N
hân đọc bài « Huý nhật cố thi sĩ Đông Hồ tại Kiên Giang » của tác giả Tiểu Lư Khê, đăng trên tạp chí Bách Khoa số 343, trang 55 – 61; xuất bản năm 1971
Thầy cô và các bạn thân mến, đối với người Hà Tiên, nói đến tên tuổi Đông Hồ thì chúng ta đều nghĩ đến nhà giáo, nhà thi sĩ cùng quê có tên chánh thức là Lâm Tấn Phác…, còn đối với nền văn học miền Nam lúc còn thịnh hành phong trào dùng Quốc Ngữ và làm thơ mới, tên tuổi Đông Hồ gắn liền với những chi tiết: Trí Đức Học Xá, Nam Phong, Phụ Nữ Tân Văn, Bốn Phương…v…v…
Thật vậy, trên một tấm bia lưu niệm tại căn nhà mang tên “Đông Hồ Thi Nhân Kỷ Niệm Đường” tại Hà Tiên có ghi tóm tắt tiểu sử Đông Hồ như sau: “ Họ Lâm, húy Tấn Phác, tự Thạc Chi, sinh tháng Hai năm Bính Ngọ ( 10 tháng Ba 1906) tại Mỹ Đức-Hà Tiên, là nhà thơ, nhà văn, cộng tác với các báo Nam Phong tạp chí, Đông Pháp thời báo, Tân Văn, Bách Khoa, Văn.. v.. v. Chủ trương tuần báo Sống và đặc san Nhân Loại. Là giảng viên tại đại học Văn Khoa Sài Gòn. Mất ngày 25 tháng Ba 1969 ngay trên bục giảng đường trong một cơn xúc động, cảm khái khi ngâm thơ.” (1)
Ngày 25 tháng Ba năm 1969, tại giảng đường trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, trong khi đang ngâm giảng bài thơ vịnh Hai Bà Trưng của
Nữ Sĩ Ngân Giang, thầy Đông Hồ đã ngã xỉu xuống tại bục giảng, sau đó được các sinh viên dìu đở và đưa đi bệnh viện, tuy nhiên thầy đã mất cùng
ngày hôm đó. Nội dung bài thơ như sau :
Ải Bắc quân thù kinh gió ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá
Chênh chếch trăng tà bóng lẻ soi !
Vì tác giả bài thơ và hai Bà Trưng mang cùng nữ tính, nữ sĩ Ngân giang đã đề cập tới một khía cạnh tình cảm mà chưa nhà thơ nào khi làm thơ ca tụng hai Bà Trưng đề cập tới. Đó là lúc khi Bà thắng trận rồi, tuy còn mặc chiến bào giáp vàng, nhưng trong lòng vẫn nguội lạnh vì chiếc khăn tang nhắc nhớ Bà nổi sầu cô phụ. Rồi đến lúc về khuya, một mình cô đơn trong điện ngọc, đối diện với vầng trăng lẻ bóng, Bà cảm thấy đau xót bi thương…Sự cảm xúc mạnh mẻ của thầy qua tâm trạng của bà Trưng qua bài thơ đó có lẽ là một trong vài nguyên do đưa đến cái chết của thầy Đông Hồ.
Qua chiều ngày 28 tháng Ba năm 1969, thầy Đông Hồ được gia đình mai táng tại nghỉa trang Mạc Đỉnh Chi, thuộc đô thành Sài Gòn lúc bấy giờ. (2)
Giới văn hữu cùng thời khi hay tin đều bàng hoàng sững sốt và tiếc thương một nhà thơ lão thành của miền Nam mà ai gặp một lần cũng đều đem lòng cảm mến. Ngay sau đó văn hữu, môn sinh đã tỏ lòng tiếc thương qua các buổi lễ truy điệu, cầu siêu, ra các đặc phẩm viết về ông. Giáo sư Phạm Việt Tuyền đã có buổi nói chuyện tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn ngày 27 tháng Tư năm 1969 với đề tài “Đông Hồ, nhà thơ đời mới hoài, trẻ lại mãi, tiến bộ không ngừng”, các học trò thầy Đông Hồ như : Đỗ Châu Huyền và Trần Đình Lập góp ý nói chuyện về kỷ niệm trong và ngoài lớp học.
Qua năm 1970, vào ngày 25 tháng Ba năm 1970, các môn sinh bộ môn Việt Hán, Văn Chương Quốc Âm như : Trần Đình Lập, Trần Nhĩ, Ngô Kim Thu nói chuyện về thầy Đông Hồ cũng tại giảng đường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn.
Đặc biệt là vào ngày 29 tháng Ba năm 1970, ngay tại chính nơi sinh trưởng của thi sĩ Đông Hồ là quận Hà Tiên, các vị thân hào nhân sĩ đã phối hợp với ban Giáo sư trường Trung Học Công Lập Hà Tiên, đã tổ chức lễ kỷ niệm thật trọng thể. Thiếu Tá quận trưởng Hà Tiên Phan Văn Cư với tư cách trưởng ban tổ chức, đã khai mạc buổi lễ bằng một bài diễn văn ứng khẩu rất long trọng, nhắc lại sự nghiệp họ Mạc và công trình văn học mà Đông Hồ đã đóng góp cho Hà Tiên. Lúc bấy giờ mình (Trần Văn Mãnh) đang theo học lớp đệ nhị (tức lớp 11 hiện nay) niên khóa 1969-1970 ở trường nầy, nếu mình nhớ không lầm thì người có công trạng nhiều trong việc tổ chức nầy là thầy Trương Minh Hiển, thầy Hiển sắp xếp chương trình buổi lễ, triển lãm sách vở và nhiều tư liệu về thi sĩ Đông Hồ vì thầy cũng chính là một trong những môn sinh của thi sĩ Đông Hồ. Toàn thể học sinh trường Trung Học Hà Tiên và cũng là học trò của thầy Trương Minh Hiển cũng tham gia tích cực vào buổi lễ nầy, nhân dịp nầy thầy Trương Minh Hiển có tặng cho mình một tập thơ của thi sĩ Đông Hồ vừa mới xuất bản vài tháng sau khi ông mất, đó là quyển « Bội Lan Hành » mà mình còn giữ đến tận ngày nay.
Qua năm sau, ngày 28 tháng Ba năm 1971, trường Trung Học Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá cùng với một số môn sinh của thầy Đông Hồ có tổ chức buổi lễ kỷ niệm đệ nhị chu niên Húy nhật cố thì sĩ Đông Hồ, địa điểm tại hội trường Ty Tiểu Học Kiên Giang, đặc biệt là buổi lễ còn được phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa bảo trợ, số người tham dự có khoảng hơn 1000 người gồm học sinh, thân hào, nhân sĩ xa gần. Ông Quốc Vụ Khanh Mai Thọ Truyền ngày trước là một người bạn đối với thi sĩ Đông Hồ khi thầy Đông Hồ còn là trưởng giáo ở trường Trí Đức Học Xá do chính thi sĩ thành lập ở Hà Tiên trong thời gian 1926 đến năm 1934, chuyên dạy toàn tiếng Việt, nhằm cổ động mọi người tin tưởng vào tương lai của tiếng Việt. Ta có thể xem đó là một ngôi trường đầu tiên ở Hà Tiên dạy về tiếng Việt, sở dĩ thầy Đông Hồ lập ra ngôi trường nầy là vì muốn làm theo thi hào người Ấn Độ Rabindranath Tagore, người lập ra ngôi trường Santiniketan theo lối giáo dục gần với thiên nhiên.
Trong buổi lễ kỷ niệm hai năm ngày mất của thi sĩ Đông Hồ nói trên, lần lược ông Đổng Lý văn phòng Quốc Vụ Khanh thay mặt ông Mai Thọ Truyền dâng hương, mặc niệm và đọc bài diển văn do chính ông Mai Thọ Truyền viết. trong bài viết nầy, ông Mai THọ Truyền nhắc lại vài kỷ niệm như sau : « Trái với một số người chỉ quen biết Đông Hồ nhờ duyên văn tự, tôi được cái may kết giao với thi sĩ vào cuối năm 1925 ngay ở Phương Thành, tại gian nhà xưa của cụ Lâm Tấn Đức, ven phá Đông Hồ, đối diện núi Tô Châu. Lúc gặp nhau lần đầu tiên tôi không khỏi cười thầm cho cái lầm quá bé của tôi. Trước khi đọc tạp chí Nam Phong, tôi đã hình dung tác giả các bài văn xuôi, văn vần dưới bút hiệu Đông Hồ là một cụ lão Nho râu thòng tới ngực. Khi diện đối diện, mới hay là một thư sinh, đúng một thư sinh, vì thầy giáo Lâm Tấn Phác rất trẻ, mới hai mươi bốn tuổi đầu, mảnh mai, trắng trẻo, ngày hai buổi, theo con đường Hàng Dừa đến trường trong chiếc áo lượt quần trắng, đầu bịt khăn đóng kiểu Bắc, chân mang giày hạ, chiếc dù đen trong tay, thật là nho nhã, thật là thuần túy Việt Nam. Càng Việt Nam hơn nữa là thầy chuyên luyện Quốc Văn và ngoài thú làm thơ, bình thơ hay chơi “đánh hồ” một lối tiêu khiển mà bây giờ ít người nghe nói và biết đến. Thú thật lúc ấy, tôi không hề nghĩ rằng «Anh» giáo vườn ấy có thể đi xa trên con đường gần như độc hành của Anh và nhất là có thể bước lên đài vinh quang của văn học nước nhà. Tôi lại một phen đoán sai nữa !… »
Tiếp theo đó giáo sư Trịnh Long Tuyền, cũng là môn sinh của thầy Đông Hồ đã lược thuật tiểu sử và sự nghiệp của thi sĩ Đông Hồ… Tiếp theo lại một môn sinh nữa, giáo sư Trương Minh Hiển, lên nói về tâm sự của Đông Hồ. Thầy Hiển căn cứ vào tác phẩm “Bội Lan Hành” xuất bản sau khi Đông Hồ từ trần, theo thầy, Đông Hồ đã gởi gắm lời di chúc của mình trong tập thơ ấy.
“Trăm kém hai dòng lệ
Gởi lại Mái Trắng Non
Gởi theo gió ly tán
Khắp Làng thơ đau buồn…”
Quan khách tham dự buổi lễ cũng nêu nhiều cảm tưởng, trong đó có linh mục Thanh Lãng đã nhân danh người bạn văn, người đồng nghiệp, người ái mộ đức độ phong cách và văn tài của cổ thi sĩ Đông Hồ đã phát biểu đại ý như sau: “…..Miền Hà Tiên Kiên Giang xưa kia đã có thành tích văn hóa với thi đàn Chiêu Anh Các của họ Mạc thì miền Hà Tiên Kiên Giang thực xứng đáng là “Đất Tổ” của Văn Học miền Nam nói riêng và Văn Học mới của Việt Nam nói chung vậy. Đông Hồ được sinh trưởng trên vùng “Đất Tổ” của nền văn học ấy đã làm rạng rỡ cho văn học và quê hương……”.
Nhà văn Sơn Nam, nguyên quán ở Kiên Giang, bằng lời nói trào lộng gây nhiều trận cười cho cử tọa. Ông đã nhấn mạnh về vị trí kinh tế và văn hóa của miền Hà Tiên Kiên Giang. Ông ca ngợi Đông Hồ tuổi trẻ mà đã biết tung ra ba độc chưởng, để làm cho tên tuổi mình sớm nổi như cồn:
a) Thứ nhất là bài “Hà Tiên Mạc Thị Sử” của Đông Hồ đăng ở Nam Phong số 143.
b) Thứ hai là bài văn «Một cuộc viếng thăm đảo Phú Quốc” và “Linh Phượng ký»:
c) Thứ ba là lập trường “Trí Đức Học Xá” dạy chuyên tiếng Việt, dạy suốt tám chín năm trường và có học trò ở khắp nơi.
Thi sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà, tác giả giả “Hoa trắng thôi cài lên áo tím” và “Lúa sạ miền Nam” nói về tình yêu quê hương, ca ngợi thi sĩ Đông Hồ tuy là thi sĩ xa quê hương mà vẫn hướng lòng về quê hương, luôn làm đẹp cho quê hương bằng những công trình văn học của mình. Thi sĩ Hà Huy Hà cũng nhắc đến các nhà văn, nhà báo đã quá cố như Trúc Hà, Lư Khê vốn được xem như là những người được ca tụng trong nhóm “Hà Tiên Tứ Tuyệt” (gồm có Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư Khê, Trúc Hà).
Tiếp theo là phần đóng góp cảm tưởng của nhà văn Mai Chưởng Đức, ông so sánh cái chết của bác sĩ Hồ Thích người Trung Hoa, chết trong học viện với cái chết tại giảng đường của Đông Hồ, đồng thời ca tụng sự nghiệp của hai nhà văn hóa cùng thời đã tranh đấu cho sự phát triển của Việt ngữ của Đông Hồ và Bạch Thoại văn của Hồ Thích.
Người cuối cùng lên phát biểu là bà Mộng Tuyết, người đang cảm xúc vì mối thương tâm trước di ảnh của người chồng quá cố là thi sĩ Đông Hồ, bà cảm kích tấm chân tình, niềm bi thiết của quý bằng hữu, môn sinh, lên bày tỏ lòng cảm tạ ban tổ chức, các cấp chánh quyền và quan khách. Linh mục Thanh Lãng cho rằng nghe bà nói người ta có cảm tưởng như nghe “một nửa của Đông Hồ”.
Sau cùng buổi lễ bế mạc bằng cuộc thưởng lãm các sách vở, di bút, các bài thơ, thiệp xuân triện son, ấn tín, các câu đối viết Quốc ngữ bằng bút lông của thi sic Đông Hồ.
Có lẽ cũng do cơ duyên nên nếu năm trước đây qua buổi lể kỷ niệm thi sĩ Đông Hồ do trường Trung Học Hà Tiên tham gia tổ chức vào năm 1970
ở Hà Tiên, mình đã có mặt lúc đó vì đang học lớp đệ nhị, đã tích cực trong buổi lễ cùng với thầy Trương Minh Hiển thì qua năm sau, 1971,
buổi lễ được tổ chức ở hội trường Rạch Giá phối hợp với trường Trung Học Nguyễn Trung Trực mà mình đã nói rõ phía trên, mình cũng có mặt
và cũng tham gia tích cực cùng với thầy Trương Minh Hiển, vì lúc nầy năm 1971 mình đã chuyển trường từ Hà Tiên qua Rạch Giá tiếp tục học
lớp đệ nhất (lớp 12 hiện nay) trường Trung Học Nguyễn Trung Trực, niên khóa 1970 – 1971, bạn học cùng lớp đệ nhất tại trường Nguyễn Trung
Trực với mình lúc nầy là Trương Thái Minh cũng tham gia tích cực vào buổi lễ nầy tại Rạch Giá. -./.
Tham khảo:
Bách Khoa, số 43, trang 26 – 29; xuất bản năm 1958-
Bách Khoa, số 124, trang 78 – 81; xuất bản năm 1962-
Bách Khoa, số 294, trang 69 – 74; xuất bản năm 1969-
Bách Khoa, số 296, trang 27 – 32; xuất bản năm 1969-
Bách Khoa, số 343, trang 55 – 61; xuất bản năm 1971
Chú thích:
(1): Hiện nay trên mạng có rất nhiều bài về Đông Hồ, ghi ngày sanh của ông là ngày 10 tháng Ba năm 1906, thiết nghĩ là một điều sai lầm vì nếu căn cứ trên tấm bia lưu niệm tại căn nhà mang tên “Đông Hồ Thi Nhân Kỷ Niệm Đường” tại Hà Tiên có ghi tóm tắt tiểu sử Đông Hồ thì ngày sinh chính xác đáng tin cậy hơn là ngày 8 tháng Ba năm 1906.
(2): Về sau, gia đình thầy Đông Hồ di dời hài cốt ông về tại an nghỉ tại núi Tô Châu, Hà Tiên trong khu mộ của tổ tiên.
Paris,06/02/2025
VVM.24.04.2025.
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá
Chênh chếch trăng tà bóng lẻ soi !
Gởi lại Mái Trắng Non
Gởi theo gió ly tán
Khắp Làng thơ đau buồn…”
Tham khảo:
Bách Khoa, số 43, trang 26 – 29; xuất bản năm 1958- Bách Khoa, số 124, trang 78 – 81; xuất bản năm 1962- Bách Khoa, số 294, trang 69 – 74; xuất bản năm 1969- Bách Khoa, số 296, trang 27 – 32; xuất bản năm 1969- Bách Khoa, số 343, trang 55 – 61; xuất bản năm 1971
Chú thích:
(1): Hiện nay trên mạng có rất nhiều bài về Đông Hồ, ghi ngày sanh của ông là ngày 10 tháng Ba năm 1906, thiết nghĩ là một điều sai lầm vì nếu căn cứ trên tấm bia lưu niệm tại căn nhà mang tên “Đông Hồ Thi Nhân Kỷ Niệm Đường” tại Hà Tiên có ghi tóm tắt tiểu sử Đông Hồ thì ngày sinh chính xác đáng tin cậy hơn là ngày 8 tháng Ba năm 1906.
(2): Về sau, gia đình thầy Đông Hồ di dời hài cốt ông về tại an nghỉ tại núi Tô Châu, Hà Tiên trong khu mộ của tổ tiên.
Paris,06/02/2025