NGUYỄN VĂN VĨNH
- BỐI CẢNH LỊCH SỬ :
1882 -Pháp đánh chiếm
thành Hà Nội (28/04/1882).
1883 -Trận chiến đấu
cuối cùng của đảng Văn Thân giết chết đại tá Pháp
Henri Rivière ở Cầu Giấy.
-Vua Tự Đức chết, triều
đình Huế ký Hòa Ước Qúy Mùi: cả nước trở thành thuộc
địa Pháp.
1884 -Hòa Ước Patenôtre
(tháng năm Giáp Thân) nhà Thanh bên Tàu công nhận Việt Nam
là thuộc địa của Pháp, quân Cờ Đen phải rút về Tàu.
-Vua Hàm Nghi lên ngôi,
Tôn Thất Thuyết đánh Pháp ở Huế. Vua Hàm Nghi lập chiến
khu đánh Pháp, ban hành hịch Cần Vương, khắp nơi trong
nước nổi dậy chống Pháp.
1886 -Paul Bert sang tổ chức
Phủ Thống sứ Bắc Kỳ ở Hà Nội, mở học đường và
Thương Nghiệp cục.
1888 -Vua Hàm Nghi bị bắt
đưa đi đầy sang Algérie.
1889-1903 -Ông Phan Đình
Phùng tiếp tục sự nghiệp của vua Hàm Nghi.
Ngày 15/6/1882, giữa Hà-thành
mới mất vào tay Pháp, Ông bà Nguyễn Văn Trực sinh con trai
đầu lòng đặt tên là Nguyễn Văn Vĩnh ở căn nhà số
46 phố Hàng Giấy, Hà Nội. Nhà này là nhà bà Nghè Đại
Gia, bà con bên ngoại của bà Trực. Ông bà Trực là nông
dân nghèo, phải bỏ quê ra Hà Thành ở nhờ nơi đây. Hồi
đó chưa có công trình thủy nông cống Đồng Quan nên quanh
năm ngập nước, cánh đồng chiêm chỉ cấy được mỗi
năm một vụ nên nhiều dân làng đã bỏ lên tỉnh sinh sống.
Ông Trực quê ở làng Phượng Vũ, Phủ Thường Tín, Tỉnh
Hà Nội (bây giờ là Huyện Phú Xuyên, Tỉnh Hà Tây). Bà
Trực quê ở làng Đại Gia, Phủ Thường Tín, Tỉnh Hà Nội.
Giữa hai làng là con đường mang tên Thiên Lý.
1. THỜI THƠ ẤU 1882-1890:
Suốt thời thơ ấu Nguyễn
Văn Vĩnh sống ở phố Hàng Giấy, hồi đó đã trở thành
một phố cô đầu, khách làng chơi Tây, Tầu, ta lui tới
tấp nập và cũng là nơi mà những người cuối cùng của
đảng Văn Thân chọn làm nơi hoạt động chống Pháp. Gia
đình ông Trực đông con, từ 1882 tới 1890 hai ông bà sinh
được bẩy người con: hai trai (Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn
Văn Thọ) và năm gái. Kinh tế gia đình do một mình bà Trực
đảm đang bằng cách về các vùng quê mua hàng gánh ra chợ
Đồng Xuân gần nhà bán. Trong bối cảnh đó việc học
của Nguyễn Văn Vĩnh không được đến nơi đến chốn,
nho học chỉ gọi là học cho có, theo học Pháp văn thì
nhà nghèo. Cho nên ông Trực, trưởng phố, đã xin được
cho con chân kéo quạt ở trường Thông Ngôn của Pháp mở
ở Đình Yên Phụ, Hà Nội. Lúc đó ông Vĩnh mới lên tám
tuổi.
2. THỜI NIÊN THIẾU
1890-1896:
Trường Thông Ngôn do một
người Pháp tên là D'argence vừa là hiệu trưởng vừa là
giáo viên. Phương pháp dạy chủ yếu là truyền khẩu, trường
cũng có dạy a, b, c,... để học viên tập đọc, tập viết
chữ Pháp, và có dạy cả chữ Quốc ngữ (hồi đó ở ngoài
Bắc chữ này mới chỉ được dùng trong phạm vi của các
Giáo hội).
Chú bé kéo quạt ngồi
ở cuối lớp, kéo hai hàng quạt nối liền nhau, vừa quạt
mát cho cả lớp học, vừa tò mò nghe giảng; học sinh nghe
gì thì chú cũng nghe nấy. Sự chăm chú theo dõi bài học
của chú bé đã lọt vào mắt thầy D'Argence, và khi lớp
học mãn khóa (1893) ông này đã cho chú kéo quạt thi... thử!
Không ngờ chú lại đậu thứ 12 trong số 40 học sinh! Thầy
d'Argence bèn đặc cách xin cho chú học bổng và nhận chú
làm học sinh chính thức của khóa học tiếp theo, khóa thông
ngôn tòa sứ khóa 1893-1895. (Trong khóa học này ngoài thầy
d'Argence, còn có ông Đỗ Đức Toại thủ khoa khóa 1890,
cùng dậy). Chú Vĩnh đã đậu... thủ khoa khóa đó, chú
được tuyển đi làm thông ngôn tòa sứ Lào Cai và bắt
đầu cuộc đời công chức.
Như vậy là cậu Vĩnh
bước vào đời với chút vốn chữ nho học được khi còn
ở nhờ nhà Bà Nghè Đại Gia, cộng với vốn chữ Pháp
và chữ Quốc Ngữ mới học được ở trường Thông Ngôn.
Thật ra cậu thông ngôn trẻ tuổi đã học, hiểu rành rọt
Pháp Văn trước chữ quốc ngữ - thứ chữ dùng mẫu tự
la-tinh để phiên âm tiếng nói của người An-nam, thứ chữ
mà cậu sẽ tận lực phát triển và giúp nó trưởng thành
dần, mỗi ngày mỗi hoàn mỹ hơn.
3. THỜI THANH NIÊN 1896-1906:
1 - 1896: Thông Ngôn Tòa
Sứ Lào Cai.
Cậu thủ khoa được bổ
ngay lên làm việc ở Tòa Sứ Lào Cai. Pháp đang cần người
thông ngôn cho đoàn chuyên gia nghiên cứu và chuẩn bị xây
đường sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam cho Công
Ty Hỏa Xa Vân Nam. Con đường sắt này rất cần thiết cho
việc khai thác tài nguyên của thuộc địa mới.
Một chân trời mới hé
mở trước mắt cậu Vĩnh. Cậu vừa làm việc vừa say mê
học hỏi bất cứ cái gì mới lạ. Thấy cậu tò mò, khát
khao học hỏi mà lại cởi mở, lanh lợi, nên các chuyên
gia Pháp cũng mến và giúp đỡ cậu rất nhiều. Một năm
làm thông ngôn tại Lào Cai cậu Vĩnh đã học thêm được
một mớ kiến thức. Khi đoàn chuyên gia được chuyển về
Hải Phòng chuẩn bị cơ sở vật chất để xây dựng đường
sắt, cậu Vĩnh cũng được chuyển về Tòa Sứ Hải Phòng
theo họ.
2 - 1897-1901: Thông Ngôn
Tòa Sứ Hải Phòng. 1897,
Paul Doumer được cử sang
làm Toàn Quyền Đông Dương thay cho Rousseau (Toàn Quyền từ
1895 đến 1897) và được chính quốc cấp nhiều tiền hơn
Rousseau nhiều (280 triệu thay vì 80 triệu).
Ngay từ 1888 triều đình
Huế đã phải ký hiệp định nhượng hẳn Hải Phòng, Hà
Nội và Đà Nẳng cho Pháp làm thuộc địa (như toàn bộ
miền Nam). Nguyễn Văn Vĩnh lúc đó 16 tuổi được điều
về Hải Phòng đúng lúc người Pháp đang mở mang kiến
thiết bến cảng (1897). Hải Phòng được mở mang xây dựng
trước Hà Nội vì là một cảng lớn của miền Bắc và
cũng là đầu đường giao thông thuận lợi nhất để đi
sâu vào nội địa và lên tận Vân Nam, Trung Quốc. Người
Pháp đang khởi sự các công việc nạo vét sông Cửa Cấm
để tàu lớn vào được, xây dựng nhà kho, nhà máy cơ
khí Caron, trường kỹ thuật thực hành để đào tạo công
nhân cơ khí, nhà máy xi-măng, nhà máy thủy tinh, vv... tóm
lại là xây dựng toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật
để mở mang và khai thác miền Bắc.
A) Tự Học Anh, Hoa Văn,
Và Hết Chương Trình Trung Học Phổ Thông Pháp:
Công việc của cậu Vĩnh rất nhiều. Ngoài việc thông ngôn
cho các chuyên gia đón tàu nước ngoài vào cảng, cậu còn
phải tiếp nhận những vật tư kỹ thuật, hướng dẫn
các công việc bốc rỡ, vận tải và xếp kho. Hàng ngày
được giao tiếp với thủy thủ của các tàu Pháp, Anh,
Hoa... cậu Vĩnh đã học thêm tiếng Hoa và tiếng Anh để
thuận tiện cho công việc hàng ngày. Sau ba tháng cậu dịch
được hai thứ tiếng này đủ để đoàn chuyên gia Pháp
làm việc. Họ đỡ phải tuyển thông ngôn viên tiếng Anh
và tiếng Hoa, và vì vậy họ mến cậu thông ngôn người
bản xứ.
Một thủy thủ Pháp gạ
bán cho cậu một bộ sách để tự học chương trình Trung
Học Phổ Thông với giá bằng nửa tháng lương của cậu
(hồi đó là 15 đồng). Món tiền tuy là rất lớn đối
với cậu nhưng cậu cũng dốc túi để đổi lấy bộ sách
gồm: quyển Petit Larousse Illustré (từ điển Pháp có hình
vẽ) và toàn bộ Encyclopedie Autodidactique Quillet (hai quyển
sách Tự học Chương trình Trung Học Phổ Thông Pháp). Những
sách này được Nguyễn Văn Vĩnh trang trọng lưu niệm trong
một tủ kính tại tòa báo Annam Nouveau.
Từ ngày mua được sách
quý, ngoài giờ làm việc ra cậu vùi đầu vào tự học.
Trong khoảng hai năm cậu đã học hết chương trình phổ
thông và làm hết các bài tập ở trong sách. Cậu thích
thú nhất các môn triết học, chính trị và văn học, và
đã lập danh mục những sách cần phải gửi mua để học
thêm. Sau năm năm làm ở Hải Phòng cậu đã dành dụm mua
được cả một hòm sách, tài sản quí giá mà đi đâu cậu
cũng mang theo.
B) Tập Viết Những
Bài Báo Bằng Pháp Văn Và Dịch Những Quyển Sách
Đầu Tiên: Sau khi học hết chương trình trung học và
đọc những sách chính trị, triết học và tiểu thuyết
văn học Pháp, sau khi hàng ngày được đọc sách báo và
tạp chí nước ngoài đủ các loại - mượn của các thủy
thủ nước ngoài - Nguyễn Văn Vĩnh nhận thấy là dân tộc
An-nam không có chữ riêng của mình, phải dùng chữ nôm
(loại chữ bắt chước chữ nho, khó học). Ý nghĩ phát
triển chữ quốc ngữ, dễ học, để giúp cho nhiều học
hỏi mở mang kiến thức (như bản thân mình) đã nhen nhúm
trong đầu cậu từ đó.
Với ý nghĩ đó Nguyễn
Văn Vĩnh thử dịch những bài văn hay của Pháp ra Quốc
ngữ, bắt đầu bằng những bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine,
rồi đến những chuyện trẻ con của Perrault, vv... Nhưng
lúc bấy giờ chưa có báo in bằng Quốc ngữ, chỉ mới
có những tờ thông báo của tòa sứ in ra một nửa bằng
chữ nho và một nửa bằng chữ Quốc Ngữ rất thô thiển.
Ở Hải Phòng lúc bấy
giờ chỉ mới có một tờ báo "Courrier de Hải Phòng",
cậu Vĩnh bắt đầu tập viết báo bằng tiếng Pháp. Những
bài đầu tay là những tin ngắn nói về tình hình trong cảng,
tình hình xây dựng cảng, xây dựng nhà máy và thành phố.
Những bài cậu viết đều được báo nhận in; sau những
bản tin thường cậu tiến tới viết những bài nói về
sinh hoạt và nếp sống của nhân dân thành phố cảng. Cậu
trở thành cộng tác viên An-Nam đầu tiên của tờ báo.
Nguyễn Văn Vĩnh bước vào nghề báo như vậy, lúc mới
được 17 tuổi (1899).
C) Tham Gia Dạy Học
Và Nói Chuyện Ở Hội Trí Tri: Mục đích của hội là
mở mang dân trí và giúp đỡ mọi người học tập. Hội
trưởng là ông Nguyễu Hữu Thu, tức ông Thông Vôi. Cậu
Vĩnh đã tích cực giúp hội bằng cách tham gia vào việc
dạy học và nói chuyện về khoa học. Cậu cũng dạy chữ
Quốc ngữ, dạy tiếng Pháp. Ông Thông Vôi thấy cậu nói
được nhiều thứ tiếng, tuy tự học mà am hiểu nhiều
môn khoa học, chăm chỉ, nhiều nhiệt tình nên đã thay mặt
Hội Trí Tri xin học bổng cho cậu sang Pháp học Trường
Đại Học Sư Phạm để sau này về làm việc cho Hội. Nhưng
Nguyễn Văn Vĩnh đã từ chối mặc dầu Hội đã đề nghị
trả nguyên số lương của cậu cho gia đình trong lúc cậu
đi học. Cậu đã từ chối vì nhiều lý do: mẹ đã mất,
cậu là con cả trong nhà, phải chuẩn bị lập gia đình
để mau có cháu cho bố đã nhiều tuổi. (chúng ta đang ở
cuối thế kỷ thứ 19!)
D) Xây Dựng Gia
Đình: Vào năm 1900, đúng 18 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh lấy
vợ tên là Đinh Thị Tính, 19 tuổi, ở Hà Nội. Bà Đinh
Thị Tính sinh năm 1881 ở Hà Nội, nhưng cùng quê với ông
Vĩnh (phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội). Gia đình bà bỏ
quê ra Hà Nội sinh sống đã hai đời, nhà ở 12 ngõ Phất
Lộc, một ngõ cổ nhất Hà Nội cạnh cột đồng hồ trên
bờ sông Hồng. Bà Tính là con của cụ Đinh Xuân Tiên và
cụ bà Dương thị Nghị. Hai cụ có hai người con, bà Tính
là chị và em giai là Đinh xuân Quang. Sau khi cưới ở Hà
Nội, gia đình ông Vĩnh dọn xuống Hải Phòng, thuê một
căn nhà nhỏ ở phố Cầu Đất, sống đời sống của một
công chức trung bình. Ngày ngày ông đi làm, bà lo việc nhà
và đi chợ buôn bán thêm, bố ở nhà trông nhà. Tới năm
1901 sinh con trai đặt tên là Nguyễn Hải (Hải-Phòng). Ông
Vĩnh đẩy mạnh hoạt động của hội Trí Tri, viết báo,
dịch sách và tự học thêm.
3. Thông Ngôn Tòa Sứ Bắc
Giang 1902 - 1905:
Trong thập kỷ 1890 đến
1900 Pháp đã dùng Hoàng Cao Khải bình định xong được
miền Bắc: ông Nguyễn Tân Thuật phải rút quân sang Trung
Quốc, sau mất ở Nam Ninh; ông Đốc Tít ra hàng bị đầy
sang Algérie; ông Cai Kinh bị bắt; ông Đốc Ngữ ra thú.
Riêng ông Hoàng Hoa Thám vẫn giữ được vùng Yên Thế,
Pháp phải chịu hòa hoãn nhượng cho ông Đề Thám sáu tổng
gồm 27 xã và thương thuyết chấm dứt chiến tranh. Nhờ
vậy đường sắt Phủ Lạng Thương đã được hoàn thành
từ năm 1894. Tỉnh Bắc Giang lúc đó bao gồm cả Bắc Ninh.
Đầu năm 1902, ông được
điều lên làm thông ngôn tòa sứ Bắc Giang, nơi mà ông
có rất nhiều thân nhân: em ruột là thông ngôn tòa sứ
Hòa Bình, gia đình ở Bắc Ninh; vợ ông giáo Đoàn Trọng
Phan ở Bắc Ninh là em ruột của ông; vợ ông lang Phạm
Văn Uẩn nổi tiếng ở Bắc Ninh là cô của ông. Tóm lại,
về Bắc Ninh gia đình ông Vĩnh không phải lo chỗ ở và
được sống quây quần với bà con thân thuộc. Bốn năm
làm việc ở Tòa sứ Bắc Giang ông đã đạt tới tột cùng
của nghề công chức: Chánh văn phòng tòa sứ.
A). Công Sứ Hauser Và
Phó Sứ Eckert: Công sứ Bắc Giang lúc bấy giờ là Hauser,
một trí thức Pháp có đầu óc dân chủ và có ý thức
đúng đắn về nhân quyền. Hauser thuộc một gia đình có
uy tín ở bên Pháp, là một công chức cao cấp có nhiều
uy tín. Phó sứ Eckert chỉ là một nhân viên của sở mật
thám Pháp được đề bạt lên để giúp công sứ về vấn
đề an ninh.
Ông Hauser sớm nhận ra
tài năng của người thông dịch trẻ tuổi, tuy chỉ được
đào tạo sơ cấp mà nói và viết tiếng Pháp rất thành
thạo, làm được mọi công việc, thảo được mọi công
văn và báo cáo, cộng tác với nhiều tờ báo Pháp đương
thời. Tin cậy và mến tài năng, ông Hauser đã đề bạt
ông Vĩnh lên làm Chánh văn phòng Tòa sứ Bắc Giang, làm
hết những công việc mà phó sứ Eckert không (đủ khả
năng) làm. Mọi việc lớn nhỏ công sứ Hauser đều giao
cả cho ông Vĩnh tới độ mà các nhân viên toà sứ gọi
ông Vĩnh là "ông phó sứ"! Sau bốn năm làm việc,
Hauser đã coi ông Vĩnh như một cộng tác viên thân cận,
một người bạn. Ông được điều đi đâu thì ông Vĩnh
cũng được điều đi đó!
B) Tổ Tự Học Ba Người:
Trần Tấn Hằng - Phạm Huy Hồ - Nguyễn Văn Vĩnh. Giữa
phố chính của thị xã Bắc Ninh có một cửa hàng tên "Tán
Nguyên" vừa bán tạp hóa vừa bán sách tân thư Trung
Quốc, chủ nhân là một trí thức người Hoa tên Trần Tấn
Hằng. Khách hàng quen có ông nghè Phạm Huy Hồ, bạn văn
học lâu năm với chủ tiệm, thường đến đọc sách và
đàm đạo về thời sự. Tình cờ ông Vình đến mua sách
và dần dà kết bạn với hai người trí thức này. Nhờ
có dịp thường xuyên đàm đạo với họ mà ông Vĩnh hiểu
rõ hơn về cuộc cách mạng Trung Quốc, về gốc rễ của
chữ nôm và về văn hóa của dân tộc Việt Nam.
C)
Đời Sống Gia Đình: Về Bắc Giang, ông Vĩnh được
hưởng lương cao hơn, bà Đinh thị Tính buôn bán thuận
lợi hơn. Tới năm 1904 ông bà sinh thêm một cậu con trai
đặt tên là Nguyễn Giang (Bắc Giang). Gia đình nay đã có
năm người: một bố già, hai vợ chồng và hai con trai. Cuối
năm 1905, công sứ Hauser được đề bạt lên làm Đốc lý
tại Hà Nội và ông Vĩnh được điều về Tòa đốc lý
Hà Nội.
4. 1906, Thông Ngôn Tòa
Đốc Lý Hà Nội. Năm 1906 ông Vĩnh tròn 25 tuổi.
A) Về Hà Nội: Sau
năm năm tần tảo, dành dụm, từ Hải Phòng tới Bắc Giang
rồi về Hà Nội bà Vĩnh đã tậu được một căn nhà nhỏ
ở số 34 phố Mã Mây. Nhà hai tầng, gian dưới dành cho
sinh hoạt gia đình, tầng trên dành làm nơi làm việc cho
ông Vĩnh. Gian gác nhỏ trở thành nơi họp mặt bạn bè
và đồng sự. Ông có nhà là có khách: Khách hội Trí Tri,
khách trường Đông Kinh Nghĩa Thục, khách tới nhờ viết
đơn và thảo điều lệ xin thành lập trường học, hội
từ thiện và các hội khác. Bạn bè thân thiết của ông
lúc bấy giờ có các ông tân học như Phạm Duy Tốn, Phạm
Huy Lục, cựu nho như Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục.
Gia đình ông Vĩnh sống
hạnh phúc trong căn nhà nhỏ này từ 1906 tới 1921, 16 năm,
tức suốt thời gian ông Vĩnh ra sức tôi luyện chữ Quốc
Ngữ.
Ông bà đã có thêm tám người con, tổng cộng là
mười: Nguyễn Hải 1901 ở Hải Phòng, Nguyễn Giang 1905 ở
Bắc Giang, Nguyễn Thị Loan 1907, Nguyễn Thị Nội 1909, Nguyễn
Thị Vân 1913, Nguyễn Dương 1914, Nguyễn Văn Phổ 1917, Nguyễn
Kỳ 1918, Nguyễn Thị Mười 1919 và Nguyễn Dực 1921. Nguyễn
Nhược Pháp sanh ngày 12/12/1914 là con thứ bẩy của ông
Vĩnh (có với bà hai, tên Phan Thị Lựu, người thổ Lạng
Sơn, con dì con già với ông Vi Văn Định). Ông Vĩnh có với
bà ba, Suzanne Giáp Thị Thục, hai con trai là Nguyễn Hiến
và Nguyễn Phùng cũng vào khoảng thời gian này.
Hình trên được chụp
vào khỏang 1930 -1931: Ông Bà Vĩnh chụp với 3 con trai: Nguyễn
Kỳ đứng sau, trong lòng Ông Vĩnh là con trai út Nguyễn Hồ,
trong lòng bà Vĩnh là Nguyễn Dực (sinh năm 1921).
B)
Đông Kinh Nghĩa Thục, Hội Trí Tri Và Thư Viện Bình Dân:
Ngoài giờ làm việc nếu không về nhà thì ông Vĩnh tới
một trong ba nơi dưới đây:
-Trường Đông Kinh Nghĩa
Thục nơi mỗi tuần ông dành mấy tối để nói chuyện
hoặc dạy tiếng Pháp, dạy chữ Quốc ngữ, nói chung là
làm công việc nâng cao dân trí. Do dậy học ở đó mà ông
đã thân với các ông Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Hoàng
Tăng Bí, Dương Phượng Dực, vv... là những người sau này
cộng tác với ông làm báo Đăng Cổ Tùng Báo, Lục Tỉnh
Tân Văn, Đông Dương Tạp Chí và Trung Bắc Tân Văn.
-Hội Trí Tri mà ông làm
trưởng ban diễn thuyết cùng với các ông Nghiêm Xuân Quảng
và Trần Tăng Bình, mỗi tuần tổ chức một buổi nói chuyện
và giảng sách. Ông Vĩnh không chỉ nói chuyện mà còn hướng
dẫn các học viên tìm sách tham khảo, giải đáp bằng thư
những điều mà bản thân ông cũng phải tham khảo thêm.
Đây là một lối tự học của ông.
-Thư viện Bình Dân (Bibliothèque
Populaire) ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm gần đền thờ Bà Kiệu
là một thư viện dành cho người đọc được tiếng Pháp.
Hàng tháng đều có sách báo mới ở Pháp gửi về. Ở đây
ông đã làm quen được với những bạn theo Tây học là
các ông Phạm Duy Tốn, Phạm Huy Lục, Trần Trọng Kim, vv...
C) Ông Hauser Và Ông
F. H Schneider: Ông Hauser đã trở thành một quan chức
Pháp có nhiều uy tín, được điều về làm Đốc lý Hà
nội, được Phủ Thống sứ Bắc Kỳ tin tưởng giao cho
hầu hết các công việc quan trọng về văn hóa của Phủ
Thống sứ. Ông Hauser lại giao lại phần lớn công việc
này cho ông Vĩnh!
Trước tiên là việc biên
soạn và in ấn tờ Công Báo "Đại Nam Đồng Văn Nhật
Báo". Ông Hauser cử ông Vĩnh sang nhà in của F. H. Schneider
để soạn thảo và in tờ báo trên. Báo này đã xuất bản
từ trên mười năm, đã ra đến số 772... in một nửa bằng
chữ Quốc ngữ, một nửa bằng chữ nôm. Từ ngày ông Vĩnh
sang, tờ báo từ từ thay đổi và trở thành một tờ báo
ngôn luận lấy tên là "Đăng Cổ Tùng Thư" (ông
Vĩnh là chủ bút).
Schneider sang Việt Nam từ
1882, ký hợp đồng với Phủ Toàn quyền thực hiện hết
các công việc in ấn ở Đông Dương. Ông rất yêu nghề
in ấn, nhưng cho đến năm 1906 mới chỉ ra được có tờ
"Tribune Indochinoise" bằng tiếng Pháp, còn về chữ
Quốc Ngữ thì tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo và các
tờ báo khác in ở trong Nam tuy gọi là báo mà thực ra chỉ
là những thông cáo hay thông báo của chính quyền. Cho nên
khi gặp được ông Vĩnh ông Schneider nhận ra ngay người
mình đang cần, và cùng với ông Hauser ông tìm mọi cách
giúp ông Vĩnh nghỉ việc để hợp tác làm báo. Là một
người rất yêu nghề, Schneider có một ý nguyện là làm
được một tờ báo ngôn luận văn học hẳn hoi bằng chữ
Quốc ngữ, xuất bản được những sách văn học thuộc
địa và nhất là truyền lại nghề in cho người bản xứ.
Trong khi đó thì Nguyễn Văn Vĩnh đang nôn nóng truyền bá
chữ Quốc ngữ. Một bên có nhà in mà không có người viết,
một bên viết báo viết sách mà không có nhà in, hai người
hợp nhau như cá với nước vậy. Họ trở thành đôi bạn
thân thiết, dựa vào nhau, giúp nhau thực hiện ước mơ
chung và riêng: người trẻ thoát khỏi đời công chức mà
lại học được kiến thức và kinh nghiệm của nghề in
ấn; người già hoàn thành được tốt nhiệm vụ và truyền
đạt được nghề in cho người bản xứ.
Việc thứ hai Phủ Thống
sứ giao cho Tòa đốc lý Hà Nội là vận động phát triển
việc mở mang các trường học và các hội thiện, hội
nghĩa. 1902 - 1907, Toàn Quyền Beau sang thay Doumer, chủ trương
mở mang học hành và tổ chức y tế và các việc thiện.
Đốc lý Hauser được giao nhiệm vụ vận động và giúp
đỡ dân thuộc địa làm đơn và thảo điều lệ xin phép
lập các trường học và các hội, dịch ra tiếng Pháp và
đệ lên Phủ thống sứ duyệt. Hauser lại giao việc này
cho người bạn tín cẩn của mình. Vì vậy mà ông Vĩnh
đã trở thành sáng lập viên của các hội, các trường
thành lập hồi bấy giờ.
* Hội Trí Tri ở phố
Hàng Đàn mà ông là sáng lập viên đồng thời là chủ
tịch ban diễn thuyết và giảng sách. Các ông Nghiêm Xuân
Quảng và Trần Tấn Bình là ủy viên.
* Trường Đông Kinh Nghĩa
Thục ở phố Hàng Quạt mà ông thảo điều lệ và viết
đơn xin thành lập, ông cũng là giáo viên giảng dậy và
diễn thuyết.
* Hội giúp đỡ người
Việt sang Pháp học Trung học, Đại học và Kỹ thuật.
* Hội Dịch Sách và nhiều
trường, nhiều hội khác nữa.
Việc thứ ba Đốc lý
Hauser được phủ Thống sứ giao cho là việc tổ chức và
quản lý gian hàng Bắc Kỳ ở Hội chợ thuộc địa Marseille
(Exposition coloniale de Marseille). Việc này cũng như những
việc kể trên, Hauser giao lại hết cho ông Vĩnh: đề án
thu thập sản phẩm hàng hóa để trưng bầy, tuyển mộ
thợ thuyền đi Marseille để làm gian hàng. Và từ tháng
3 tới tháng 8/1906 ông Vĩnh đi Pháp dự Đấu xảo thuộc
địa Marseille với danh nghĩa là thư ký của ông Hauser, đại
lý Bắc Kỳ tại Hội chợ.
D) Bước Ngoặt:
Sáu tháng tại Pháp (1906) đã kết thúc cuộc đời công
chức của ông Vĩnh. Tháng sau cùng ở Pháp, ông Hauser đã
đưa ông Vĩnh lên Paris, giới thiệu với họ hàng và bạn
bè, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ông có nơi ăn
nơi ở và tham quan Thủ Đô Ánh Sáng. Nhờ đó mà ông Vĩnh:
° Nhận thấy rằng tại
Pháp những người Pháp Dân Chủ chân chính - như các ông
Hauser và Schneider - có rất nhiều, như các ông Pierre Vierge
và Lhermite mà ông được gặp tại Marseille. Hauser và hai
bạn mới này đã giới thiệu ông Vĩnh với Hội Nhân Quyền
(Ligue des Droits de l'homme); ông xin gia nhập liền và đã trở
thành hội viên An nam đầu tiên của Hội Nhân Quyền Pháp.
Ông nhận thấy bọn Tây thuộc địa đang thực hành một
chế độ mâu thuẫn với những khẩu hiệu Tự-Do Bình-Đẳng
Bác-Ái mà chế độ Dân Chủ luôn nêu cao.
° Được đi thăm nhà
in và nhà báo "Revue de Paris", nhà xuất bản "Hachette"
và nhà soạn tự điển "Larousse", tận mắt thấy
những phương tiện và phương pháp dùng để truyền đạt
chữ nghĩa và tư tưởng của người Pháp.
Cuộc công cán sang Pháp
năm 1906 đã kết thúc cuộc đời công chức của ông Vĩnh
và cũng là tổng kết 17 năm tự học của ông. Sang Pháp
ông được thấy tận mắt nền văn minh của một nước
tiên tiến phương Tây, thấy những mặt tích cực cũng như
tiêu cực của nó, ông được khảo sát tại chỗ nghề
làm nhà in và làm báo. Từ Pháp ông viết thư về cho bạn
bè đưa ra cái ý kiến phát triển chữ Quốc ngữ, xuất
bản nhiều sách báo để truyền bá nó... Theo ông thì "Một
dân tộc thất học có đến chín mươi phần trăm thì còn
hy vọng ngóc đầu lên sao được, nếu phái trí thức không
lo giáo dục cho bình dân là phần cốt yếu của dân tộc
ấy. Nhưng thực hành một chương trình giáo dục không phải
là việc dễ, nhất là nước mình không có một thứ chữ
riêng. Chữ Hán là chữ mượn của nước người...".
Ông nhận thức được rằng việc nâng cao dân trí là rất
quan trọng; tương lai của đất nước, của dân tộc tùy
thuộc cả vào đó. Ông viết: "...rằng tôi sẽ là người
đầu tiên để làm cái công việc đó để mà gây lấy
một tương lai tốt đẹp đó, tôi sung sướng vô cùng. Cha
mẹ, anh em, vợ con, tất cả đều phai nhòa trước tư tưởng
đó để nhường chỗ cho một lòng vui thích êm ái nhất..."
(thư gửi từ Pháp về cho bạn, 1906). Quyết tâm của ông
là:
"Làm
sao cho chữ Quốc Ngữ trở thành chữ viết của dân tộc.
"Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ Quốc Ngữ".
"Làm
sao in được thật nhiều sách báo để truyền bá chữ Quốc
Ngữ.
Như vậy
là sau mười một năm làm công chức và tự học, 25 tuổi:
* Về mặt
cá nhân và gia đình, ông Vĩnh, người con hiếu thảo, đã
là chủ một gia đình hạnh phúc với hai con trai (Nguyễn
Hải và Nguyễn Giang).
* Về văn
hóa ông đã đạt tới một trình độ khá cao, thông hiểu
được nhiều môn khoa học.
* Về Pháp
văn ông đã tìm hiểu sâu về văn học nghệ thuật, đã
viết được sách báo bằng tiếng Pháp, đã dịch được
từ Pháp sang chữ Quốc Ngữ và từ chữ Quốc Ngữ sang
chữ Pháp.
*Về chữ
Quốc Ngữ ông đã dùng được thành thạo chữ viết bằng
mẫu tự La-tinh, diễn tả được sâu sắc và bóng bẩy
mọi ý nghĩ và tình cảm của mình hơn (là bằng) chữ nho
hoặc chữ nôm, mặc dầu về hai loại chữ này ông đã
đạt tới trình độ đủ cao để hiểu thấu được những
áng văn hay.
* Về tân
tiến, ông là người Bắc kỳ đầu tiên cắt búi tó củ
hành và ăn mặc theo lối Âu tây (1906, trước khi sang Pháp).
* Về chính
trị ông là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội Nhân
Quyền Pháp (1906, khi sang Pháp). Lập trường chính trị của
ông là Trực Trị (Administration Directe) đối lập với lập
trường "Quân Chủ Lập Hiến" của Phạm Quyền.
5. Từ 1907
Tới 1936: Làm Báo
Ở Pháp về
ông Vĩnh xin từ chức và tích cực phát triển báo chí tại
Bắc kỳ. Hai ông Hauser và Schneider đã hết lòng giúp đỡ
ông trong việc này. Ngày 28-3-1907 tờ Đại Nam Đồng Văn
Nhật Báo được đổi tên thành Đăng Cổ Tùng Báo, phần
chữ Quốc Ngữ của tờ "La Tribune Indochinoise". Đăng
Cổ Tùng Báo là tờ báo ngôn luận viết bằng chữ Quốc
Ngữ đầu tiên của nước ta, do ông Vĩnh làm chủ bút.
Tờ báo đó đã được dùng là cơ quan ngôn luận của cuộc
Cách Mạng Đổi Mới do ông Phan Chu Trinh đề xuất. Ông
Vĩnh, chủ bút, viết hầu hết các thể loại, từ xã luận
đến nghiên cứu, phóng sự: ông 'lặng lẽ' thực hiện
ba phương châm "Khai dân trí, Hưng chí khí, Hậu dân
sinh" của ông Phan Chu Trinh. Năm sau, 1907, ông viết đơn
bằng tiếng Pháp xin thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục,
trường học đầu tiên dạy chữ quốc ngữ, chữ nho, chữ
Pháp không lấy tiền, do cụ cử Lương Văn Can làm đại
diện. Đông Kinh = Tonkin (miền Bắc) Nghĩa Thục = trường
học không lấy tiền. Nhưng chỉ một năm sau chính quyền
Bảo hộ nhận thấy tờ báo này theo khuynh hướng Cách Mạng
do cụ Phan Chu Trinh đề xướng nên đã giải tán trường,
đình bản báo và bắt giam các nhà nho và thanh niên Tây
học... Ông Vĩnh cũng bị bắt nhưng ông là hội viên của
Hội Nhân Quyền, lại quen biết với hai ông Hauser và Schneider
đang có thế lực nên chẳng bao lâu ông đã được thả.
Được trả
tự do, ông tiếp tục làm nhà in, xuất bản sách Tam Quốc
Chí, Kim Vân Kiều để truyền bá quốc ngữ. Ông xin ra báo
tiếng Pháp "Notre Journal" sau đổi thành "Notre
Revue" - vì báo tiếng Việt bị cấm. Mục đích của
ông là làm cho người Pháp hiểu người Annam và văn hóa
Annam.
Tới năm
1911-1912, ông Schneider được ra báo "Lục Tỉnh Tân văn"
ở Nam kỳ, mời ông Vĩnh vào làm chủ bút. Mấy năm sau,
Schneider được phép ra tuần báo "Đông Dương tạp chí"
ở Hà nội, ông Vĩnh được mời trở ra Hà nội làm chủ
bút. Tuần báo này sau tách ra thành "Trung Bắc Tân văn"
ra ba số mỗi tuần, "Đông Dương tạp chí" trở
thành tờ "Học Báo".
1918 ông Schneider
về hưu, toàn bộ tài sản của ông ở Bắc kỳ (nhà in
và hai tờ báo trên) được nhường lại cho ông Vĩnh. Ông
Vĩnh trở thành chủ nhà in và chủ nhiệm hai tờ báo "Trung
Bắc tân văn"' và "Học Báo" (hậu thân của
tờ "Đông Dương Tạp Chí" - bị Albert Sarraut đóng
cửa). Tới thời gian này, các trường thi chữ nho được
bãi bỏ (công cuộc truyền bá chữ quốc ngữ kể như đã
thành công vậy). Ông viết báo bằng chữ Pháp, bằng chữ
Quốc ngữ (dưới ngót mười bút danh khác nhau), tổng cộng
có tới vạn bài - mà cho tới nay con, cháu, chắt vẫn chưa
thu thập, sao chép lại được hết, ông dịch thơ, dịch
sách... Ông làm việc ngày đêm với một nghị lực phi thường,
nuôi sống hai tờ báo và nhà in.
1922 ông Vĩnh
được cử đi dự đấu xảo thuộc địa (lần thứ hai)
cùng với ông Phạm Quỳnh và Phạm Duy Tốn. Nhân dịp này
ông đã đi thăm thủ đô Berlin, quê hương của Guttenberg,
người sáng chế ra máy in. Ông nảy ra ý đổi mới nhà
in của ông Schneider để lại. Thế là khi về nước ông
đã thế chấp nhà in và tài sản để vay tiền Ngân Hàng
Đông Dương đầu tư cho công việc đó. Tới năm 1927, cùng
với một người Pháp (ông Vayrac) ông lập ra bộ tùng-thư
gọi là "Âu Tây tư tưởng" (La Pensée de l'Occident)
để xuất bản các tác phẩm dịch chữ Pháp của ông.
1930, năm
kinh tế khủng hoảng tại nhiều nước, kinh tế Đông Dương
lâm vào tình trạng đình đốn nguy kịch, sách báo không
bán được. Ông Vĩnh "nhà báo có tài nhưng lại là
nhà chính trị vụng về..." (như Albert Sarraut đã nhận
xét) đã vừa đương đầu với "giới tài phiệt thuộc
địa", vừa đả kích giới quan lại tham nhũng, vừa
hô hào "trực trị". Ông có nhiều kẻ thù và kinh
tế khủng hoảng là dịp để họ "hạ" ông. Ngân
Hàng Đông Dương đòi ông trả nợ ngay, ông không trả được,
nhà in và nhà cửa bị tịch thu bán đấu giá. Ông lâm vào
tình trạng phá sản trắng tay. Ông tổ chức lập hội buôn,
gom cổ phần ra báo tiếng Pháp "L'Annam Nouveau" (1931).
Và trong suốt năm năm, ông đã viết hàng ngàn bài xã luận,
phóng sự... Khi Bảo Đại về nước, ông được mời vào
Huế làm quan (như ông Phạm Quỳnh) nhưng ông đã từ chối.
Ông có viết bài phóng sự "Từ Triều Đình Huế trở
về" thẳng thắn nêu ra sự vô ích của một bộ máy
cai trị tự nó chẳng có quyền hành gì (nay ta gọi là bù
nhìn)... Toàn bộ bài báo này sẽ được giới thiệu ở
phần dưới.
Không chịu
làm quan cho triều đình Huế, ông Vĩnh còn hai con đường
để lựa chọn: vào ngồi Hỏa Lò (nhà tù lớn ở Hà nội)
hay đi tìm vàng ở nước láng giềng (Lào). Hồi đó chắc
hẳn "tù" bị coi là một cái nhục ghê gớm lắm,
dầu chỉ là tù kinh tế, nên ông đã tránh cho gia đình
cái tiếng xấu (có người nhà là "một thằng tù")
và chọn con đường phiêu lưu đi tìm vàng. Nhiều người
thân đã hết lời can ngăn ông, nhưng ông không nghe. Lần
đi thứ nhất ông đã lâm bệnh, về Hà nội điều trị
mới đỡ ông lại ra đi nữa; lần này ông ngã bệnh nặng
và chết đột ngột trên đường về, trên một con thuyền
độc mộc thả trên sông Sê-băng-ghi, bản Ban-san-khup (Tchépone,
Lào) ngày 01/05/1936. Cùng đi với ông có một người bạn
Pháp tên Amédée Clementi, chủ nhiệm báo L'Argus Indochinois
và một người lái thuyền. Lúc ông trút hơi thở cuối
cùng hai người này không có mặt: họ lên bờ trú mưa...
Gia đình đang trong tình trạng cùng quẫn, nên bác sĩ Trần
văn Lai đã thu xếp với Hội Tam Điểm (Franc-Maconnerie, một
hội kín có từ thời Cách Mạng Pháp, 1789) đưa về Hà-nội
và tổ chức đám táng rất trọng thể theo nghi thức của
hội này.
Hình đám táng học giả Nguyễn Văn Vĩnh ngày 8 Tháng 5 năm 1936
Ảnh của nguyenvanvinh.net
Điều đáng
ghi nhận, điều nổi bật nhât nơi ông Vĩnh là cái trách
nhiệm mà ông tự gắn cho mình, và cái quyết tâm sắt đá
của ông: Nâng Cao Dân Trí. Theo ông thì việc mà người
trí thức phải làm trước tiên là giúp dân tộc mình thoát
khỏi "cái dốt". Ông tin rằng khi dân trí đủ cao
thì khắc sẽ "trỗi đầu lên được". Và trong
suốt 30 năm, từ 1907 tới ngày ông từ giã cõi trần (01-05-1936),
ông đã nhẫn nhục theo Pháp - nhưng bất khuất - để thực
hiện cuộc Cách Mạng Chữ Quốc Ngữ. Ít người chịu hiểu
như vậy, và không ít người đã nghi ngờ ông - gán cho
ông là "nghịch lý", thậm chí đã kết tội ông
là việt gian, phản quốc!
Để hiểu
ông hơn người đọc nên 'tắm mình' trong cái bối cảnh
bi đát thời đó, để hiểu được phần nào nỗi khổ
tâm của những nhà yêu nước đã phải chịu khuất phục
ngoại bang mạnh hơn về mọi mặt, sau khi hiểu rằng dân
trí mình lúc đó từ trên chí dưới còn quá thấp!
- ♡♡ /.
VVM.16.04.2025.




Ảnh của nguyenvanvinh.net