Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.
Đ
ó là hai câu thơ như ca dao của nhà lão thành cách mạng Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977) quê ở làng Tân Tịch huyện Tân Uyên tỉnh Biên Hòa nay là tỉnh Bình Dương. Ông là một nhà hoạt động cách mạng và là một chỉ huy quân sự tài giỏi ở miền Đông Nam Bộ thời kháng chiến chống Pháp cùng hoạt động chung với tướng Nguyễn Bình và là người đã có nhiều công xây dựng căn cứ chiến khu D thời kỳ đầu Nam Bộ kháng chiến (23/9/1945) chống Pháp lần thứ hai, nơi quê nhà ông..
Ông nổi tiếng về tài thi ca nên đã có bài thơ được truyền tụng trên các diễn đàn văn học nghệ thuật trong cả nước, đặc biệt bài thơ được mở đầu bằng hai câu thơ trên. Câu thơ đó có ý nghĩa rất sâu sắc, thắm đậm tình cảm của người Nam Bộ đối với Bắc Bộ, trong đó có Thăng Long – Hà Nội, nơi dựng nước và giữ nước đầu tiên của cha ông ta trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử.
Trong tiến trình lịch sử đó của dân tộc Việt Nam, nếu hai ngàn năm trước có đất cổ Bắc Bộ với nền văn minh lúa nước – nền văn minh sông Hồng, sông Đà của thời đại Hùng Vương thì hai ngàn năm sau ta có vùng đất mới phương Nam, trong đó Biên Hòa – Đồng Nai là nơi mở nước ở phương Nam dẫn đến nước Việt Nam có một dải non sông gấm vóc, rừng vàng biển bạc từ Bắc chí Nam, từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau, chiều dài gần 3.000 km.
Theo dòng lịch sử, năm 1558, từ câu sấm Trạng Trình của nhà tiên tri Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” mà Nguyễn Hoàng bắt đầu di chuyển dòng họ, thân thuộc vào trấn giữ Thuận Hóa, nay là Thừa Thiên – Huế. Rồi cuộc phân tranh giữa hai dòng họ Trịnh – Nguyễn kéo dài cả trăm năm đã phân chia ranh giới Nam – Bắc thành xứ Đàng ngoài và xứ Đàng trong. Từ đó, sự nghiệp khai hoang mở nước, quy dân lập ấp của chúa Nguyễn ở miền Nam cho tới tháng 2 năm Mậu Dần (1698), đoàn thuyền chiến của Kinh lược sứ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh cặp bờ Đàng Trong và quyết định đặt đại bản doanh tại Cù lao Phố (nay là phường Bửu Hòa thành phố Biên Hòa, nằm giữa sông Đồng Nai có hai cầu Ghềnh bắt qua, là đoạn đường xe lửa Nam Bắc từ thành phố Hồ Chí Minh xuyên qua trung tâm Biên Hòa đến thủ đô Hà Nội).
Thuở ấy, di dân vào đây có nhiều câu ca dao mô tả cảnh quan lẫn địa hình khá ghê rợn như sau :
Đồng Nai địa thế hãi hùng
Dưới sông sấu lội, trên bờ cọp um !
… Chèo ghe sợ sấu cạp chưn
Vào bờ sợ rắn, lên rừng sợ beo !
… Đến đây xứ sở lạ lùng
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh !
… Má ơi, đừng gã con xa
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu !
Cù lao Phố là trung tâm của xứ Đông Phố tức miền Đông Nam Bộ ngày nay, được Thống suất Kinh lược sứ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh cho lệnh “chia đất Đông Phố lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn (hay Sài Gòn – Gia Định, nay là thành phố Hồ Chí Minh). Chẳng bao lâu, vùng Đông nam Bộ trở nên trù phú đưa nông nghiệp, thương mại cùng đời sống xã hội phát triển với sự có mặt của hơn 40 ngàn hộ, tính ra có 200 ngàn dân.
Khi ấy, phương dao có câu : Nhất Đồng Nai, nhì Hai huyện (đây là huyện Tân Bình (Sài Gòn – Gia Định) và huyện Long Hồ (Vĩnh Long – Tiền Giang) mới phát triển. Hoặc : Rồng chầu xứ Huế, ngựa tế Đồng Nai. Ca dao của vùng đất mới cũng đã đổi khác :
Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng tường !
Đó còn là trai “tứ chiếng”, gái “thuyền quyên” làm nên câu cao dao cho cuộc mở đất phương Nam đầy tình sử : Đồng Nai đi dễ khó về, trai đi có vợ gái về có con !
Chẳng bao lâu, cù lao Phố trở thành Châu Đại Phố - Cảng Đại phố đầu tiên của miền Nam. Đó là thời kỳ trước Nguyễn Hữu Cảnh đặt trị sở tại đây, thời chúa Nguyễn vào năm 1679, hai nhóm di thần nhà Minh do không phục nhà Mãn Thanh nên hai tướng Dương Ngạn Địch và Trần Thắng Tài trấn thủ Quảng Đông và Quảng Tây di tản với 50 chiến thuyền đem theo 3.000 người gồm cận vệ và dòng tộc sang Đại Việt xin lập nghiệp ở Biên Hòa và Mỹ Tho. Nhóm ở Biên Hòa tới khai phá và định cư ở cù lao Phố. Việc giao thương nơi đây không bao lâu trở nên phồn thịnh. Vì thấy nơi xa xôi này của vùng đất mới mà có được một địa điểm và vị trí chiến lược về chính trị, ngoại giao, thương mại rất tốt nằm không xa biên giới đất nước chùa Tháp với xứ Đàng Trong của Đại Việt nên Thống suất Kinh lược sứ ưng chọn làm nơi đóng trị sở ban đầu.
Hơn nữa, trước khi chúa Nguyễn cho Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược cuộc đất này thuộc ngoại biên của vương quốc Chân Lạp (Cam Bốt) đang có nhiều di dân của Đàng Trong từ tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị đi tha phương cầu thực sau khi diễn ra cuộc hôn nhân giữa công chúa Ngọc Vân con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) với vua Chân Lạp Chey Chetta II vào năm 1620 và năm 1623, chúa Phúc Nguyên đưa quốc thư hỏi mượn đất Bến Nghé – Sài Côn (Sài Gòn xưa) đặt trạm thu thuế mở đầu cho công cuộc Nam tiến của dân Việt vào vùng đất mới ở phía cực nam của Tổ quốc..
Cuộc bang giao vừa mang tính hữu nghị vừa có tính cách gia đình giữa hai nước càng tạo điều kiện cho di dân Việt xâm nhập ngày càng xa hơn vào khu vực hẻo lánh của xứ Đồng Nai. Khu vực này là đất của đồng bào dân tộc Mạ, Stieng… thuộc Miền Đông Nam Bộ. Khi người Việt tới lập nghiệp ngày càng đông thì họ di tản dần lên vùng cao Lâm Đồng, Tây Nguyên. Biên giới Việt – Cam Pu Chia ngày nay chạy dọc theo phía Tây từ Tây Nguyên xuống Phước Long, qua Tây Ninh tới An Giang, Hà Tiên được định ra từ thời ấy thông qua các Kinh lược sứ Thoại Ngọc Hầu ở An Giang – Hà Tiên, Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai – Gia Định. Ngoài nhóm di cư đầu tiên người Hoa (dân Quảng Đông) lập nghiệp ở Biên Hòa, Mỹ Tho (dân tỉnh Quảng Tây), còn có nhóm Mạc Cửu ở Hà Tiên (châu Lôi – Quảng Đông) thuần phục nhà Nguyễn năm 1708. Tới đây thì toàn cõi Đại Việt đã có liền một dải từ Nam quan tới Cà mau.
Trong suốt thời gian nhà Tây Sơn thống trị đất Đàng Trong và xảy ra giao chiến giữa quân Tây Sơn với chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long đầu triều Nguyễn) từ năm 1780 tới năm 1800, toàn cõi miền Đông và miền Nam Bộ cả các hải đảo ở biển Đông và vịnh Xiêm La (nay là Thái Lan) đều thuộc về Đại Việt. Biên giới giữa Đại Việt với Cam pu chia đã phân định tương đối rõ ràng như ngày nay. Người Việt đã sống chung và đan xen từng vùng với các dân tộc thiểu số Hoa, Khmer, Chăm ở miền Đông và Nam Bộ, với Mạ, Stieng, Cơ ho, M’Nông…ở phía Bắc Đồng Nai và Tây nguyên.
Theo sách “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức dưới triều nhà Nguyễn, Đồng Nai là Nông Nại tức nước Thù Nại xưa, Bà Rịa là nước Bà Lợi và Biên Hòa trước có tên Xích Thổ (Đất Đỏ hay Xuyên Mộc) và Chu Nại là Sài Gòn nay. .. cho tới khi Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858, địa bàn này còn sót lại vương quốc Mạ mà thực dân Pháp gọi là “xứ Mọi”
Từ năm 1698, Biên Hòa được đặt là Trấn Biên Dinh, từ sau năm 1802 có tên Biên Hòa Trấn thuộc Gia Định thành. Đó còn là ý nghĩa của một “trấn” (ải) đem lại hòa bình cho biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Hiện nay, di tích của Trấn Biên được khôi phục và xây dựng ở khu đất nằm phía sau lưng sân bay Biên Hòa và khu du lịch Bửu Long (núi Bửu Long) tạo thành một khu di tích mang truyền thống lịch sử mở đất phương Nam đầy vẻ vang của Tổ quốc.
Biên Hòa còn có khu công nghiệp (I) đầu tiên ở miền Nam thời chống Mỹ cứu nước và nay có thêm khu công nghiệp II sánh vai cùng các khu công nghiệp mới ở Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh kết nối giao thoa với nhau qua xa lộ Hà Nội, đường cao tốc Dầu Giây - Long Thành, QL 13 và đường Hồ Chí Minh công nghiệp hóa xuyên Bắc Nam, xưa là đường huyết mạch tiếp tế của Miền Bắc cho Miền Nam, nay trở thành một cụm công nghiệp miền Đông Nam Bộ gắn với miền Tây Nam Bộ cùng cả nước tiến vào thời kỳ công nghiệp hóa sánh vai cùng khu vực và thế giới.
Hơn bốn thế kỷ trôi qua (1630-2012), Biên Hòa từ là vùng đất mới rừng thiêng nước độc với sương lam chướng khí, phiên trấn đầu
tiên được nhân dân và triều đình phong kiến ra sức khai phá và xây dựng để tới ngày nay đã trở thành một thành phố văn minh,
hiện đại của miền Đông Nam Bộ bên cạnh thành phố mang tên Bác là thành phố anh hùng “đi trước về sau" trong sự
nghiệp mở nước, dựng nước và bảo vệ nước. ♣ -./.
VVM.16.04.2025.
Đồng Nai địa thế hãi hùng
Dưới sông sấu lội, trên bờ cọp um !
… Chèo ghe sợ sấu cạp chưn
Vào bờ sợ rắn, lên rừng sợ beo !
… Đến đây xứ sở lạ lùng
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh !
… Má ơi, đừng gã con xa
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu !
Cù lao Phố là trung tâm của xứ Đông Phố tức miền Đông Nam Bộ ngày nay, được Thống suất Kinh lược sứ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh cho lệnh “chia đất Đông Phố lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn (hay Sài Gòn – Gia Định, nay là thành phố Hồ Chí Minh). Chẳng bao lâu, vùng Đông nam Bộ trở nên trù phú đưa nông nghiệp, thương mại cùng đời sống xã hội phát triển với sự có mặt của hơn 40 ngàn hộ, tính ra có 200 ngàn dân.
Khi ấy, phương dao có câu : Nhất Đồng Nai, nhì Hai huyện (đây là huyện Tân Bình (Sài Gòn – Gia Định) và huyện Long Hồ (Vĩnh Long – Tiền Giang) mới phát triển. Hoặc : Rồng chầu xứ Huế, ngựa tế Đồng Nai. Ca dao của vùng đất mới cũng đã đổi khác :
Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng tường !
Đó còn là trai “tứ chiếng”, gái “thuyền quyên” làm nên câu cao dao cho cuộc mở đất phương Nam đầy tình sử : Đồng Nai đi dễ khó về, trai đi có vợ gái về có con !
Chẳng bao lâu, cù lao Phố trở thành Châu Đại Phố - Cảng Đại phố đầu tiên của miền Nam. Đó là thời kỳ trước Nguyễn Hữu Cảnh đặt trị sở tại đây, thời chúa Nguyễn vào năm 1679, hai nhóm di thần nhà Minh do không phục nhà Mãn Thanh nên hai tướng Dương Ngạn Địch và Trần Thắng Tài trấn thủ Quảng Đông và Quảng Tây di tản với 50 chiến thuyền đem theo 3.000 người gồm cận vệ và dòng tộc sang Đại Việt xin lập nghiệp ở Biên Hòa và Mỹ Tho. Nhóm ở Biên Hòa tới khai phá và định cư ở cù lao Phố. Việc giao thương nơi đây không bao lâu trở nên phồn thịnh. Vì thấy nơi xa xôi này của vùng đất mới mà có được một địa điểm và vị trí chiến lược về chính trị, ngoại giao, thương mại rất tốt nằm không xa biên giới đất nước chùa Tháp với xứ Đàng Trong của Đại Việt nên Thống suất Kinh lược sứ ưng chọn làm nơi đóng trị sở ban đầu.
Hơn nữa, trước khi chúa Nguyễn cho Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược cuộc đất này thuộc ngoại biên của vương quốc Chân Lạp (Cam Bốt) đang có nhiều di dân của Đàng Trong từ tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị đi tha phương cầu thực sau khi diễn ra cuộc hôn nhân giữa công chúa Ngọc Vân con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) với vua Chân Lạp Chey Chetta II vào năm 1620 và năm 1623, chúa Phúc Nguyên đưa quốc thư hỏi mượn đất Bến Nghé – Sài Côn (Sài Gòn xưa) đặt trạm thu thuế mở đầu cho công cuộc Nam tiến của dân Việt vào vùng đất mới ở phía cực nam của Tổ quốc..
Cuộc bang giao vừa mang tính hữu nghị vừa có tính cách gia đình giữa hai nước càng tạo điều kiện cho di dân Việt xâm nhập ngày càng xa hơn vào khu vực hẻo lánh của xứ Đồng Nai. Khu vực này là đất của đồng bào dân tộc Mạ, Stieng… thuộc Miền Đông Nam Bộ. Khi người Việt tới lập nghiệp ngày càng đông thì họ di tản dần lên vùng cao Lâm Đồng, Tây Nguyên. Biên giới Việt – Cam Pu Chia ngày nay chạy dọc theo phía Tây từ Tây Nguyên xuống Phước Long, qua Tây Ninh tới An Giang, Hà Tiên được định ra từ thời ấy thông qua các Kinh lược sứ Thoại Ngọc Hầu ở An Giang – Hà Tiên, Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai – Gia Định. Ngoài nhóm di cư đầu tiên người Hoa (dân Quảng Đông) lập nghiệp ở Biên Hòa, Mỹ Tho (dân tỉnh Quảng Tây), còn có nhóm Mạc Cửu ở Hà Tiên (châu Lôi – Quảng Đông) thuần phục nhà Nguyễn năm 1708. Tới đây thì toàn cõi Đại Việt đã có liền một dải từ Nam quan tới Cà mau.
Trong suốt thời gian nhà Tây Sơn thống trị đất Đàng Trong và xảy ra giao chiến giữa quân Tây Sơn với chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long đầu triều Nguyễn) từ năm 1780 tới năm 1800, toàn cõi miền Đông và miền Nam Bộ cả các hải đảo ở biển Đông và vịnh Xiêm La (nay là Thái Lan) đều thuộc về Đại Việt. Biên giới giữa Đại Việt với Cam pu chia đã phân định tương đối rõ ràng như ngày nay. Người Việt đã sống chung và đan xen từng vùng với các dân tộc thiểu số Hoa, Khmer, Chăm ở miền Đông và Nam Bộ, với Mạ, Stieng, Cơ ho, M’Nông…ở phía Bắc Đồng Nai và Tây nguyên.
Theo sách “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức dưới triều nhà Nguyễn, Đồng Nai là Nông Nại tức nước Thù Nại xưa, Bà Rịa là nước Bà Lợi và Biên Hòa trước có tên Xích Thổ (Đất Đỏ hay Xuyên Mộc) và Chu Nại là Sài Gòn nay. .. cho tới khi Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858, địa bàn này còn sót lại vương quốc Mạ mà thực dân Pháp gọi là “xứ Mọi”
Từ năm 1698, Biên Hòa được đặt là Trấn Biên Dinh, từ sau năm 1802 có tên Biên Hòa Trấn thuộc Gia Định thành. Đó còn là ý nghĩa của một “trấn” (ải) đem lại hòa bình cho biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Hiện nay, di tích của Trấn Biên được khôi phục và xây dựng ở khu đất nằm phía sau lưng sân bay Biên Hòa và khu du lịch Bửu Long (núi Bửu Long) tạo thành một khu di tích mang truyền thống lịch sử mở đất phương Nam đầy vẻ vang của Tổ quốc.
Biên Hòa còn có khu công nghiệp (I) đầu tiên ở miền Nam thời chống Mỹ cứu nước và nay có thêm khu công nghiệp II sánh vai cùng các khu công nghiệp mới ở Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh kết nối giao thoa với nhau qua xa lộ Hà Nội, đường cao tốc Dầu Giây - Long Thành, QL 13 và đường Hồ Chí Minh công nghiệp hóa xuyên Bắc Nam, xưa là đường huyết mạch tiếp tế của Miền Bắc cho Miền Nam, nay trở thành một cụm công nghiệp miền Đông Nam Bộ gắn với miền Tây Nam Bộ cùng cả nước tiến vào thời kỳ công nghiệp hóa sánh vai cùng khu vực và thế giới.
Hơn bốn thế kỷ trôi qua (1630-2012), Biên Hòa từ là vùng đất mới rừng thiêng nước độc với sương lam chướng khí, phiên trấn đầu tiên được nhân dân và triều đình phong kiến ra sức khai phá và xây dựng để tới ngày nay đã trở thành một thành phố văn minh, hiện đại của miền Đông Nam Bộ bên cạnh thành phố mang tên Bác là thành phố anh hùng “đi trước về sau" trong sự nghiệp mở nước, dựng nước và bảo vệ nước. ♣ -./.