Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      


HOÀNG HẠC LÂU - LẦU HOÀNG HẠC



L ầu Hoàng Hạc tọa lạc tại núi Thạch Sơn nay thuộc thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, được coi là Thiên Hạ Đệ Nhất Thắng Cảnh (The First Scenery under Heaven)

Tương truyền, ngày xưa đó là một tửu quán được đông đảo tửu đồ thực khách lui tới. Một hôm một đạo sĩ ăn mặc rách rưới tới gọi rượu. Chủ quán làm lơ không thèm để ý, nhưng con trai ông ta vốn là người khoan hòa nhân hậu, đem rượu ra mời đạo sĩ mà không bao giờ hỏi tiền. Đạo sĩ thường xuyên đến quán rượu trong suốt nửa năm. Một hôm đạo sĩ cho người con chủ quán biết ông ta muốn trả tiền rượu đã uống chịu từ trước đến nay. Nhưng thay vì trả bằng tiền đạo sĩ vẽ lên vách quán một con hạc vàng. Con hạc sẽ nhảy múa mỗi khi được yêu cầu. Nghe tin này nhiều người ở khắp nơi tranh nhau đến quán uống rượu để được tận mắt chiêm ngưỡng con hạc múa. Nhờ đó gia đình ông chủ quán rượu trở nên giàu có. Một thời gian sau, vị đạo sĩ trở lại quán. Sau khi uống rượu xong, đạo sĩ vẩy tay gọi con hạc trên vách xuống nhảy múa, và ông ngồi lên lưng hạc bay đi. Từ đó quán rượu không con hạc vàng nhảy múa nữa. Ông chủ quán cho xây dựng một tòa lầu đặt tên là Hoàng Hạc Lâu (Lầu Hạc Vàng) để kỷ niệm.

Theo những gì còn được ghi chép lại, Lầu Hoàng Hạc được xây dựng đầu tiên vào năm 220 (thời Tam Quốc). Do lầu nằm một vị trí rất thuận tiện cho việc quan sát về mặt quân sự, nên không lâu sau đó nó được Tôn Quyền (nước Ngô) xây dựng thành một vọng lâu (đài quan sát). Đến đời Đường nhiều bậc thi hào làm thơ về lầu Hoàng Hạc, nơi này lại nổi tiếng và hấp dẫn nhiều khách tham quan. Trong nhiều thế kỷ, Lầu Hoàng Hạc bị tàn phá và tái thiết nhiều lần. Chỉ trong hai triều đại Minh (1368 - 1644) và Thanh (1644 - 1911) Lầu Hoàng Hạc cũng nhiều phen bị phá hủy rồi lại được xây dụng lại. Năm 1884, một trận hỏa hoạn thiêu rụi lầu này, và mãi gần một trăm năm sau nó mới được tái thiết (vào năm 1981), căn cứ theo một bản thiết kế vào đời nhà Thanh.

Lầu Hoàng Hạc hiện nay gồm năm tầng, với các đầu mái uốn cong cách điệu hình các con chim hạc đang vẫy cánh. Lầu có chiều cao tổng cộng 51,4 mét. Bốn mặt lầu được thiết kế giống nhau. Chung quanh lầu có bố trí các con hạc màu vàng bằng đồng, các khu lưu niệm và thừa lương đình.

Trong các bài thơ về Lầu Hoàng Hạc được truyền tụng từ xưa, có lẽ bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu được ngưỡng mộ hơn cả. Nhiều nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam cũng đã dịch bài này ra thơ Việt. Những bài dịch Hoàng Hạc Lâu rất hay ấy có thể tìm thấy và đọc được trong nhiều sách báo. Ở đây người viết xin giới thiệu một số bài dịch sang các ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức của các nhà Trung Hoa học Tây Phương nổi tiếng, và một bài dịch tiếng Anh của người viết.

黃 鶴樓

昔人已乘 黃鶴去,
此地空餘 黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川 歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮 鄉關何處是,
煙波江上使人愁。

崔顥

Dịch âm:

Hoàng Hạc Lâu

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu

Thôi Hiệu

Dịch nghĩa:

Người xưa đã cưỡi hạc vàng đi rồi.
Chỗ này chỉ còn lại Lầu Hoàng Hạc
Hoàng hạc một lần bay đi sẽ không bao giờ trở lại
Mây trắng còn trôi lơ lửng suốt ngàn năm
Hán Dương trời tạnh cây xanh ngắt
Cỏ thơm phơi phới trên bãi Anh Vũ
Ngày tối rồi không biết quê quán ở phương nào
Khói và sóng trên sông khiến người ta thấy buồn

. Bản dịch tiếng Anh của Herbert Allen Giles (1845 –1935)

Home Longings

Here a mortal once sailed up to Heaven on a crane,
And the Yellow-Crane Kiosque will for ever remain; But the bird flew away and will come back no morẹ
Though the white clouds are there as the white clouds of yorẹ
Away to the east lie fair forests of trees,
From the flowers on the west comes a scent-laden breeze,
Yet my eyes daily turn to their far-away home,
Beyond the broad River, its waves, and its foam.

(Chinese Poetry in English Verse, 1898)

. Bài dịch tiếng Pháp của Paul Demiéville (1894-1979):

Le Pavillon de la Grue Jaune

Monté sur une grue jaune, jadis, un homme s'en alla pour toujours;
Il ne resta ici que le Pavillon de la Grue Jaunẹ
La grue jaune, une fois partie, n'est jamais revenue;
Depuis mille ans les nuages blancs flottent au ciel, à perte de vuẹ
Par temps clair, sur le Fleuve, on distingue les arbres de Han Yang;
Sur l'Ile des Perroquets, les herbes parfumées forment d'épais massifs.
Voici le soir qui tombẹ Où donc est mon pays natal ?
Que la brume et les vagues sont tristes sur le Fleuve!

(Anthologie de la Poésie Chinoise Classique, 1962)

. Bản dịch tiếng Đức của Guenther Debons (1921 – 2005):

Der Turm zum Gelben Kranich

Auf seinem gelben Kranich flog der Weise vorseiten fort.
Der Turm zum gelben Kranich blieb allein am leeren Ort.
Und ist der Kranich einmal fortgeflogen, bleibt er uns weit.
Die Wolken aber fluten still dahin in Ewigkeit.
Dort überm Strom, ganz klar, sieht man die Bäume von Han-yang blühn;
Und auf dem Papageiensand der Gräser duftendes Grün.
Die Sonne sinkt hinab. Sag mir, wo liegt der Heimat Erde ?
Das Nebelwogen auf dem Strome macht, daß ich beklommen werde.

(Lyrik des Ostens: China, 1962)

. Bản dịch tiếng Anh của Thiếu Khanh:

YELLOW CRANE TOWER

Some one has taken the yellow crane flying away
Only the Yellow Crane Tower here now to stay
Once gone the crane would never return
For a thousand years white clouds’re in a drifting pattern
In fine weather Hanyang trees appear on the water distinctly
On the Yingwu islet fragrant grass shows its tender beauty
In late afternoon I don’t know where’s my homeland
Smoke and waves on the river make my sorrow expand




VVM.25.10.2024-NVA