơ, mà quên lối,
Thì đành cho gió cuốn xa khơi.
Tình, chỉ là mơ, sao bối rối?
Quay đi …hồn nhớ mãi nụ cười!
Đỗ Bình
Tan buổi sinh hoạt, khi ra về, giáo sư Nhâm mới cho tôi biết chuyện tình trong thơ của tác giả mà tôi làm thơ tặng đó là chuyện tình thật, tác giả không vết hư cấu! Dù được nghe kể về sự nguồn của cuộc tình trong thơ, nhưng tôi chảng lưu tâm đến sự thực, hư của bài thơ trong thi tập, mà vẫn thả hồn theo áng thơ hay của tác giả. Khi đọc những trang thơ tình của người bạn thơ, tôi bỗng cảm bồi hồi nhớ cái thuở học trò tâm hồn còn đầy hương thơm mộng mị tưởng đã chìm theo dòng thời gian! Nguồn thơ trong tôi bỗng dâng cảm xúc nên làm thêm bài Cõi Tình, như thể hiện sự đồng cảm với tác giả qua thơ. Thi sĩ và nàng thơ một thứ tình Mộng Mị trên trang giấy, đó chỉ là Thơ trong thi ca của một tâm hồn thi nhân đa cảm.
CÕI TÌNH
Chiều cuối thu lá vàng bay khắp lối
Dìu em đi trong vạt nắng xanh xao.
Tóc em bay thoảng mùi hương cỏ nội,
Tình trao nhau…ôi trái cấm ngọt ngào!
Em chợt đến như cuồng phong bão nổi,
Trời bao la ta mắc cạn nhánh sông!
Dựa vai nhau hai mảnh hồn buộc vội
Ðời phù du xin giữ chút tình nồng.
Vui em nhé, dù non cao tuyết phủ,
Quên nẻo về hồn trượt xuống vực sâu,
Cứ mặc ta nơi đáy thẳm mịt mù,
Thành sương khói hóa vần thơ hư cấu.
Tình tuyệt diệu thắm nụ hôn khờ dại,
Ta vì em đành gục ngã bên đời
Dẫu ngàn sau hồn hút bóng xa xôi,
Ta vẫn nhớ …màu môi em đắm đuối.
Đỗ Bình
Dù nghe kể nhưng tôi vẫn nghĩ:
“ Có lẽ họ đang chống nhau trên lãnh vực văn bút nên khắt khe chăng?”
Tôi tự nhủ: “Ở trên đời có nhiều điều nhìn thấy cũng chưa chắc đúng, huống chi chỉ nghe đồn. Làm sao có thể hiểu hết sự bí ẩn trong tâm hồn con người, nhất là tâm hồn thi sĩ là một cõi vô tận!”
Rabindranath Tagore người Ấn Độ, là nhà thơ của tình yêu, ông cũng là nhà văn, triết gia, họa sĩ, đạo diễn, nhạc sĩ, nhà giáo dục. Nhà đại nghệ sĩ đã được giải thưởng Nobel 1913. Ông quan niệm về tình yêu:
“Tình yêu là sự toàn thiện của tâm thức, ta không yêu vì ta không hiểu, hay nói đúng hơn, ta không hiểu vì ta không yêu ” Tr
ong thơ văn cũng như ngoài đời cũng có những mối tình Nghệ sĩ rất lãng mạn và đẹp. Thi sĩ Xuân Diệu người được mệnh danh là con chim đầu đàn trong dòng thơ Tình lãng mạn của thế kỷ trước. Bài thơ Xa cách viết về tình yêu lứa đôi vẫn còn lưu truyền trongvăn học mãi hôm nay:
Xa Cách
“Có một bận em ngồi xa anh quá
Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn
Em xích gần thêm một chút: anh hờn.
Em ngoan ngoãn xích gần thêm chút nữa.
Anh sắp giận. Em mỉm cười, vội vã
Đến kề anh, và mơn trớn: "em đây!"
Anh vui liền, nhưng bỗng lại buồn ngay.
Vì anh nghĩ: thế vẫn còn xa lắm.
Đôi mắt của người yêu, ôi vực thẳm!
Ôi trời xa, vừng trán của người yêu!
Ta thấy gì đâu sau sắc yêu kiều
Mà ta riết giữa đôi tay thất vọng.
Dầu tin tưởng: chung một đời, một mộng.
Em là em, anh vẫn cứ là anh.
…."
Xuân Diệu
Thi sĩ Lưu Trọng Lư thuộc thế hệ mở đầu của phong trào Thơ Mới. Thơ của ông rất trữ tình lãng mạn, ý thơ phóng khoáng mang chút tư tưởng Tây Phương nhưng vẫn giữ nét truyền thống luân lý Đông Phương. Bài thơ Một Mùa Đông là một bài thơ đặc sắc, thanh thoát, giàu nhạc điệu được lưu truyền trong văn học mãi đến hôm nay. Bài thơ viết về một câu chuyện tình dang dở có thật của đời ông. Chuyện tình đẹp và trong sáng đó là nguyên do thúc đẩy nguồn cảm hứng trong thi sĩ dạt dào để hoàn thành một tác phẩm trữ tình để đời. Chuyện tình như một bài thơ về cuộc tình của chàng thi sĩ với một nữ sinh xinh đẹp của đất Hà Nội thuở ấy. Nàng thơ sau này trở thành một danh nhân của Việt Nam, và Thế giới. Bà là điêu khắc gia nổi tiếng trên thế giới và là thành viên của Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm khoa học, văn học và nghệ thuật châu Âu. Bà được đưa vào danh sách những tài năng lớn của nghệ thuật thế kỷ XX trong từ điển Larousse.
Một Mùa Đông
“Em là gái trong khung cửa,
Anh là mây bốn phương trời;
Anh theo cánh gió chơi vơi,
Em vẫn nằm trong nhung lụa.
Em chỉ là người em gái thôi,
Người em sầu mộng của muôn đời,
Tình em như tuyết giăng đầu núi,
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân
…
Ngày một ngày hai cách biệt nhau
Chẳng được cùng em kê gối sầu,
Khóc chuyện thế gian cười ngặt nghẽo,
Cùng cười những chuyện thế gian đau.
Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm
Em vẫn đùa nô uống rượu say.
Em có biết đâu đời vắng lạnh,
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.
Môi em đượm sặc mùi nho tươi,
Đôi má em hồng chúm nụ cười,
Đôi mắt em say màu sáng lạn,
Trán em để lỏng làn tóc rơi.
Tuy môi em uống, lòng anh say,
Lời em càng nói càng chua cay
Anh muốn van em đừng nói nữa,
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay. ”
Lưu Trọng Lư
Bốn câu thơ cuối nhà thơ đã diễn tả sự tan vỡ tình yêu đến tột cùng! Nhưng đó chỉ là tưởng tượng vì quá nhớ nàng :
“ Tuy môi em uống, lòng anh say,
Lời em càng nói càng chua cay..”
Câu thơ tình tuyệt vời!
Dù được nghe anh Nhâm kể về cuộc tình, nhưng tôi vẫn nghĩ có lẽ cái nhìn của anh đứng trên quan niệm đạo đức, quy tắc chuẩn mực của xã hội nên rất nghiêm khắc, mà không mang tâm hồn của thi sĩ đầy mơ mộng, nhưng trong đó có chứa sự bao dung tôn trọng sự khác biệt đối với tha nhân! Chẳng thế mà ngòi bút của anh sắc hơn gươm đao nên dễ làm người bật máu. Có lẽ vì bản tính khó kăn đó, nên anh rất ít bạn thân! Cho dù anh thích giao du bằng hữu bốn phương. Những người bạn của tôi ở Paris đều qúy trọng kiến thức uyên bác và tài năng sáng tác của anh, nhưng chẳng ai dám lại gần vì vẫn cảm thấy ngần ngại cây bút lành lạnh của anh ! Giáo sư Nhâm rất qúy tôi, xem tôi như một người em nên tặng cho tôi cây bút Mont Blanc, anh nói:
“Cây bút này như tấm lòng của tôi để viết những điều tử tế.”
Nhưng từ những năm sau này anh vì bận rộn viết sách nên ít liên lạc với tôi! GS Đặng Văn Nhâm qua đời năm 2017. Năm 1997 tôi chuẩn bị in tập thơ “Bóng Quê.” Ngày đó Văn Bút VN Hải Ngoại vẫn còn bị tách làm hai, giáo sư Đặng Văn Nhâm dang làm chủ tịch. Anh Nhâm muốn giúp tôi mang tập thơ qua Mỹ in, nhưng tôi đã được vợ chồng người bạn thân cũ là thi họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật và Nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh, người nữ sĩ cuối cùng trong Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, ở Na Uy lại muốn tự tay chăm sóc trình bày và in ấn tập thơ của tôi tại Na Uy. Đây là điều tế nhị vì nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật& Nguyễn Thị Vinh đang sinh hoạt cùng nhóm Văn Bút VN Hải Ngoại với người thi sĩ tặng tôi tập thơ, họ đều chống anh Nhâm. Nguyễn Hữu Nhật và tác giả tặng thơ cho tôi cả hai đều là chủ bút một tờ báo và làm thơ rất hay.
Bài thơ “Tình Chỉ Là Mơ”và bài thơ “Cõi Tình” tôi chọn đưa vào in trong thi tập với lòng yêu thơ. Tôi thường làm thơ về quê hương, về thân phận con người, nay làm được những bài thơ về tình yêu lứa đôi lãng mạn của tha nhân tôi cảm thấy vui, tập thơ sẽ có thêm màu sắc. Tôi cho in vì chỉ muốn ghi lại trên sách vài bài thơ tôi thích ở một giai đoạn mà khá nhiều bằng hữu tôi đang bút chiến. Thuở ấy tôi ra khỏi Văn Bút, đứng bên ngoài những cuộc bút chiến nên tôn trọng những suy tư, và quan niệm riêng của mỗi người. Tôi chọn lựa một thái độ đứng giữa, không nghiêng ngả bên nào quả thật rất khó khăn! Để tránh bị lôi kéo, tôi đã “tự ý ngưng gởi bài”cộng tác với các báo nhiều năm, vì không muốn bị lôi cuốn vào phe phái, nhất là không thể gởi bài cho các tờ báo mà trong đó có các bạn của tôi đang chống nhau! Cũng kể từ ngày đó tôi không còn thiết tha gởi bài cho các báo!
Chỉ vì quan niệm muốn bảo vệ giá trị đích thực của một nhà văn ! họ tiến ra tuyến đầu xung khắc nhau kịch liệt! Đã có biết bao bạn văn của tôi ở hai phía phải tạm gác bút vì ngại bị vướng mực do ngộ nhận. Thuở đó, bên nào cũng mạnh cũng tài giỏi và sắc bén như nhau, tôi ở giữa hai làn đạn nên chỉ biết thở dài sau đó lánh xa chốn tranh chấp! Tôi đến với các bạn bằng một trái tim chân tình, có lẽ thế sau bao năm dù đời có nhiều thay đổi, bằng hữu cũ có người mất người còn nhưng tình bạn xưa vẫn khắn khít còn mãi đến hôm nay. Khi tập thơ được in xong, các bạn văn vì cảm mến tôi nên đã cùng nhau tổ chức một buổi ra mắt sách rất trang trọng vào ngày 4 tháng 10 năm 1998 tại Hội Trường Quốc Tế Paris, quy tụ tất cả các văn nghệ sĩ ở Paris và khắp nơi đến. Đặc biệt những danh ca chỉ dành hát độc quyền cho các trung tâm Nhạc cũng về Paris trình diễn cho buổi ra mắt sách. Ngày ra mắt sách tôi có gởi thơ mời GS Đặng Văn Nhâm nhưng vì ở Đan Mạch xa xôi nên anh không qua dự được. Tôi gởi sách tặng, nhận được anh gọi phôn chúc mừng.
Gần hai mươi năm sau trong một lần họp bạn văn nghệ ở Paris, có người bạn văn yêu cầu tôi đọc bài thơ cũ. Để đẹp lòng người bạn tôi đã đọc. Khán phòng đẹp, trang trí ấm cúng, điều tuyệt vời là khách tham dự giữ yên lặng vì sự tôn trọng nhau. Đến lượt trình bày tác phẩm của nhà thơ, nhà biên khảo nổi tiếng ở Paris, với một giọng trầm buồn anh chậm rãi kể lại một câu chuyện tình trong văn học, khách hiện diện trong khán phòng im lặng chú ý nghe câu chuyện rất hay, nhưng có lẽ không hiểu những đièu bí ẩn trong câu chuyện! Ngoại trừ tôi và anh, vì người đàn bà trong thơ đó có một thời là chị dâu của anh. Tôi chợt hồi tưởng lại một số bài thơ trong thi tập và bỗng cảm xót xa cho một người đàn bà đã có gia đình rất yêu thơ văn nên thích sống bằng mộng tưởng. Người đó tình cờ gặp được người thi sĩ tác giả những bài thơ mà mình yêu thích nên hai người trân trọng nhau. Từ đó họ trở thành đôi bạn ngưỡng mộ nhau qua thơ văn. Người thi sĩ có tài làm thơ nên đã viết những vần thơ rất trữ tình nửa hư nửa thật để tặng đời. Phải chăng vì thi sĩ đẩy cảm súc lên tột cùng để cho vần thơ thật lãng mạn, mượn hình ảnh nàng thơ để sáng tác nên ngôn ngữ thơ trở thành mời gọi quyến rũ tâm hồn nàng, để rồi thi sĩ và nàng thơ đã thật sự bị đắm đuối?!
Ở Tây phương mấy thế kỷ trước Thi Văn hào Victor Hugo người Pháp đã nói câu để đời:“Chết vì thiếu tình yêu thì ghê gớm qúa. Đó là sự chết ngạt của tâm hồn.”
Tình yêu vẫn là nguồn cảm hứng bất tận của người làm thơ, đó còn là nơi chỗ trú ngụ để tâm hồn thi nhân bay bổng vào cõi diễm tuyệt trước
khi về thiên thu. Dù tác phẩm hư cấu hay chuyện thật thì sáng tác của thi nhân vẫn góp cho đời những những vần thơ hay, áng thơ đẹp làm xao xuyến lòng. Trên đời có cái gì tồn tại mãi mà chẳng tàn phai theo thời gian? Kỷ niệm tình nếu còn chăng chỉ còn lại trên trang sách. Mai sau những người yêu thơ nếu tình cờ đọc lại trang thơ cũ chắc sẽ bồi hồi cảm súc vần thơ, nhưng có ai thương cảm nỗi lòng thi nhân? Người thi sĩ ngày đó nay tóc đã bạc phơ, cuôc tình trong thơ năm xưa đã bay theo gió. Nhưng những vần thơ say đắm tình vẫn cô đơn nằm yên trên trang sách. Cho dù nhà thơ có muốn quên nàng thơ nhưng hồn thi nhân vẫn nhớ mãi nụ cười của người tình năm đó? Những mối tình lứa đôi dù dang dở hay trọn vẹn thì vẫn giúp cho thi nhân có thêm nguồn cảm hứng dệt cho đời những áng thơ tình muôn sắc.
-./.
<
Ghi Chú
*Thi, Họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật qua đời 2014
*Nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh người cuối cùng của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, qua đời 8.1.2020
*GS Đăng Văn Nhâm qua đời 2017.