N
hân dịp
lễ Quốc Tổ các vua Hùng, được nghỉ mấy ngày
ở nhà thư giãn tôi sực nhớ
đến bài thơ "Sơn Tinh Thủy Tinh" của nhà thơ yểu
mệnh Nguyễn Nhược Pháp (ông qua
đời khi tuổi vừa mới hai mươi bốn xuân xanh).
Bắt đầu
làm thơ từ năm 1932 tức là mới 18 tuổi, chỉ sáu năm
sau ông qua đời. Thời gian làm nhà thơ của ông thật quá
ngắn ngủi, và chỉ xuất bản được tập thơ Ngày xưa
vào năm 1935. Theo Thi nhân Việt Nam "thơ ông in ra rất
ít mà được người ta mến rất nhiều". Quả đúng
như vậy, thơ ông rất giản dị, dí dỏm không đài các
huê mỹ như nhiều người làm thơ khác. Thơ ông đọc lên
phải mỉm cười thích thú, giống như ngày xưa ở Tây Ban
Nha nếu thấy một người đang đọc một quyển sách mà
mỉm cười khoái trá thì y như rằng quyển sách đó là
Don Quichotte. Nụ cười trong thơ Nguyễn Nhược Pháp thanh
cao và trang nhã vô cùng. Chính cái duyên dáng trong thơ ông
đã làm cho rất nhiều người yêu thích. Chắc bà con yêu
nhạc còn nhớ có một dạo một nhạc sĩ đã phổ nhạc
bài Chùa Hương, nhưng vì nhạc sĩ này lúc bấy giờ chưa
được nổi tiếng nên sợ công chúng không đón nhận đứa
con tinh thần của mình nên khi ghi tên tác giả đã núp bóng
sau tên một tên tuổi lớn trong ngành nghiên cứu âm nhạc
dân tộc Việt Nam. Thế là bài hát được nhanh chóng được
phổ biến trong dân chúng đồng thời biến thành một xì
căng đan là đã mạo nhận một tên tuổi đã nổi tiếng.
Thật ra bài
hát "Em đi chùa Hương" chỉ phổ vài khổ thơ trong
khi cả bài thơ gồm 33 khổ, cho nên bài hát chẳng nêu lên
được nội dung đặc sắc của bài thơ. Xin nói thêm, đặc
biệt cuối bài thơ Chùa Hương còn có một câu chú thích
của tác giả "Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi
tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy nhau thì cô bé
còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện". Câu
này đã làm cho bài thơ thêm phần duyên dáng và hóm hỉnh.
Đó là chuyện
Chùa Hương. Rất nhiều người đã viết và cũng có rất
nhiều người đã ca ngợi. Trong khuôn khổ bài viết này
tôi xin được đề cập đến bài thơ nói về thời đại
vua Hùng Vương thứ 18, một trong những vua Hùng mà cách
đây không lâu toàn dân ta đã cử hành lễ giỗ Quốc Tổ.
Trước hết,
đọc qua bài thơ Sơn Tinh Thủy Tinh của Nguyễn Nhược Pháp
người ta thấy lối thơ bảy chữ này là của riêng ông.
Toàn bài thơ gồm 124 câu nếu chia thành từng khổ 4 câu
sẽ được 31 khổ. Tại mỗi khổ 4 câu, ta thấy câu 1 vần
với câu 3 và luôn luôn là vần trắc, còn câu 2 có cùng
vần bằng với câu 4. Trong từng câu 7 chữ không thấy theo
một qui luật nào cả mà là những câu phát biểu rất tự
nhiên nhưng không mất chất thơ. Xin đọc một đọan 8 câu
đầu nói qua về triều đại vua Hùng Vương thức 18 và
mô tả nhan sắc của Mỵ Nương:
Ngày xưa,
khi rừng mây u ám
Sông núi còn vang um tiếng thần,
Con vua Hùng Vương thứ mười tám,
Mỵ Nương xinh như tiên trên trần...
Tóc xanh viền má hây hây đỏ,
Miệng nàng bé thắm như san hô,
Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ:
Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ
Qua đoạn
thơ trên, nhà thơ đã mô tả nàng Mỵ Nương đẹp thật
và dễ thương vô cùng. Vẻ đẹp của cô làm cho bao nhiêu
tao nhân mặc khách phải ngẩn ngơ ngưỡng mộ đến nỗi
họ phải... làm thơ. Đúng, chỉ có làm thơ mới nói lên
hết nỗi nhớ nhung, tương tư đến người đẹp.
Theo tâm lý
chung, cha mẹ nào cũng có niềm kiêu hãnh khi được trời
ban cho đứa con xinh đẹp. Ông vua Hùng Vương cũng không
thoát khỏi cái tâm lý đó:
Hùng
Vương thường nhìn con yêu quá,
Chắp tay ngẩng lên trời tạ ân;
Rồi cười bảo xứng ngôi phò mã,
Trừ có ai ngang vì thần nhân.
Hay đâu thần tiên đi lấy vợ!
Sơn Tinh, Thuỷ Tinh lòng tơ vương,
Không quản rừng cao, sông cách trở,
Cùng đến Phong Châu xin Mỵ Nương.
Niềm kiêu
hãnh lên đến cao trào. Đã là con vua mà xinh đẹp như thế
này, làm gì có người "phàm" nào xứng đáng được
làm đấng phu quân. Ước gì được nấy, Hùng Vương muốn
có rể ở cấp bậc thần tiên thì có liền. Hai chàng trẻ
tuổi đẹp trai không biết từ đâu "trên trời rớt
xuống", Sơn Tinh, Thủy Tinh lặn lội đến Phong Châu
xin cưới nàng làm vợ.
Sơn
Tinh có một mắt ở trán,
Thuỷ Tinh râu ria quăn xanh rì.
Một thần phi bạch hổ trên cạn,
Một thần cưỡi lưng rồng uy nghi.
Hai thần bên cửa thành thi lễ,
Hùng Vương âu yếm nhìn con yêu.
Nhưng có một nàng mà hai rể,
Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều!
Từ trên
thành trì cao nghệu, Hùng Vương ngắm nhìn dung nhan hai chàng
sĩ tử đang nộp đơn xin làm rể đông sàng. Hùng Vương
hài lòng với phong cách thần tiên của hai chàng rể, nhưng
đột nhiên vuốt râu suy nghĩ, làm sao thỏa mãn cả hai người
khi ông chỉ có một nàng con gái. Ở đây chúng ta thấy
Sơn Tinh có một mắt ở giữa trán giống như Nhị Lang Thần
Dương Tiễn, người từng giúp Khương tử Nha phò Chu diệt
Trụ. Chỉ khác là Dương Tiễn có Hạo Thiên Khuyển giúp
sức còn Sơn Tinh thì cưỡi cọp.
Thuỷ
Tinh khoe thần có phép lạ,
Dứt lời, tay hất chòm râu xanh,
Bắt quyết hò mây to nước cả,
Dậm chân rung khắp làng gần quanh.
Ào ào mưa đổ xuống như thác,
Cây xiêu, cầu gẫy, nước hò reo,
Lăn, cuốn, gầm, lay, tung sóng bạc,
Bò, lợn, và cột nhà trôi theo.
Mỵ Nương ôm Hùng Vương kinh hãi.
Sơn Tinh cười, xin nàng đừng lo,
Vung tay niệm chú: Núi từng dải,
Nhà lớn, đồi con lổm ngổm bò
Chạy mưa. Vua tùy con kén chọn.
Mỵ Nương khép nép như cành hoa:
"Con đây phận đào tơ bé mọn,
Nhân duyên cúi để quyền mẹ cha!"
Thế là không
hẹn mà tự nhiên lại có một cuộc tỉ thí công phu võ
thuật để so sánh tài năng. Một người sử dụng "thủy
công", một người sử dụng ..."sơn công". Phép
thuật siêu phàm hai bên tỉ thí trời long đất lở làm
cho Mỵ Nương phải một phen khiếp vía. Hùng Vương cho con
gái trọn quyền chọn lựa. Thật không ngờ, ở thời buổi
hoang sơ đó đã có tục lệ "áo mặc sao qua khỏi đầu"
hay "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", khác với
bây giờ vừa có áo thun (mặc qua khỏi đầu) và "con
cái đặt đâu cha mẹ ngồi đấy". Ở đọan này Nguyễn
Nhược Pháp cho thấy Sơn Tinh giống như một hiệp sĩ sẵn
sàng ra tay cứu nhân độ thế, che chở người đẹp, một
Zorro của thời đại hoang sơ, "khi rừng mây u ám".
Vua
nghĩ lâu hơn bàn việc nước,
Rồi bảo mai lửa hồng nhuốm sương,
Lễ vật thần nào mang đến trước,
Vui lòng vua gả nàng Mỵ Nương.
Bình minh má ửng đào phơn phớt,
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngọn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lơ thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng trời
đông.
Hùng Vương
không thể nào xác định ai thắng ai nên đành phải dùng
kế hoãn binh. Có lẽ vua cũng sợ nếu bằng cách nào đó
quyết định chọn một trong hai sẽ gây ra một trường
quyết đấu, gió tanh mưa máu. Người "phàm" đấu
với nhau cũng bình thường thôi, nhưng ở đây thần tiên
đánh nhau chắc chắn sẽ gây ra tai họa ghê gớm. Cái dí
dỏm của Nguyễn Nhược Pháp ở chỗ gả con gái lấy chồng
mà phải lo nghĩ dữ dội hơn... bàn việc nước. Vua ra lệnh,
thôi thì ngày mai ai đem lễ vật đến trước sẽ bàn giao
con gái. Rồi ánh bình minh ló dạng Hùng Vương và con gái
đứng trên mặt thành chờ đợi duyên số định đọat.
Một lần nữa Mỵ Nương lại khoe sắc trước đàn chim
nhạn đang ngẩn ngơ ở lưng trời phía đông. Chúng ta cũng
biết sau này chim nhạn không chỉ ngẩn ngơ mà không còn
bay nổi và rớt xuống đất trước vẻ đẹp mê hồn của
Vương Chiêu Quân.
Rừng
xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm
điều,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Đây rồi,
duyên trời đã đưa Sơn Tinh đến trước với đầy đủ
lễ vật kể cả những lọai hàng nóng mà ngày nay coi là
quốc cấm như sừng tê, ngà voi... Đọan thơ này cho thấy
nơi cư trú của Sơn Tinh là một "khách sạn ngàn sao"
trên một ngọn núi nào đó và thần đã "đêm
sao dài không ngủ", tuy vậy sáng nay thần vẫn "ngon
cơm", vẫn còn tươi rói, quả thật là... thần tiên.
Sơn
Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương.
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng
đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: "Phụ Vương ôi! Phong Châu!"
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành.
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Giờ phút
quan trọng của hạnh phúc đời người đã đến. Sơn Tinh
đưa nàng lên kiệu từ giã vị cha già đang trông theo, lệ
nhòa đôi mắt. "Ôi cái cảnh biệt ly sao buồn vậy!".
Thoảng
gió vù vù như gió bể,
Thuỷ Tinh ngồi trên lưng rồng vàng.
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da trời quang
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân nghiến răng, thần quát:
"Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!"
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà huơ
Tay vẫy tiễn
đưa con gái vừa khuất sau rặng núi mờ xa chưa kịp buông
xuống thì Thủy Tinh đã đến dưới chân thành. Ông rể
hụt này cũng đến với đầy đủ lễ vật, với trùng
trùng điệp điệp binh tôm tướng cá, khệ nệ khiêng nhũng
hòm hải sản qúy báu, hùng dũng đi hàng hai thẳng tắp
tiến vào trình diện Hùng Vương. Nhưng than ôi, người đẹp
đã đi rồi! Nét buồn bã trên mặt vua Hùng Vương còn chưa
hết. Thủy Tinh đã nhận biết và căm thù sâu sắc, điên
tiết thét gào dữ dội. Binh tôm tướng cá hò hét quăng
cả lễ vật nhốn nháo nghe lời chủ tướng rượt đuổi
theo Sơn Tinh. Đọc đến đây chúng ta thấy Nguyễn Nhược
Pháp có trí tưởng tượng rất mạnh và làm cho chúng ta
hình dung ra cảnh trong một phim chiến tranh thời La Mã với
hàng hàng lớp lớp quân sĩ mặt mày vằn vện, kẻ đầu
trần, người đội mũ không giống ai, rượt đuổi quân
thù trên nền nhạc và âm thanh chát chúa, dồn dập.
Sơn
Tinh đang kèm theo sau kiệu,
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thuỷ Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quác mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, giơ vuốt
đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Thế là cuộc
chiến nổ ra. Sơn Tinh trên lưng cọp đang hớn hở, say đắm
cùng Mỵ Nương trên đường về chốn thần tiên chợt có
tiếng sóng gào vang dội, bạch hổ dừng chân nghe ngóng
và chẳng mấy chốc Thủy tinh cùng đoàn binh tôm tướng
cá, trùng điệp hùng hổ bủa vây. Sơn Tinh chống trả,
bùa chú quăng ra tới tấp. Cuộc chiến mười phần khốc
liệt. Tôm cá từ nhỏ tới lớn, từ cá lòng tong đến
cá voi cá mập đủ các lọai dưới biển đều nhất tề
tham chiến chống chỏi với các lọai thú dữ trong rừng
như hùm voi báo do Sơn Tinh điều khiển vô cùng lợi hại.
Thật là một trường ác đấu. Tiếng binh khí, tiếng gào
thét của các lọai thú rừng hoà trộn ầm ĩ với tiếng
kêu rú thất thanh của các loài động vật dưới biển
xưa nay từng im thin thít như thịt nấu đông.
Mỵ
Nương kinh hãi ngồi trong kiệu,
Bỗng chợt nàng kêu mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): "Ô! vì ta!"
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường
Nhà thơ Nguyễn
Nhược Pháp đã đạo diễn cuộc chiến đến đây kết
thúc, huề 0-0. Hai bên tự động thu binh về nghỉ ngơi.
Rồi từ đó mỗi năm Thủy Tinh lại đem binh đi đòi Mỵ
Nương làm cho nước biển dâng tràn gây cảnh mưa bão ngập
lụt, sinh linh đồ thán, người dân phải di cư đến các
vùng khô ráo, thị tứ để mà sinh sống. Không biết đến
bao giờ Thủy Tinh mới đòi được người đẹp My Nương.
Khác với cuộc chiến thành Troie, Hélène sau cùng phải trở
về với Ménélas làm hoàng hậu xứ Sparte.
Nổi lên
trong phong trào thơ mới, Bài Sơn Tinh Thủy Tinh của Nguyễn
Nhược Pháp khác với các thể lọai thơ khác; thường gặp
là thơ tám chữ như bài Chợ Tết của Đoàn văn Cừ:
Dãi
mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh.
Trên con đường viền trắng mép
đồi xanh
Người các ấp tưng bừng đi chợ Tết
Cuối câu
1 thanh trắc, cuối câu 2 và 3 thanh bằng và vần với nhau.
Đến cuối câu 4 trở về thanh trắc. Bài Sơn Tinh Thủy
Tinh là lọai thơ mới bảy chữ, cách gieo vần lại khác,
như trên đã nói, 1 với 3, 2 với 4. Đặc biệt có âm điệu
như một bài thơ Đường đã chuyển âm sang tiếng Hán Việt.
Xin hãy nghe âm điệu bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu:
Tích
nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư
Hạc Lâu
.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch
Hán
Dương
thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ
châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Rồi nghe
lại âm điệu bài thơ của Nguyễn Nhược Pháp:
Cá
voi quác mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
hoặc
Mây
đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Nói chung
tất cả các đọan khác của bài thơ đều giống như vậy.
Nguyễn Nhược Pháp đã thổi vào thơ mới một âm điệu
hết sức đặc biệt không thể diễn ngâm một cách du dương,
dìu dặt với tiếng đàn tiếng sáo đệm theo mà phải đọc
diễn cảm như trình bày một vở kịch thơ với lời thọai
mộc mạc giản dị mà hùng tráng.
Bởi vậy,
khi đề cập đến nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp người viết
liên tưởng ngay đến bài Sơn Tinh Thủy Tinh rồi mới nghĩ
đến cô gái duyên dáng trên đường đi đến Chùa Hương:
Em
đi chàng theo sau
Em không dám đi mau
Sợ chàng chê hấp tấp
Số gian nan không giàu.....
VVM.17.04.2025.
Sông núi còn vang um tiếng thần,
Con vua Hùng Vương thứ mười tám,
Mỵ Nương xinh như tiên trên trần...
Tóc xanh viền má hây hây đỏ,
Miệng nàng bé thắm như san hô,
Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ:
Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ
Chắp tay ngẩng lên trời tạ ân;
Rồi cười bảo xứng ngôi phò mã,
Trừ có ai ngang vì thần nhân.
Hay đâu thần tiên đi lấy vợ!
Sơn Tinh, Thuỷ Tinh lòng tơ vương,
Không quản rừng cao, sông cách trở,
Cùng đến Phong Châu xin Mỵ Nương.
Thuỷ Tinh râu ria quăn xanh rì.
Một thần phi bạch hổ trên cạn,
Một thần cưỡi lưng rồng uy nghi.
Hai thần bên cửa thành thi lễ,
Hùng Vương âu yếm nhìn con yêu.
Nhưng có một nàng mà hai rể,
Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều!
Dứt lời, tay hất chòm râu xanh,
Bắt quyết hò mây to nước cả,
Dậm chân rung khắp làng gần quanh.
Ào ào mưa đổ xuống như thác,
Cây xiêu, cầu gẫy, nước hò reo,
Lăn, cuốn, gầm, lay, tung sóng bạc,
Bò, lợn, và cột nhà trôi theo.
Mỵ Nương ôm Hùng Vương kinh hãi.
Sơn Tinh cười, xin nàng đừng lo,
Vung tay niệm chú: Núi từng dải,
Nhà lớn, đồi con lổm ngổm bò
Chạy mưa. Vua tùy con kén chọn.
Mỵ Nương khép nép như cành hoa:
"Con đây phận đào tơ bé mọn,
Nhân duyên cúi để quyền mẹ cha!"
Rồi bảo mai lửa hồng nhuốm sương,
Lễ vật thần nào mang đến trước,
Vui lòng vua gả nàng Mỵ Nương.
Bình minh má ửng đào phơn phớt,
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngọn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lơ thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng trời đông.
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương.
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: "Phụ Vương ôi! Phong Châu!"
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành.
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thuỷ Tinh ngồi trên lưng rồng vàng.
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da trời quang
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân nghiến răng, thần quát:
"Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!"
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà huơ
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui nhỉ mê ai xinh mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chân, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp,
Thuỷ Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quác mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo.
Đuôi quắp, nhe nanh, giơ vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm xông xáo,
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Bỗng chợt nàng kêu mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): "Ô! vì ta!"
Thuỷ Tinh năm năm dâng nước bể,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh.
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng đi chợ Tết
Thử địa không dư Hạc Lâu .
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Em không dám đi mau
Sợ chàng chê hấp tấp
Số gian nan không giàu.....